Content on this page requires a newer version of Adobe Flash Player.

Get Adobe Flash player

 

 

 


THẢO CHƯƠNG CỰU ƯỚC

l Lêvi Ký l Dân Số Ký l Phục Truyền Luật Lệ Ký l Giôsuê l

Biên Soạn: Dick Woodwar


Chương 1: SÁCH LÊVI KÝ

Nhiều người khi đọc Kinh Thánh cho rằng Lêvi Ký là một sách khó hiểu. Khi đọc, người ta cảm thấy nhàm chán về những chi tiết kỹ thuật của Đền tạm trong đồng vắng, được chép khoảng một phần ba cuối sách Xuất Ê-díp-tô ký. Khi đọc đến sách Lêvi Ký họ không còn muốn đọc hết quyển Kinh Thánh.

Từ “Lêvi Ký” theo nghĩa đen là “liên quan đến người Lêvi”. Người Lêvi là những thầy tế lễ của dân Do Thái. Để hiểu sách Lêvi Ký, nhất thiết bạn phải có một chuỗi khái niệm về “Đền tạm trong đồng vắng”, là nơi những thầy tế lễ có trách nhiệm đại diện dâng sinh tế và những của lễ khác. Đền thờ Salômôn sau đó rất huy hoàng được xây dựng theo cùng kiểu mẫu với Đền tạm mà Môise dựng lên tại đồng vắng.

Một trong những điều có ý nghĩa nhất của Đền tạm là được đặt giữa trại quân của mười hai chi phái, khi dân Ysơraên lang thang trong đồng vắng suốt 40 năm. Việc Đền tạm được đặt chính giữa trại quân minh họa một vài điều. Điều răn thứ nhất đòi hỏi chúng ta phải đặt Đức Chúa Trời lên hàng đầu. Kinh Thánh dạy chúng ta phải đặt Đức Chúa Trời là trung tâm của đời sống mình. Điều nầy được minh họa qua hình ảnh Đền tạm được đặt chính giữa trại quân.
Có lẽ điều quan trọng nhất trong Đền tạm là sự hiện diện sống động của Đức Chúa Trời. Chúng ta biết rằng khi Môise hoàn tất việc xây dựng Đền tạm thì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời giáng xuống và đầy dẫy nơi chí thánh. Đây là hình bóng của Đức Thánh Linh đầy dẫy trong đời sống tín đồ ngày hôm nay.

Khi dân Ysơraên di chuyển trong đồng vắng, một đám mây xuất hiện trên Đền tạm hướng dẫn họ. Khi đám mây di chuyển hoặc dừng lại, thì dân Ysơraên cũng di chuyển hoặc dừng lại. Bằng cách nầy, đám mây đã dẫn dắt họ. Dân sự có thể đến Đền tạm để nhận sự tha thứ, để thờ phượng, hoặc nhận sự hướng dẫn từ nơi Đức Chúa Trời.

Cấu Trúc Của Đền Tạm.

Khi hiểu được ý nghĩa của Đền tạm, chúng ta hãy xem xét kỹ cấu trúc của nó. Đền tạm có một hàng rào chung quanh, làm bằng vải gai mịn. Khu vực bên trong hàng rào bao quanh Đền tạm gọi là hành lang. Hành lang của đền thờ Salômôn xây sau đó khá rộng (trên 5,5 hecta), nhưng hành lang của Đền tạm thì nhỏ hơn.

Đền Tạm.

Có vài vật dụng có tay nắm trong Đền tạm mang ý nghĩa quan trọng và tất cả đều được xỏ khoen. Điều nầy là cần thiết vì tất cả phải được khiêng đi khi di chuyển trong đồng vắng.
Vật dụng có tay nắm đầu tiên trong hành lang, ngay trước cánh cổng là bàn thờ bằng đồng. Bàn thờ nầy giống như một cái nồi lớn. Một ngọn lửa được đốt liên tục dưới bàn thờ bằng đồng. Khi kẻ phạm tội đến Đền tạm tìm kiếm sự tha tội, anh ta sẽ gặp một thầy tế lễ trước cánh cổng đi vào hành lang. Sau đó con thú mà anh ta mang đến sẽ bị giết theo như sự hướng dẫn trong sách Lêvi Ký. Cuối cùng, con thú được thầy tế lễ đặt lên bàn thờ bằng đồng. Kẻ phạm tội chờ đợi tại cổng hành lang Đền tạm và không được phép bước vào bên trong. Khi thầy tế lễ đặt con sinh tế lên bàn thờ bằng đồng và mùi thơm được dâng lên cho Đức Chúa Trời thì ông ta bước đến vật dụng thứ hai trong hành lang gọi là chậu rửa, giống như bồn tắm cho trẻ sơ sinh. Đây là nơi thầy tế lễ tự làm nghi lễ tẩy uế vì cớ tội nhân, là kẻ vẫn còn đang ở tại cổng hành lang.

Đền tạm là một cái lều đặc biệt được chia làm hai phần. Phần ngoài gọi là nơi thánh, được ngăn cách với phần trong là nơi chí thánh bằng một bức màn mỏng. Đức Chúa Trời ngự tại nơi chí thánh. Bức màn làm bằng một vật liệu vô cùng bền chắc. Josephus cho biết vài cặp ngựa kéo bức màn đó theo những hướng ngược nhau nhưng vẫn không thể làm rách nó. Một
bức màn của đền thờ Salômôn vẫn còn sử dụng trong thời Chúa Jêsus, có kích thước rộng lớn như bức màn của một nhà hát lớn.

Các sách Phúc Âm ký thuật rằng khi Chúa Jêsus chịu chết trên thập tự giá thì bức màn phân cách nơi thánh và nơi chí thánh bị xé rách từ trên xuống dưới (Mác 15:38). Đó là một trong những phép lạ trong Kinh Thánh nhưng ít người biết đến.

Có bốn vật dụng được xỏ khoen trong Đền tạm. Làm xong nghi thức rửa tay tại bồn rửa nơi sân hành lang, thầy tế lễ bèn tiến đến phần thứ nhất bên trong ngôi đền, đó là nơi thánh.Bên trái thầy tế lễ là chân đèn. Chân đèn mang ý nghĩa rất sâu nhiệm. Đây là hình bóng về Lời Đức Chúa Trời ban cho dân sự và sự mặc khải nầy hướng dẫn cho họ con đường đến gần Đức Chúa Trời. Thầy tế lễ sẽ thờ lạy Đức Chúa Trời trước chân đèn và cảm tạ về sự bày tỏ mà Ngài đã ban cho dân sự. Khi đó kẻ phạm tội vẫn còn ở ngoài hành lang đền thờ.

Bên phải là bàn để bánh trần thiết. Mục đích của nó là để nhắc nhở thầy tế lễ về biểu tượng của mana, rằng Đức Chúa Trời ban cho chúng ta lương thực hằng ngày.Thẳng đến phía trước, ngay chính giữa lối đi dẫn đến nơi chí thánh là bàn thờ xông hương. Thầy tế lễ đứng tại đây và dâng lên lời cầu thay cho kẻ phạm tội đang còn ở bên ngoài.

Đến đây thầy tế lễ sẽ quay lại và dâng của lễ chuộc tội, cầu thay cho kẻ phạm tội.Chỉ một lần trong năm, toàn thể dân sự nhóm họp lại chung quanh Đền tạm. Khi đó thầy tế lễ thượng phẩm sẽ đi xuyên qua bức màn để vào nơi chí thánh và dâng huyết con sinh vì cớ tội lỗi của hết thảy dân sự.

Khi nhìn kỹ vào Đền tạm, chúng ta cần nhận biết mỗi vật dụng trong đó là hình bóng sâu nhiệm về Chúa Jêsus. Nhờ đó chúng ta có cái nhìn thấu suốt hơn về mỗi vật dụng cách
riêng biệt.

Vật Dụng Trong Đền Tạm.

Bàn thờ bằng đồng thực sự liên hệ với Phúc Âm thời Tân ước. Sự chết của Chúa Jêsus trên thập tự giá đã hoàn tất việc dâng sinh tế trên bàn thờ bằng đồng. Bàn thờ bằng đồng nói lên rằng: “Ngươi không thể đến gần Đức Chúa Trời nếu không dâng sinh tế”, “Không đổ huyết thì không có sự tha thứ” (Hêbơrơ 9:22).
Chậu rửa tay của thầy tế lễ trước khi bước vào nơi thánh, bày tỏ điều mà Kinh Thánh luôn nhấn mạnh: “Ai sẽ được lên núi Đức Giêhôva? Ai sẽ được đứng nổi trong nơi thánh của Ngài? Ấy là người có tay trong sạch và lòng thanh khiết” (Thi thiên 24:4).

Tương giao với Đức Chúa Trời là mục đích quan trọng nhất khi đến Đền tạm. Mọi sự đều hướng về mục đích nầy. Theo Kinh Thánh, tương giao với Đức Chúa Trời thường được ví như một bữa ăn. Chậu nước nói lên điều mà mẹ thường nhắc nhở chúng ta khi còn bé: “Nhớ rửa tay trước khi ăn”. Hãy rửa tay trước khi ăn tối. Trước khi tương giao với Đức Chúa Trời,bạn cần được rửa sạch, cần được tinh sạch. Đó là điều mà chậu rửa muốn bày tỏ.

Khi thầy tế lễ đứng trước chân đèn bằng vàng cũng là lúc nhận thức rằng: Đức Chúa Trời là nguồn của mọi sự, và Lời Ngài là ánh sáng dẫn dắt cho mọi kẻ tin cậy Ngài. Thầy tế lễ thờ lạy và cảm tạ Đức Chúa Trời đã ban cho tội nhân ở bên ngoài, biết phương cách để được tha thứ và đến gần Đức Chúa Trời thánh khiết trong sự thờ phượng.

Như tôi đã trình bày từ trước, bàn để bánh trần thiết biểu tượng cho Đức Chúa Trời là nguồn sức lực của dân sự Ngài và là Đấng thỏa mãn những nhu cầu của họ. Một cách hiển nhiên, Đức Chúa Trời không muốn chúng ta quên đi một sự thật: Ngài là nguồn sức lực của chính mình. Ngài muốn chúng ta nhờ cậy Ngài trong mọi nhu cầu từ tâm linh cho đến thể xác.
Kế đến chúng ta hãy xem xét bàn thờ xông hương. Khi đứng trước bàn thờ nầy, thầy tế lễ sẽ cầu thay cho kẻ phạm tội đang ở ngoài cổng hành lang. Qua điều nầy, ông ta là hình bóng của Chúa Jêsus, thầy tế lễ cao trọng của chúng ta, là Đấng cầu thay cho chúng ta trước mặt Cha trên trời.

Kết Luận.

Mọi vật trong Đền tạm đều chỉ về Chúa Jêsus. Ngài là ánh sáng của thế gian, là bánh của sự sống, là sinh tế toàn hảo. Ngài là Đấng tẩy sạch chúng ta tại chậu rửa. Phúc Âm của Chúa Cứu Thế Jêsus thật sự được thể hiện cho chúng ta qua Đền tạm, một ngôi Đền tạm nhỏ bé. Bạn có thể hiểu sách Lêvi Ký qua hình ảnh Đền tạm bởi vì sách nầy hướng dẫn thầy tế lễ cách thi hành chức vụ. Bạn có biết rằng chính Chúa Jêsus là Đấng đã được mô tả qua chiếc lều thánh khiết nhỏ bé nầy không?

Chương 2: ĐỀN TẠM NGÀY NAY

Sáng thế Ký cho biết khi con người phạm tội đưa đến hậu quả nghiêm trọng nhất là sự phân rẽ giữa Đức Chúa Trời và loài người. Giải pháp căn bản cho nan đề nầy là sự giải hòa mà Kinh Thánh lẫn Đền tạm trong đồng vắng đều đề cập đến.

Vậy thì tại sao ngày nay chúng ta không dâng sinh tế bằng những con thú? Vì yêu cầu của Đức Chúa Trời đã thay đổi. Khi đọc sách Hêbơrơ chúng ta sẽ hiểu thêm về điều nầy.Hêbơrơ 9 trình bày rằng Đền tạm chỉ là hình bóng của Đền tạm khác ở trên trời. Đền tạm trên trời không phải làm bằng vật liệu do con người chế tạo nhưng hoàn toàn mang tính thuộc linh.

Hãy nhớ rằng khi Chúa Jêsus chịu chết trên thập tự giá, bức màn trong đền thờ Salômôn bị xé ra từ trên chí dưới. Cũng nên biết rằng thầy tế lễ thượng phẩm mỗi năm chỉ được phép vào nơi chí thánh một lần để dâng huyết con sinh tẩy sạch tội lỗi của cả dân sự. Cũng một thể ấy, khi Chúa Jêsus chết trên thập tự giá, Ngài trở nên thầy tế lễ thượng phẩm trên trời và ngự vào nơi thánh trong đền thờ trên trời. Tại bàn thờ bằng đồng nơi đền thờ trên trời, Ngài dâng chính mạng sống mình như là một sinh tế toàn hảo cuối cùng của mọi sinh tế thời Cựu ước. Ngài đến nơi chậu rửa và tẩy sạch mọi tội cho con người.

Trước khi Chúa Jêsus chịu chết, tội nhân không thể đến gần Đức Chúa Trời. Chỉ thầy tế lễ mới được phép đến gần Ngài và cầu thay cho tội nhân. Nhưng khi Chúa Jêsus chết trên thập tự giá, bạn và tôi được tự do bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

Điều quan trọng cần nhấn mạnh nữa là thân thể chúng ta nay là đền thờ của Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phaolô dạy rằng: “Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh của Đức Chúa Trời ở trong anh em sao? Vì nếu có ai phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phá hủy họ; vì đền thờ của Đức Chúa Trời là thánh, và chính anh em là đền thờ” (I Côrinhtô 3:16,17). Phaolô cố gắng bày tỏ lẽ thật nầy cho người Côrinhtô, là những kẻ dung túng tội lỗi về tình dục và viết rằng: “Thân thể anh em chẳng phải vì sự dâm dục đâu, bèn là vì Chúa. Anh em há chẳng biết thân thể mình là đền thờ của Đức Chúa Trời và Ngài ngự trong anh em sao?” (I Côrinhtô 6:16-20).

Trong Côlôse 1:27, ông viết rằng: “Vì Đức Chúa Trời muốn khiến họ biết sự giàu có vinh hiển của sự mầu nhiệm đó ở giữa dân ngoại là thể nào, nghĩa là Đấng Christ ở trong anh em, là sự trông cậy về vinh hiển”.

Chúa Jêsus ở trong bạn là một phép lạ, nghĩa là Đức Chúa Trời hiện diện trong bạn và điều đó cũng có nghĩa là bạn được trang bị mọi sự cần thiết để sống theo ý muốn của Ngài.

Bây giờ chúng ta hãy đem điều kỳ diệu của ngôi Đền tạm vào chính đời sống mình. Khi thức giấc buổi sáng, tôi ước mong bạn dành thì giờ tĩnh nguyện để thờ phượng trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, trước khi bước vào hoạt động trong ngày. Khi đó bạn hãy thử tưởng tuợng rằng mình đang bước vào Đền tạm. Bạn đến bên bàn thờ bằng đồng và tin vào điều phước hạnh: Chúa Jêsus là chiên con của Đức Chúa Trời, đã chết trên thập tự giá vì tội lỗi mình. Nếu bạn chưa hề tin cậy Chúa Jêsus là Đấng tha thứ tội lỗi mình thì bạn hãy tin cậy Ngài ngay bây giờ. Sau đó, bạn hãy cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự tha thứ trong Đức Chúa Jêsus và xác quyết rằng Ngài là sinh tế toàn hảo đối với những tội lỗi mình.

Bây giờ hãy tưởng tượng bạn đến bên chậu rửa nơi bạn rửa tay chân, nơi bạn cần sự tẩy sạch liên tục. Có điều gì trong đời sống bạn còn ô uế, không làm đẹp lòng Chúa? Hãy xưng ra với Chúa, từ bỏ chúng để được tẩy sạch. Kế đó hãy bước vào nơi thánh và đứng trước chân đèn. Hãy cảm tạ Chúa vì sự bày tỏ của Ngài, vì Ngài là Đấng cứu rỗi cuộc đời mình, vì Ngài đã ban Lời Ngài cho chính mình.

Tiếp theo hãy hình dung bạn đang đứng trước bàn để bánh trần thiết và cảm tạ Chúa vì sự tiếp trợ của Ngài. Hãy nhận biết Đức Chúa Trời là Đấng ban cho bạn mọi điều cần dùng với lòng xác quyết.

Rồi khi đến với bàn thờ xông hương, bạn hãy nghĩ đến quyền năng của sự cầu nguyện, hãy dành thì giờ cầu nguyện cách chi tiết cho từng nhu cầu và nan đề mà bạn đang đối diện trong ngày.

Sau cùng khi hướng lòng vào nơi chí thánh, bạn hãy nhớ rằng mình đang ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang ngự trong lòng chúng ta và đang ở cùng, dẫn dắt chúng ta. Chúng ta không cần thầy tế lễ để đưa mình vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời như tại nơi Đền tạm. Trái lại, nhờ sự chết của Chúa Jêsus trên thập tự giá, chúng ta được phép trực tiếp bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

Có nhiều sự sâu nhiệm thuộc linh qua hình ảnh ngôi Đền tạm trong đồng vắng, nhưng điều quan trọng nhất là: Một người nam hoặc nữ đầy tội lỗi vẫn được quyền đến với Đức Chúa Trời chí thánh trong sự hiện diện của Ngài nhờ Jêsus Christ, Chúa chúng ta.

Bạn có bao giờ bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời chí thánh? Chúa Jêsus tuyên bố: “Ta là đường đi, lẽ thật và sự sống; chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (Giăng 14:6). Chúng ta thấy rằng câu Kinh Thánh đầy phước hạnh nầy liên quan đến hình ảnh Đền tạm. Đức Chúa Trời muốn ở cùng bạn và khiến đời sống bạn trở nên đền thờ của Ngài.

Chương 3: Ý NGHĨA VỀ NHỮNG CỦA LỄ

Sau khi đã có một số khái niệm về Đền tạm, bây giờ chúng ta hãy cùng nhau nghiên cứu sách Lêvi Ký.Thật ra, đây là quyển sách nằm lòng của các thầy tế lễ, trong đó hướng dẫn chi tiết về cách giết một con vật, cách xử lý bộ lòng và mọi thứ khác. Điều nầy không làm cho chúng ta bị thu hút như Thi thiên 23 hoặc I Côrinhtô 13 nhưng cũng xin đừng quên rằng trong Lêvi Ký có những lẽ thật, ứng dụng thật sâu nhiệm cho chúng ta ngày nay. Và tại đây, tôi muốn trình bày cho bạn về một vài điều trong số những điều đó.

Những Chương Đoạn.

Bạn cần hiểu rõ là sự hướng dẫn nầy cho các thầy tế lễ được chia thành nhiều phần. Trong bảy chương đầu của sách có đề cập đến những của lễ, dạy cách tỉ mỉ khi thầy tế lễ chuẩn bị con sinh, cũng như ý nghĩa bên trong của những sinh tế đó.

Từ chương 8-10 tập trung vào người phục vụ, tức là các thầy tế lễ. Tại đây đặt ra những phép tắc và luật lệ mà các thầy tế lễ phải tuân giữ. Trong những chương nầy có nhiều chân
lý thuộc linh thật sâu nhiệm.

Từ chương 11-22 là trung tâm của sách. Tôi xin gọi phần nầy là: “Sự thánh hóa”. Đền tạm và những thầy tế lễ phục vụ tại đây là biểu tượng cho những người được chọn để phục vụ Đức Chúa Trời thánh khiết. Từ “thánh” có nghĩa “biệt riêng cho Đức Chúa Trời”. Các thầy tế lễ nầy phải sống như những người thuộc về Đức Chúa Trời.

Từ chương 23-25 tôi xin được gọi là: “Những ngày lễ”. Có nhiều ngày cần biệt riêng trong Do Thái giáo và bạn thấy chúng được nói đến trong các sách Ngũ kinh, vì vậy, các thầy tế lễ chịu trách nhiệm phục vụ trong suốt những ngày thánh lễ nầy và phải làm theo những gì đã được hướng dẫn.

Khi đọc đến phần nầy của sách Lêvi Ký, xin bạn hãy tự hỏi rằng: “Đức Chúa Trời muốn các thầy tế lễ nhớ điều gì khi Ngài đặt ra ngày lễ, chẳng hạn như lễ Vượt Qua?” và “Tại sao Đức Chúa Trời muốn những thầy tế lễ phải ghi nhớ những điều nầy?”

Ứng Dụng.

Tôi xin đặt tên cho hai chương cuối của Lêvi Ký là “Kẻ đầu phục”. Lêvi Ký, Phục truyền Luật lệ Ký và Giôsuê có những bài học ứng dụng tương tự nhau. Tất cả đều nhằm thúc đẩy dân sự của Đức Chúa Trời vâng theo luật pháp của Ngài để là dân thánh như họ đã được gọi. Họ đã được giải cứu để sống thánh khiết. Những lời kêu gọi nầy khiến cho hai chương cuối của Lêvi Ký đem đến sự thúc đẩy mạnh mẽ cho người đọc. Môise cho rằng ông bị tật nói lắp và không thể nói lưu loát, nhưng tại đây chúng ta thấy ông rất có tài hùng biện.

Ứng Dụng Về Sự Dâng Hiến, Nếp Sống Cá Nhân Và Đời Sống Thực Tế.

Chúng ta hãy cùng xem xét về những phước hạnh trong sự dâng hiến mà bạn có thể đọc được trong Lêvi Ký. Bảy chương đầu của sách chứa đựng một vài chân lý quí báu hướng dẫn
thầy tế lễ khi dâng của lễ lên cho Đức Chúa Trời. Chẳng hạn như khi có kẻ phạm tội đến Đền tạm và muốn được tha thứ, anh ta gặp thầy tế lễ ngay tại cổng và thầy tế lễ sẽ giúp anh ta
hiểu về ý nghĩa của sinh tế phải dâng.

Theo một phương diện khác, những thầy tế lễ có trách nhiệm dạy dỗ dân sự của Đức Chúa Trời. Khi kẻ có tội dâng sinh tế, thầy tế lễ bảo anh ta đặt tay lên đầu con vật. Khi làm điều đó, con thú trở nên “vật thay thế”. Mọi tội lỗi của tội nhân đã được chuyển cho con vật và nó đã chịu đoán phạt thay cho kẻ phạm tội. “Con dê bị đuổi” là một hình ảnh tương tự nói lên ý nghĩa của việc dâng sinh tế. Các nhà thần học gọi hành động nầy là “của lễ giải hòa”. Đây chính là hình bóng sự chết của Chúa Jêsus trên thập tự giá vì cớ tội lỗi chúng ta.

Mặt khác, khi đọc sách nầy, chúng ta nhận thấy nhiều lần cả nước Ysơraên phạm tội và đã ăn năn. Khi nhận biết tội lỗi mình, họ phải dâng một con bò tơ để làm của lễ chuộc tội. Con vật được dẫn đến Đền tạm, tại đây những người lãnh đạo dân sự đặt tay lên đầu nó và giết nó trước mặt Đức Giêhôva. Tiếp theo, họ tiến hành dâng của lễ chuộc tội như thường lệ. Bằng cách nầy, thầy tế lễ chuộc tội cho hết thảy dân sự. Điều kỳ diệu nầy không là kinh nghiệm cho một quốc gia ngày nay sao? Sự ăn năn của toàn thể quốc gia là một sự kiện tuyệt vời trong bất kỳ quốc gia nào. Sự kiện nầy đã được mô tả trong Lêvi Ký.

Những thầy tế lễ cần được xức dầu để được Đức Thánh Linh dẫn dắt và kiểm soát, được minh họa qua việc huyết con sinh được bôi lên hai lỗ tai, hai tay và ngón cái bàn chân phải của thầy tế lễ. Điều đó nói lên rằng: “Ngươi là người thánh. Hãy dẫn dắt dân sự trong sự thánh khiết. Mọi điều ngươi nghe, tiếp xúc hoặc làm, mọi nơi ngươi đến, cần phải được sự xức dầu và kiểm soát của Đức Thánh Linh”.

Trong Lêvi Ký, chúng ta cũng sẽ nhận ra điều thú vị, khi Môise viết sách luật pháp cũng là lúc ông viết về Chúa Jêsus. Trong Tân ước, lúc Chúa Jêsus chữa lành cho người bị phung,Ngài tuyên phán với người đó rằng: “Hãy đi và tỏ mình cho thầy tế lễ”. Tại sao Ngài phán vậy? Bởi vì qua Lêvi Ký, chúng ta biết các thầy tế lễ đã được hướng dẫn phải làm gì.

Trong các chương cuối của Lêvi Ký, Môise đã tuyên bố những lời hứa của Đức Chúa Trời với dân Ysơraên rất là mạnh mẽ. Ví dụ như ông đã trích dẫn lời của Đức Chúa Trời: “Nếu các ngươi tuân theo luật pháp Ta, thì ta sẽ giáng mưa thuận thì, đất sẽ sanh hoa lợi và các cây ngoài đồng sẽ kết bông trái. Các ngươi sẽ ăn no, ở bình yên trong xứ mình. Ta sẽ giáng sự bình tịnh trong nước, các ngươi ngủ sẽ không hề sợ hãi. Các ngươi đuổi theo quân nghịch, họ sẽ bị gươm sa ngã trước mặt các ngươi. Năm người trong các ngươi sẽ đuổi theo một trăm, và một trăm trong các ngươi sẽ đuổi theo mười ngàn và quân nghịch sẽ bị gươm sa ngã trước mặt các ngươi. Ta sẽ làm Đức Chúa Trời các ngươi và các ngươi sẽ làm dân Ta” (Lêvi Ký 16:3-12).

Trong Lêvi Ký có những tội lỗi bị cấm đoán nghiêm khắc, như đồng tính luyến ái. Đây là điều trái với kế hoạch của Đức Chúa Trời phối hiệp con người thành vợ chồng và cha mẹ để lưu truyền dòng giống loài người. Đồng tính luyến ái bị cấm vì những chuỗi hậu quả của nó. Môise đã lên án cách mạnh mẽ, trực tiếp đối với tội nầy.

Trong Lêvi Ký, Môise cũng lên án tội phù phép, bói toán, đồng bóng và nhiều điều khác. Luật Môise rất nghiêm khắc bởi vì Ysơraên là một dân tộc thánh. Thánh khiết là điều tối hậu mà Đức Chúa Trời muốn dạy cho dân sự của Ngài trong Lêvi Ký.

Tôi ước mong sách Lêvi Ký sẽ đem đến những bài học hữu ích và bạn sẽ nhận được những phước hạnh lớn lao khi vâng giữ Lời Chúa. Xin nhớ rằng Lêvi Ký là quyển sách hướng dẫn các thầy tế lễ làm thế nào để được ơn Đức Chúa Trời, trở nên những người thánh để dạy dỗ dân sự bước đi trong sự thánh khiết. “Hãy nên thánh vì Ta là thánh, Đức Giêhôva phán vậy”. Đây chính là sứ điệp của sách Lêvi Ký dành cho các bạn và tôi.

SÁCH DÂN SỐ KÝ

Chương 4: ĐIỂM QUYẾT ĐỊNH

Dân số Ký tiếp tục câu chuyện đã bắt đầu trong Sáng thế Ký, mở rộng ra đến Xuất Ê-díp-tô ký và bị gián đoạn đột ngột khi Đức Chúa Trời phán bảo Môise cách chi tiết về việc dựng Đền tạm trong đồng vắng.Khi dân Ysơraên được giải phóng cách kỳ diệu ra khỏi ách nô lệ tại Aicập, họ phải băng qua đồng vắng để vào đất hứa Canaan. Sách Dân số Ký cho biết họ không từ Aicập thẳng tiến vào Canaan. Họ đã đi loanh quanh trong đồng vắng 40 năm!

Có thể hình dung rằng nhiều tín đồ ngày hôm nay cũng giống như vậy. Họ đã được cứu khỏi hình phạt tội lỗi nhờ huyết Chúa Jêsus, nhưng họ không sống như cách Đức Chúa Trời muốn họ sống. Đời sống họ vẫn thất vọng, chán nản, không thỏa lòng và kém thiếu. Họ không bước vào “đất hứa”, điều mà Kinh Thánh Tân ước gọi là “sự sống đời đời” (Giăng 3-5).Chúa Jêsus phán rằng: “Ta đã đến hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật” (Giăng 10:10).

Đất hứa Canaan là hình bóng về sự sống thiên thượng mà tín đồ đã được cứu cần phải kinh nghiệm. Nếu không họ sẽ quanh quẩn trong sự vô tín, tối tăm và bối rối. Sách Dân số Ký nhắc đến lịch sử dân Ysơraên như là bài học cho chúng ta ngày nay.

Một Thế Hệ Qua Đi.

Tên của quyển sách nầy bắt nguồn từ sự kiện dân Ysơraên được tu bộ hai lần. Lần thứ nhất trong ba chương đầu và lần thứ hai trong chương 26. Giữa hai lần tu bộ, chúng ta chứng kiến sự chết của cả một thế hệ.

Do dân Ysơraên vô tín nên Đức Chúa Trời đã phán rằng: “Các ngươi sẽ ngã chết tại nơi đồng vắng, chẳng có kẻ nào trên hai mươi tuổi, là những kẻ lằm bằm nghịch cùng Ta được vào đất hứa ngoại trừ Giôsuê và Calép. Nhưng Ta sẽ đem vào xứ những con trẻ của các ngươi mà các ngươi có nói rằng: Chúng nó sẽ bị làm miếng mồi, rồi chúng nó sẽ biết xứ mà các ngươi đã chê bai. Còn thây các ngươi sẽ ngã nằm trong đồng vắng nầy. Các ngươi sẽ loanh quanh 40 năm trong đồng vắng nầy. Các ngươi sẽ gánh lấy tội ác mình cho đến kẻ cuối cùng trong các ngươi ngã chết trong đồng vắng vì đã xây bỏ Ta” (Dân số Ký 14:34-36).

Khi dân Ysơraên lang thang trong đồng vắng, Đức Chúa Trời lại nhẫn nhục bày tỏ rằng Ngài đang ở cùng họ. Ngài đã thi hành phép lạ để khích lệ đức tin họ, hầu qua đó họ có thể dạn dĩ vượt qua sông Giôđanh và tiến chiếm đất Canaan.

Sau khi ra khỏi Aicập, dân Ysơraên băng qua biển Đỏ, đến núi Sinai tại Cađebanêa, và sau đó đi lang thang trong đồng vắng suốt 40 năm. Sách Phục truyền Luật lệ Ký cho biết từ Aicập đến Canaan chỉ mất 11 ngày đường (Phục truyền 1:2).

Đức Chúa Trời đã mười lần làm phép lạ trước sự chứng kiến của dân Ysơraên nơi đồng vắng để khích lệ đức tin họ, nhưng họ vẫn đi lang thang vô mục đích. Môise vừa là thầy tế lễ vừa là tiên tri. Khi dân Ysơraên phạm tội, ông lên núi Sinai liên tục cầu thay cho họ rằng: “Xin Chúa hãy tha thứ tội lỗi dân sự Ngài”. Điều nầy đã xảy ra mười lần và Đức Chúa Trời đã mười lần tha thứ họ (Dân số Ký 14:22).

Trên núi Sinai, Môise kêu cầu Đức Chúa Trời nhân từ tha thứ tội lỗi cho dân Ysơraên. Ngài nhậm lời cầu nguyện của Môise nhưng phán rằng: “Ta sẽ chịu hội chúng hung dữ nầy hay lằm bằm cùng Ta cho đến chừng nào? Ta đã nghe lời lằm bằm của dân Ysơraên oán trách Ta. Hãy nói với dân chúng: Đức Giêhôva nói rằng: Ta chỉ sự hằng sống ta mà thề, Ta sẽ đãi các ngươi tùy theo lời Ta đã nghe các ngươi nói. Những thây các ngươi sẽ ngã nằm trong đồng vắng nầy. Các ngươi mà người ta đã tu bộ, hết thảy bao nhiêu cũng vậy, từ hai mươi tuổi trở lên là những kẻ đã lằm bằm cùng Ta” (Dân số Ký 14:27-29).

Môise thuật lại những lời nầy cho cả Ysơraên, rồi có một sự sầu thảm rất lớn trong dân sự. Họ thức dậy sớm, để lòng hướng về đất hứa. Họ biết rằng mình đã phạm tội và muốn tiến ngay vào đất hứa, nhưng Môise bảo rằng đã quá muộn vì Đức Chúa Trời đã lìa bỏ họ.

Câu chuyện lịch sử nầy dạy chúng ta đôi điều trong mối tương giao của chúng ta với Chúa. Ngài tha thứ dân Ysơraên, nhưng tội lỗi họ vẫn khiến Ngài thật đau buồn. Cũng vậy, cuộc sống trong Đấng Christ có những điều cao hơn là được tha thứ. Chúng ta đã được tạo dựng và được tái tạo qua sự cứu rỗi, để làm vinh hiển Chúa qua đời sống phục vụ Ngài và đang bước vào mọi sự mà Ngài đã dành sẵn cho mình. Kinh Thánh gọi đây là mục đích của sự cứu rỗi. Hình ảnh dân Ysơraên lang thang trong đồng vắng nhưng không bước vào Canaan là điều cũng có thể xảy ra đối với chúng ta khi đánh mất đi mục đích của sự cứu rỗi trên chính đời sống mình.

Điểm Quyết Định.

Khi phi công đang hạ cánh một chiếc máy bay khổng lồ như chiếc Concord có sức chứa 747 hành khách, anh ta đối diện với tình huống không thể chần chừ nhưng phải dứt khoát. Người ta gọi điều nầy là “điểm quyết định”, không thể thối lui. Đức Chúa Trời thật nhân từ và đầy ân điển. Trong Dân số Ký chương 14 cho chúng ta biết đâu là “điểm quyết định” trong hành trình đức tin của mình. Có một điểm quyết định, một bước ngoặc trong cuộc đời, là lúc chúng ta có bắt đầu đi theo ý muốn của Đức Chúa Trời hay không.

Dầu vậy, Đức Chúa Trời sẽ làm mọi điều cần thiết để chúng ta biết được ý muốn Ngài và làm theo. Đức Chúa Trời sẽ lìa bỏ khi chúng ta cứng lòng từ chối ý muốn Ngài. Đây là mất mát lớn lao và chúng ta đánh mất mục đích của sự cứu rỗi trên đời sống. Chúng ta không bị mất đi sự cứu rỗi, nhưng đánh mất cơ hội để kinh nghiệm sự đầy trọn ở trong sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời (Êphêsô 2:8-10).

Một trong những câu Kinh Thánh đáng buồn hơn hết được chép trong Dân số Ký chương 14 là lời nói của Môise với dân sự: “Bây giờ thật là quá trễ! Hãy bỏ vũ khí các ngươi xuống! Các ngươi đã lìa bỏ Đức Chúa Trời và bây giờ Ngài lìa bỏ các ngươi!”

Có một ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời cho mỗi một chúng ta (Rôma 12:2). Sách Lê vi ký nói về việc làm theo ý muốn Đức Chúa Trời dành cho mỗi đời sống chúng ta. Khi bạn đọc Dân số ký chương mười bốn, hãy nhìn cảnh trạng đó để quyết định chọn làm theo hoặc không làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống mình. Không bao giờ là quá trễ để chúng ta quyết định không đi lòng vòng nữa mà sẽ tiến chiếm và “chinh phục” Canaan theo chương trình Đức Chúa Trời đã hoạch định cho chúng ta.

Chương 5:NHỮNG BIỂU TƯỢNG SỐNG ĐỘNG

Sách Dân số ký đầy dẫy những hình bóng và ẩn dụ. Sứ đồ Phaolô cung cấp cho chúng ta bí quyết để áp dụng cách cá nhân những câu chuyện của lịch sử khi ông viết: “Những sự ấy có nghĩa hình bóng, và họ đã lưu truyền để khuyên bảo chúng ta - những người sống vào thời đại cuối cùng” (ICôrinhtô 10:11). Điều nầy có nghĩa là chúng ta nên tìm kiếm những ví dụ và những lời cảnh báo khi đọc những câu chuyện lịch sử của Kinh thánh.

Từ ngữ mà Phaolô dùng ở đây là “gương”, được dịch là “hình bóng” hay những “bài học khách quan” hoặc “biểu tượng”. Khi nói sách nầy đầy dẫy những “biểu tượng”, chúng ta không có ý nói những biến cố nầy không phải là những biến cố lịch sử có thật. Biểu tượng là một câu chuyện hay một biến cố mang ý nghĩa sâu sắc, dạy dỗ chúng ta về phương diện đạo đức hay thuộc linh.

Đám Mây Dẫn Dắt

Trong những câu cuối của sách Xuất Êdíptô ký chúng ta biết được rằng khi đền tạm hay Lều Thờ phượng tại đồng vắng được làm xong và dựng lên, một phép lạ lớn lao đã xảy ra.Về sau, đền thờ của vua Salômôn cũng được xây theo khuôn mẫu mà Đức Chúa Trời đã ban cho Môise để xây đền tạm thờ phượng nầy tại đồng vắng. Đền thờ Salômôn là một đền thờ kiên cố và được xây cách trang trọng bằng các vật liệu quý. Khi dâng hiến đền thờ, Đức Thánh Linh, một đám mây, ngự xuống và đầy dẫy đền thờ của Salômôn cách mạnh mẽ đến nỗi các thầy tế lễ không thể đứng hầu việc nơi đó được (ICác vua 8:10, 11).

Khi Môise vâng lời Chúa và xây đền tạm thờ phượng tại đồng vắng, chúng ta thấy một phép lạ lớn lao đã xảy ra: “Vả, ngày người ta dựng đền tạm, thì trụ mây bao phủ đền tạm và Trại chứng cớ; ban chiều dường như có một vầng lửa ở trên đền tạm cho đến sáng mai. Hằng có
như vậy; ban ngày trụ mây bao phủ đền tạm, và ban đêm giống như có lửa. Mỗi khi trụ mây cất lên khỏi Trại, thì dân Ysơraên ra đi; trong nơi nào trụ mây dừng lại, thì sân Ysơraên cứ đóng trại. Khi nào trụ mây ngự lâu trên đền tạm, thì dân Ysơraên vâng theo mạng lệnh Đức Giêhôva, chẳng hề ra đi. Nhưng khi nào trụ mây ngự ít ngày trên đền tạm, thì dân Ysơraên cứ vâng theo mạng Đức Giêhôva mà hạ trại và ra đi khi trụ mây ngự tại đó buổi chiều và sáng mai, và khi đến sáng mai trụ mây cất lên, thì ra đi; không cứ ngày hay đêm trụ mây cất lên,thì họ ra đi. Trụ mây ngự trên đền tạm hoặc hai ngày, hoặc một tháng, hoặc lâu hơn nữa, thì dân Ysơraên cứ đóng trại, không hề ra đi; nhưng khi trụ mây cất lên, thì họ ra đi. Dân Ysơraên hạ trại và ra đi tùy theo mạng lệnh Đức Giêhôva; họ theo chương trình của Đức Giêhôva, tùy mạng Ngài đã cậy Môi se mà truyền cho” (Dân số ký 9:15-23).

Đây là câu chuyện thú vị về một phép lạ mang hình bóng về sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, việc làm lạ lùng của Đức Thánh Linh trong chúng ta và sự xức dầu của Đức Thánh Linh đến trên chúng ta. Sau nầy, trong Tân ước, đền thờ thờ phượng là hình ảnh về thân thể chúng ta, là đền thờ mà Đức Thánh Linh sống ở trong và thực hiện phép lạ biến đổi chúng ta. Đức Thánh Linh xức dầu, ngự trị và đầy dẫy chúng ta như Ngài đã đầy dẫy trên đền thờ thờ phượng của Salômôn.

Bạn có thể hỏi: “Nếu đám mây nầy dẫn dắt dân Ysơraên, và họ vâng lời bước theo, thì tại sao đám mây không dẫn họ băng qua đồng vắng, vượt sông Giôđanh để tiến vào đất hứa? Làm sao có chuyện họ bước theo sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời mà lại cứ đi lòng vòng?” Có một lẽ thật quan trọng ở đây. Đức Chúa Trời ban cho tạo vật mà Ngài tạo dựng sự tự do chọn lựa. Điều nầy mô tả một trong những cách quan trọng nhất mà trong đó, Đức Chúa Trời tạo dựng con người theo ảnh tượng của Đấng Tạo Hóa. Ngài không xâm phạm quyền tự do chọn lựa của chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin để tin và công bố tất cả những lời hứa mà Đức Chúa Trời dành cho chúng ta cũng như chấp nhận ý muốn tốt lành và trọn vẹn của Ngài dành cho đời sống mình, thì Ngài có thể dẫn chúng ta vào đất hứa thuộc linh. Ngài có thể ban phước và dẫn chúng ta vào chính trọng điểm của ý muốn Ngài dành cho chúng ta.

Nhưng nếu không tin, chúng ta sẽ không tìm thấy “đất hứa thuộc linh” của chúng ta. Ngài tạo dựng chúng ta là những tạo vật có ý chí, có sự chọn lựa và theo ý nghĩa đó, chúng ta không bị Ngài buộc phải làm bất cứ việc gì. Ngài có thể uốn cong chúng ta giống như cái vòm sắt. Ngài có thể đưa ra nhiều lời đề nghị mà chúng ta không thể từ chối. Đôi khi, chúng ta cân nhắc những sự chọn lựa của mình, song điều khôn ngoan nhất là chúng ta đầu phục Đức Chúa Trời và làm theo ý muốn Ngài.

Trong Tân ước, sách Hêbơrơ chương ba và bốn, chúng ta được biết rằng dân Ysơraên không thể vào đất hứa vì họ vô tín. Đó là điều chúng ta học biết được từ trụ mây và trụ lửa là đã không dẫn dắt dân sự trực tiếp vượt qua sa mạc để tiến vào đất hứa.

Cái gì vậy?

Một lẽ thật khác mà chúng ta tìm thấy trong sách Dân số ký là câu chuyện về thịt và mana. Đức Chúa Trời đã dùng mana nuôi dân sự cách siêu nhiên. Mana trong tiếng Hêbơrơ nghĩa là “Cái gì vậy?” Họ không thể xác định đó là gì nên họ gọi nó là “cái gì vậy?” Đức Chúa Trời dùng “cái gì vậy” nuôi họ trong vòng bốn mươi năm.

Chúng ta được biết dân sự liên tục lằm bằm với Môise. “Bọn dân tạp ở trong dân Ysơraên sinh lòng tham muốn, đến đỗi dân Ysơraên lại khóc nữa mà rằng: ai sẽ cho chúng tôi ăn thịt?” (Dân số ký 11:4). Ngoài dân Ysơraên ra, còn có những giống dân khác đi theo ra khỏi Êdíptô. Có một số người ngoại, như những người Êthiôpi và Êdíptô đi cùng với dân Ysơraên. Những người Êdíptô thèm muốn những điều tốt lành ở Êdíptô. Có một bài học cho chúng ta ở điểm nầy. Kinh thánh nói: “Chúng tôi nhớ những con cá ăn nhưng không tại xứ Êdíptô, những dưa chuột, dưa gang, củ kiệu, hành và tỏi. Bây giờ linh hồn chúng tôi bị khô héo, không còn chi hết! Mắt chỉ thấy mana mà thôi” (Dân số ký 11:5-6).

Theo văn mạch nầy, Êdíptô là biểu tượng về đời sống cũ của chúng ta ở thế gian. Khi một người đã được giải cứu khỏi “Êdíptô” quay lại nói rằng “Ôi chớ chi về Êdíptô!”, nói thế là làm buồn Chúa vô cùng. Đức Chúa Trời phán với Môise trong đoạn nầy: “Ngày mai phải dọn mình ra thánh, thì các ngươi sẽăn thịt. Vì chưng lỗ tai Đức Giêhôva có nghe các ngươi khóc mà rằng: Ai sẽ cho chúng tôi ăn thịt?” Vấn đề là sự tập trung, chứ không phải là thịt. Đức Chúa Trời phán Ngài sẽ ban cho họ thịt cho tới chừng thịt tràn ra lỗ mũi. Đức Chúa Trời phán: “Các ngươi đã từ chối Chúa và khóc đòi về Êdíptô”. Điểm nầy thật quan trọng. Sau khi Ngài cho họ ăn thịt Ngài cũng sai bệnh dịch đến với họ. Ngài đã làm việc đó bởi vì họ ham muốn thịt và ham muốn về Êdíptô.

Kinh thánh nói rằng Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi ước ao của lòng mình. Đó là một niềm an ủi thật đáng khích lệ mà cũng là một thử thách lớn. Ước ao của lòng bạn hướng về những điều thuộc linh hay hướng về Êdíptô? Đức Chúa Trời ban cho dân Ysơraên điều họ cầu xin, nhưng Ngài sai bệnh tật tổn hại đến với linh hồn họ (Thi 106:15). Điều nầy có thể đúng cho nhiều người tự nhận mình là tín đồ.

Là tạo vật có ý chí đểchọn lựa, chúng ta có thể có những gì chúng ta chọn. Khi chúng ta chọn củ hành và tỏi của xứ Êdíptô, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta điều đó, nhưng Ngài cũng sai bệnh tật tổn hại linh hồn chúng ta. Biểu tượng sống động nầy thách thức chúng ta bằng một câu hỏi mà Đức Chúa Trời mở đầu trong cuộc đối thọai tại Vườn Êđen: “Ngươi ở đâu?” Ngươi vẫn còn ở Êdíptô sao? Hay là ngươi đang ở trong đất hứa?” Ngươi vẫn còn đi lòng vòng giữa Êdíptô và Canaan sao? Có phải ngươi đang ở Canaan mà lại ham muốn những điều của Êdíptô chăng?

Các Thám Tử (Chương 13)

Có một biến cố xảy ra trong câu chuyện về việc dân Ysơraên sai mười hai thám tử đến xứ Canaan. Các thám tử được truyền bảo do thám xứ Canaan để xem thử thành quách được bảo vệ thế nào. Các thám tử cũng phải xem thử dân xứ đó thể nào (nhiều hay ít, mạnh hay yếu) để biết họ có thể chinh phục được không.

Khi mười hai thám tử trở về, họ nói nhiều về bông trái của đất hứa. Họ mang về một chùm nho rất lớn đến nỗi phải mất hai người dùng gậy mới khiêng nổi. Họ cũng cho biết dân xứ đó là những người khổng lồ, những chiến sĩ được trang bị mạnh mẽ và thành quách của xứ Canaan được các bức tường to lớn bảo vệ dày đặc nên dân chúng xây nhà ngay trên đỉnh thành.

Mười trong số mười hai thám tử là những chuyên gia về “khổng lồ học” như một bài thánh ca trước đây diễn tả: “Những người khác nhìn thấy những tên khổng lồ, Calép thấy Chúa”.Có người quan sát cho rằng mười hai thám tử ở đây giống như mười hai trưởng lão, chấp sự, ủy viên hay là các thành viên trong một ủy ban, hoặc là những người lãnh đạo Hội thánh.Hai thám tử có đức tin, sẵn sàng tinh thần để chiếm xứ; còn mười thám tử “khổng lồ học” chỉ chú tâm vào những khó khăn.Calép biết sức mạnh của những thành trì kiên cố tại xứ Canaan, nhưng ông không sợ. Calép khuyến khích dân sự trước mặt Môise: “Chúng ta hãy đi lên và chiếm xứ đi, vì chúng ta thắng hơn được” (Dân số ký 13: 2-31). Đức Chúa Trời nhìn thấy đức tin của hai thám tử nầy nên Ngài sẵn sàng đổi lấy cả nước Ysơraên, khoảng hai đến ba triệu người, để lấy Giôsuê và Calép. Ngài phán: “Hết thảy các ngươi sẽ chết trong đồng vắng nầy, và Ta sẽ đem hai người nầy, Giôsuê và Calép đi với Ta vào đất hứa bởi vì họ hết lòng theo Ta và tin Ta”. Đức Chúa Trời đánh giá cao đức tin. Đối với Chúa, hai người có đức tin đáng giá hơn hàng triệu người không có đức tin.

Có một phần kế tiếp khá thú vị theo sau câu chuyện nầy, đó là sau bốn mươi lăm năm, cuối cùng dân Ysơraên cũng vào được đất hứa (Giôsuê 14), họ đến thành Hếprôn. Calép nghĩ thành Hếprôn là một thành trì rất kiên cố. Ông tin Đức Chúa Trời ban cho dân Ysơraên sức mạnh để chiến thắng Hếprôn. Môise bị thuyết phục trước đức tin của Calép nên ông long trọng hứa rằng khi nào chiếm được thành Hếprôn, thành nầy sẽ thuộc về Calép.

Sau khi lang thang trong đồng vắng bốn mươi năm, Calép kéo quân đến trước mặt Giôsuê, người kế vị Môise và nhắc lại lời hứa của Môise. Calép lúc đó đã 85 tuổi, nhưng ông biết rằng khi có Chúa giúp đỡ thì ông sẽ chinh phục được Hếprôn.Giôsuê ban thành Hếprôn cho Calép và ông đã chiếm được thành nầy. Khi dân Ysơraên lằm bằm trong đồng vắng, Chúa sai rắn đến cắn họ; song Calép không hề thốt lên một lời phàn nàn, ông chú tâm vào đất hứa và không hề đánh mất khải tượng.

Những Người Lằm Bằm Và Việc Rắn Cắn (Dân số ký 21)

Đức Chúa Trời ghét sự than phiền và lằm bằm. Ngài đoán phạt những người lằm bằm bằng cách sai rắn cắn, có nhiều người chết vì việc đó. Đức Chúa Trời bảo Môise làm con rắn bằng đồng và dựng một cây sào giữa trại. Sau đó tin tức tốt lành được công bố khắp trại, người nào bị rắn cắn hãy đến giữa trại và nhìn con rắn đồng trên cây sào thì đều được chữa lành.

Nhiều người bị rắn cắn nghi ngờ Đức Chúa Trời, thắc mắc không biết tại sao chỉ nhìn lên con rắn đồng mà lại được chữa lành khỏi bệnh rắn cắn, những người nầy bị sưng phù lên và chết. Nhưng những người khác thì cho rằng dù về phương diện y học thì phi lý nhưng tin cậy Chúa là hy vọng duy nhất mà họ có. Họ bò lết, được mang đến giữa trại và nhìn lên con rắn đồng, và thế là họ được lành.

Chúng ta có bài học áp dụng của Phúc Âm qua biểu tượng nầy khi Chúa Jêsus nói chuyện với một Rabi tên là Nicôđem trong một buổi tối. Khi vị giáo sư lỗi lạc ở thành Giêrusalem nầy nói với Chúa Jêsus rằng ông đến để nghe những gì Ngài phán bởi vì ông thán phục những việc Chúa làm, Chúa Jêsus nhắc Nicôđem về phép lạ lớn lao nầy của Cựu ước. Sau đó Chúa Jêsus áp dụng phép lạ cho chính Ngài. Ngài nói với Nicôđem, như con rắn được treo lên thể nào thì Ngài cũng bị treo lên thập tự giá thể ấy. Tất cả những ai có đức tin ngửa trông thập tự giá của Ngài sẽ thoát khỏi nan đề tội lỗi, như cách mà những người lằm bằm bị rắn cắn được cứu (Giăng 3:13-14).

Nhìn và Sống

Bạn có cái nhìn đức tin đó không? Bạn có nhìn Chúa Jêsus treo trên thập tự giá không? Bạn có đặt đức tin nơi mọi sự Chúa Jêsus làm cho bạn tại đó không? Ngài là giải pháp duy nhất cho nan đề tội lỗi của bạn bởi vì Ngài là Con độc sanh của Đức Chúa Trời khi Ngài chết trên thập tự giá thay cho bạn. Điều nầy có nghĩa là Chúa Cứu Thế là Cứu Chúa 21 22
duy nhất – Ngài là hy vọng duy nhất, là giải pháp và là Cứu Chúa cho nan đề tội lỗi đời đời của bạn.

Chương 6: HÒN ĐÁ VÀ CÂY GẬY (Chương 20)

Khi chúng ta tiếp tục nhìn đời sống của Môise, thật đáng buồn khi biết rằng ông không thể vào được đất hứa. Cuối cùng, Đức Chúa Trời không đổi toàn bộ dân sự để lấy Môise. Tội của Môise là một trong những điều mầu nhiệm của sách Dân số ký.Kinh thánh cho biết Chúa phán bảo Môise lấy cây gậy và nhóm dân chúng lại. Đức Chúa Trời bảo ông nói với hòn đá và nó sẽ chảy nước ra để dân chúng và súc vật uống. Dù Môise nghi ngờ, ông vẫn nhóm dân chúng lại. Ông dùng cây gậy đánh vào hòn đá hai lần và nước chảy ra. Dân chúng và súc vật uống. Sau đó Chúa phán với Môise và Arôn:“Bởi vì hai ngươi không có tin đến Ta, đặng tôn Ta nên thánh trước mặt dân Ysơraên, vì cớ đó hai ngươi sẽ không đem hội chúng nầy vào xứ mà Ta đã cho chúng nó đâu” (Dân số ký 20:11-13).

Có một số điều mà chúng ta nên xem xét khi thấy sự hình phạt nghiêm khắc của Đức Chúa Trời. Trước hết, chúng ta là ai mà nói với Đức Chúa Trời điều là gì đúng hay công bằng? Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất định nghĩa điều nào đúng hay công bằng. Môise không hề than phiền về hình phạt của ông. Sách Phục truyền cho chúng ta biết, có một lần ông đã thưa với Chúa về việc nầy và Đức Chúa Trời phán: “Đừng nói với Ta về vấn đề nầy nữa”, Môise không bao giờ nhắc lại việc đó.

Thứ hai, Đức Chúa Trời có một tiêu chuẩn cho các nhà lãnh đạo cao hơn tiêu chuẩn Ngài dành cho các tín hữu. Kinh thánh nêu ra rõ ràng trước mắt chúng ta một tiêu chuẩn đôi. Khi bạn trở thành một thành viên của Hội thánh, có những tiêu chuẩn mà bạn phải tuân thủ. Nhưng một Hội thánh, theo Kinh thánh, nên đòi hỏi ở những người lãnh đạo hơn là từ mối thông công hay các tín hữu. Đức Chúa Trời xem trọng đức tính của người lãnh đạo. Môise ở vị trí lãnh đạo. Điều có thể xem là tội nhỏ đối với những người khác, thì lại không nhỏ với người mà Đức Chúa Trời đặt để họ đứng vào địa vị nào đó.

Rõ ràng tội của Môise là tội trọng. Trước hết, Đức Chúa Trời phán: “Hãy nói với hòn đá”, ông lại không nói với hòn đá, song lại dùng gậy đập vào hòn đá hai lần. Đó là sự không vâng lời.Đức Chúa Trời quy cho Môise một tội trọng khác nữa. Đức Chúa Trời đã dạy ông rằng Ngài luôn ở cùng ông, Ngài là Đấng sẽ giải cứu dân sự và sẽ khiến ông thành công cụ của phép lạ lớn lao đó. Phép lạ lớn lao ra khỏi Êdíptô đã xảy ra bởi vì Môise đã học biết rằng Đức Chúa Trời có thể làm qua một người khi người đó nhận biết rằng mình không là gì cả.

Môise đã mất bốn mươi năm trong đồng vắng để học biết bí quyết thuộc linh nầy: “Tôi không phải là người giải cứu, Ngài mới là Đấng đó và Ngài ở với tôi. Tôi không thể giải cứu ai,nhưng Ngài có thể làm được và Ngài ở với tôi. Nhiều lần Ngài bày tỏ những tiêu chuẩn nầy cho chúng ta, nhưng hãy nhớ rằng chính Đức Chúa Trời là Đấng dạy chúng ta trở nên công chính, chứ không phải chúng ta dạy Đức Chúa Trời. Suy xét từ tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời, hình phạt của Môise là công bằng và ngay thẳng. Môise rõ ràng đã đồng ý với Đức Chúa Trời. Từ phép lạ đầu tiên đến phép lạ ra khỏi Êdíptô, cây gậy Môise là hình bóng về những bí quyết thuộc linh mà Môise đã học tại bụi gai cháy. Qua việc áp dụng cá nhân, có một lẽ thật sâu sắc để chúng ta học hỏi từ tội lỗi của Môise khi ông dùng gậy đập vào hòn đá.

Sự Kiệt Sức Của Môise

Trong chương mười một của Dân số ký có một câu chuyện quan trọng khác về Môise. Ngày nay chúng ta nghe rất nhiều về chuyện “bị kiệt sức”, một từ ngữ được dùng khi người ta cạn kiệt về thể chất, tình cảm và tinh thần. Ngay cả những người đầy ơn của Đức Chúa Trời cũng bị mệt mỏi và đôi khi họ cũng rơi vào tình trạng chán nản. Có sự khác biệt giữa việc mệt mỏi và chán nản.Chẳng hạn, trong chương nầy của sách Dân số ký, chúng ta nghe Môise thưa với Chúa: “Tôi không thế một mình gánh hết dân sự nầy, vì thật là rất nặng nề cho tôi quá! Nếu Chúa đãi tôi như vậy, và nếu tôi được ơn truớc mặt Chúa, xin thà giết tôi đi, để tôi không thấy sự khốn nạn tôi!” (Dân số ký 23:9-11).

Bạn có bao giờ cảm nhận như thế chưa? Tôi thấy rằng Môise, Êli, Đavít, sứ đồ Giăng, và nhiều người đầy ơn của Chúa trong Kinh thánh đã kiệt sức hoàn toàn đến nỗi họ nói với Chúa rằng họ muốn chết. “Sự kiệt sức” xảy ra cho những người tin kính. Kinh thánh cho chúng ta biết nó xảy ra cho những con người vĩ đại của Chúa đã từng sống như Môise, Êli,Giôna, Gióp cùng nhiều người khác. Nhưng khi những người nầy quá kiệt sức, họ đã cầu xin Chúa một cách sai trật như xin Ngài cất họ đi – Đức Chúa Trời vẫn để họ sống vì Ngài biết lòng họ.

Môise biết rằng chỉ Đức Chúa Trời mới có thể mang gánh nặng to lớn khi làm công việc siêu nhiên của Ngài. Ông học một bài học quan trọng khác qua kinh nghiệm bị “kiệt sức.” Bài học đó là công việc của Đức Chúa Trời là công việc đồng đội. Ông nhận biết rằng dù Đức Chúa Trời làm công việc qua ông, ông cũng không thể gánh vác gánh nặng phân xử dân Ysơraên một mình được. Khi sự kiệt sức của Môise đem ông đến chỗ nhận biết như thế, Đức Chúa Trời ban cho bảy mươi trưởng lão giúp ông mang gánh nặng. Đức Chúa Trời xức dầu bằng Đức Thánh Linh cho bảy mươi người nầy và họ xét xử dưới quyền của Môise. Không phải cất quyền lãnh đạo khỏi Môise, Đức Chúa Trời phân chia công việc ra làm những phần có thể quản lý được và đặt bảy mươi trưởng lão coi sóc những phần việc nầy. Những ai ngày nay nhận được bằng cao học về quản trị kinh doanh sẽ nói cho bạn biết rằng có năm bước để quản lý thành công: phân tích, tổ chức, phân bổ, giám sát, và rồi chịu khổ! Môise đến với Chúa khi bị kiệt sức, Đức Chúa Trời bảo linh hồn ông cần được phục hồi. Ngài bày tỏ cho ông con đường công chính đem lại sự an nghỉ cho linh hồn ông. Con đường nầy chính là để Chúa làm phần của Ngài, chỉ có Ngài làm và nhớ rằng công việc của Chúa qua dân sự là công việc đồng đội. Đó là cách Đức Chúa Trời phục hồi dân sự của Ngài khi họ hoàn toàn bị kiệt sức.

Chúng ta sống trong một thế giới thiếu kiên nhẫn và chúng ta muốn có mọi thứ ngay lập tức. Thường thì Đức Chúa Trời không ban ngay cho chúng ta mọi thứ. Sự phục hồi trong đời sống Môise là một thực tế. Thay vì xoay chuyển tình thế tức thì, Đức Chúa Trời chỉ cho ông cách để tổ chức và phân bổ những người khác cùng ông mang gánh nặng.

Thật ngạc nhiên khi nghĩ rằng một người vĩ đại như Môise mà có thể bị kiệt sức. Môise bị kiệt sức vì ông cũng là con người như bạn và tôi. Nhiều người nghĩ rằng khi bạn trở thành một môn đồ được tái sanh của Chúa Cứu Thế, thì bạn không mang cảm tính con người nữa. Khi chúng ta nhìn cuộc đời của Môise, chúng ta biết rằng điều đó không đúng. Kinh thánh đầy dẫy những câu chuyện thực tế về những người tranh chiến với những ưu tư và áp lực như nhau, khiến chúng ta khám phá ra những giới hạn của con người yếu đuối. Họ là những tấm gương cho chúng ta bởi vì họ làm những việc lớn lao khi Thánh Linh của Đức Chúa Trời kiểm soát con người của họ.

Áp Dụng

Chúng ta có thể thêm câu chuyện của Môise vào danh sách của những nhân vật Kinh thánh mà đời sống của họ chứng tỏ phép lạ rằng Đức Chúa Trời thường làm những việc phi thường qua chính những con người bình thường bởi vì họ sẵn sàng. Kinh nghiệm mà Môise đã có nơi Chúa chỉ cho chúng ta thấy rằng người mà Chúa dùng phải học biết rằng khả năng lớn lao nhất là khả năng sẵn sàng. Khả năng lớn lao nhất là khả năng sẵn sàng của chúng ta đối với Chúa. Trong sách Dân số chúng ta thấy sự vĩ đại của Môise, sự “kiệt sức” của Môise, và tội lỗi của Môise. Đức Chúa Trời dùng Môise bởi vì ông sẵn sàng. Đức Chúa Trời muốn dùng bạn và tôi bởi vì chúng ta sẵn sàng. Bạn có đặt mình sẵn sàng cho Chúa chưa? Bạn có muốn sẵn sàng cho Chúa không? Vậy, hãy gia nhập câu lạc bộ đặc biệt và thưa với Chúa: “Bất cứ điều gì, bất cứ nơi nào và bất cứ khi nào, con sẽ không bận tâm là điều gì sẽ giúp con, con không bận tâm nơi nào tiếp con, con không bận tâm để trả giá, song con sẵn sàng.

PHỤC TRUYỀN LUẬT LỆ KÝ

Chương 7: NUÔI DẠY CON

Từ Phục truyền nghĩa là “thuật lại luật pháp”. Nhưng sách Phục truyền đề cập đến nhiều điều hơn là thuật lại luật pháp. Sách luật được thần cảm nầy áp dụng luật pháp của Đức Chúa Trời cho thế hệ thứ hai của tuyển dân Ngài.
Sách Phục truyền cũng ghi lại những bài giảng quan trọng của Môise giảng cho dân Ysơraên trước khi họ vượt sông Giôđanh và chiếm xứ Canaan. Đoạn mở đầu giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của sách Phục truyền. Chúng ta đọc thấy: “Nầy là lời của Môise nói cho cả Ysơraên, bên kia sông Giôđanh, tại đồng vắng, trong đồng bằng, đối ngang Suphơ, giữa khoảng Pharan và Tôphên, Laban, Hasêrốt và Đixaháp. Nhằm năm bốn mươi, ngày mồng một thánh mười một, Môise nói cùng dân Ysơraên mọi điều mà Đức Giêhôva đã biểu người phải nói
cùng họ” (Phục truyền1:1,3).

Như chúng ta đã học trong sách Dân số, dân Ysơraên đã lang thang trong đồng vắng suốt bốn mươi năm. Họ ra khỏi Gôsen xứ Êdíptô, đi xuống núi Sinai và đến Kađe. Kế đó, họ không có đức tin để chiếm xứ Canaan nên họ phải đi lòng vòng ba mươi tám năm. Cả thế hệ đó đều chết mất trong đồng vắng.

Cuối cùng, con cháu của thế hệ trước, của những người ngã chết trong đồng vắng đã có đức tin chiếm lấy xứ Canaan. Họ cắm trại phía đông sông Giôđanh trước khi dự định vượt sông Giôđanh và chiếm xứ Canaan. Ngoại trừ Giôsuê và Calép, toàn bộ thế hệ đã sống khi luật pháp được ban bố lần đầu đều chết. Trước khi họ chiếm xứ Canaan, Môise cho rằng dân
Ysơraên cần nghe lại Lời Chúa đã ban cho họ và tổ phụ của họ qua ông trên núi Sinai. Ông cũng thách thức họ long trọng cam kết phải dạy luật pháp của Đức Chúa Trời cho con cái của họ.

Đôi khi các tín đồ đi lòng vòng nhiều năm. Song khi họ quyết định chinh phục xứ “Canana” thuộc linh và kinh nghiệm sự sống trong Chúa là điều mà Chúa đã cứu để ban cho họ, khi họ quyết định nhận mọi sự Đức Chúa Trời sắm sẵn, thì họ sẽ cam kết làm theo sách Phục truyền. Sách nầy chứa đựng những bài học cho những người quyết định có một cái nhìn nghiêm túc về đời sống mới của họ trong Chúa Cứu Thế và dâng mình hoàn toàn cho Ngài. Nếu đó là chỗ bạn đang đứng thì sách Phục truyền là dành cho bạn.

Một đề tài khác trong sách Phục truyền có liên hệ đến Lời Đức Chúa Trời đã trở nên thực tế cho dân sự của Ngài. Trong một trong những bài giảng quan trọng nhất của Môise, ông thách thức con cái của thế hệ chết mất phải bảo đảm là họ sẽ chuyển giao Lời Ngài cho con cái họ.

Bài Giảng Tuyệt Vời Nhất Của Môise

Một số người cho rằng Phục truyền 6:4-9 là bài giảng hay nhất mà Môise từng giảng. Đoạn Kinh thánh nầy là lời tuyên xưng đức tin cơ bản của Do Thái giáo. Đây là trọng tâm của sứ điệp đó:"Hỡi Ysơraên! Hãy nghe: Giêhôva Đức Chúa Trời chúng ta là Giêhôva có một không hai. Người phải hết lòng hết ý, hết sức kính mến Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi. Các lời mà Ta
truyền cho ngươi ngày nay sẽ ở tại trong lòng ngươi; khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi, và phải nói đến hoặc khi ngươi ngồi trong nhà, hoặc khi ngươi đi ngoài đường, hoặc lúc ngươi nằm, hay là khi chổi dậy. Khá buộc nó trên tay mình như một dấu, và nó sẽ ở giữa hai con mắt ngươi như ấn chí; cũng phải viết các lời đó trên cột nhà, và trên cửa ngươi” (Phục truyền 6:4-9).

Có nhiều điểm trong bài giảng nầy, nhưng những câu Kinh thánh trên là trọng tâm của sách Phục truyền. Điều mà Môise thật sự nói với dân chúng ngay trước khi họ vượt sông Giôđanh và tiến chiếm xứ Canaan là Đức Chúa Trời đã kêu gọi họ trở thành một người yêu mến Ngài với cả tấm lòng. Để bày tỏ tình yêu với Ngài, họ phải vâng theo Lời Ngài. Và để vâng theo Lời Ngài, họ phải biết Lời Ngài. Đức Chúa Trời muốn con cháu của họ một ngày nào đó cũng sẽ thành một dân yêu mến Chúa với cả tấm lòng. Do đó Môise truyền bảo họ phải yêu mến Chúa với cả tấm lòng, biết và vâng theo Lời Ngài và chuyển giao những giá trị nầy cho con cháu của họ.

Bốn Nền Tảng Cho Các Bậc Cha Mẹ

Điều mà Môise thật sự nói với họ là làm thế nào dạy dỗ con cháu họ trở thành dân sự của Chúa. Sự dạy dỗ Môise mô tả ở đây dựa trên bốn nền tảng. Nền tảng thứ nhất là Lời Chúa. Nếu muốn con cháu họ yêu mến Chúa, thì nền tảng trong việc học của chúng phải là Lời Chúa. Kinh thánh cũng dạy: “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; Dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi nó” (Châm Ngôn 22:6).

Nền tảng thứ hai mà tiến trình giáo dục phải đặt ra là trách nhiệm. Ai chịu trách nhiệm nuôi dưỡng con cái? Một số người cho rằng trách nhiệm giáo dục con cái là chính quyền. Họ trông đợi vào các trường công lập và tưởng rằng chính phủ sẽ dạy dỗ con cái họ những gì chúng cần biết. Những người khác thì nói rằng trách nhiệm thuộc về Hội thánh. Hàng tuần họ đem con đến Trường Chúa Nhật, nghĩ rằng Hội thánh sẽ dạy chúng yêu mến Chúa và Lời Ngài.

Môise đặt trách nhiệm dạy dỗ con cái hoàn toàn trên đôi vai của cha mẹ. Ông truyền bảo các bậc cha mẹ phải để Lời Chúa ngự trong lòng và rồi dạy lại con cháu họ. Môise được thần cảm và cân nhắc khi ông truyền bảo bậc cha mẹ phải dạy Kinh thánh cho con cháu họ. Kinh thánh nhất quán ủng hộ lời dạy nầy.

Nền tảng thứ ba mà tiến trình dạy dỗ đặt cơ sở là mối quan hệ. Môise giảng: “Khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi, và phải nói đến hoặc khi ngươi ngồi trong nhà, hoặc khi ngươi đi ngoài đường, hoặc lúc ngươi nằm, hay là khi chổi dậy” (Phục truyền 6:7). Nhiều bậc cha mẹ nghĩ rằng việc nầy không thực tế bởi vì họ không có nhà khi con cái họ thức dậy hay đi ngủ.

Điều quan trọng là phải giải thích nền văn hóa của bạn theo ánh sáng của Kinh thánh thay vì giải thích Kinh thánh theo nền văn hóa của bạn. Trong trường hợp nầy, bạn không nên giải thích Kinh thánh theo kế hoạch làm việc của bạn. Kế hoạch làm việc của bạn phải được dẫn dắt theo ánh sáng của các câu Kinh thánh nầy. Bài giảng quan trọng của Môise dạy dỗ mối liên hệ với con cái sẽ chuyển hóa động lực văn hóa của gia đình bạn. Không có cách nào khác để làm theo lời dạy của Môise khi không có mối quan hệ với con cái. Mối quan hệ đó là một phần quan trọng của tiến trình giáo dục.

Nền tảng thứ tư mà trong tiến trình dưỡng dục con cái là điều mà tôi gọi là thực tại. Hãy quan sát Môise nói: “Hãy để những lời nầy ngự trong lòng các ngươi. Ngươi hãy yêu mến Chúa với cả tấm lòng và rồi cẩn thận dạy nó cho con cái ngươi”. Đừng đánh mất thực tại quan trọng đó. Con cái chúng ta học được từ con người chúng ta và từ những gì chúng ta làm hơn những gì chúng ta nói.

Chúa Jêsus phán: “Nhưng phải chứa của báu ở trên trời, là nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy. Vì chưng của cải ngươi ở đâu thì lòng ngươi ở đó. Con mắt là đèn của thân thể. Nếu mắt ngươi sáng sủa thì cả thân thể ngươi sẽ được sáng láng” (Mathiơ 6:20-22). Nói rõ hơn, điều đó có nghĩa là chỉ cho Ta chỗ nào và cách nào các ngươi tiêu tiền, cách các ngươi xử dụng thì giờ và sức lực và các ngươi sẽ chỉ cho Ta thấy tấm lòng của các ngươi ở đâu. Con cái chúng ta học được từ việc quan sát chúng ta sống hơn hơn là lắng nghe những gì chúng ta dạy về giá trị gia đình. Những gì chúng ta dạy cho con cái không nằm ở bài thuyết giảng về những giá trị mà ở giá trị của chúng ta thật sự là gì.

Bốn nền tảng trong bản phát thảo của Môise về việc dưỡng dục con cái được đặt trên cơ sở là: Lời Đức Chúa Trời, trách nhiệm, mối quan hệ và thực tại.

Chương 8: NHỮNG KỶ NIỆM VỀ PHÉP LẠ

Có một sự nhấn mạnh rõ ràng trong suốt sách Phục truyền về tầm quan trọng của việc vâng theo Lời Chúa. Khi dân Ysơraên vâng theo luật pháp Chúa, Ngài chúc phước cho họ. Khi dân Ysơraên không vâng theo luật pháp của Chúa, họ không hưởng được các phước lành của Ngài. Môise đưa ra điểm nầy rất thuyết phục và rồi rao giảng rằng họ phải vâng theo Lời Chúa. Một trong những từ ngữ quan trọng của sách nầy là từ “vâng theo”.
Mục đích chính của bài giảng Môise trong sách Phục truyền là giúp những người Hêbơrơ nhớ lại thể nào Đức Chúa Trời đã hành động trong đời sống của cha mẹ họ và nhớ lại các phép lạ mà Đức Chúa Trời đã thực hiện cho dân Ysơraên. Môise hy vọng các phép lạ mà Chúa đã thực hiện cho cha mẹ họ suốt cuộc hành trình trong đồng vắng sẽ có một ảnh hưởng sâu xa và lâu dài trên đời sống của thế hệ nầy, và họ sẽ kể lại các phép lạ nầy cho con cháu của họ.

Môise cũng giảng cách xác quyết rằng họ không bao giờ được phép vi phạm giao ước giữa họ với Đức Chúa Trời. Giao ước giống như là một hợp đồng giữa Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài. Những điều kiện của giao ước được giải thích cụ thể. Nếu dân chúng không giữ những điều kiện của giao ước, thì giao ước sẽ không còn giá trị. Đức Chúa Trời không chịu trách ban phước cho họ nếu họ không vâng lời.

Chương năm là sự lặp lại Mười Điều Răn. Khi cẩn thận so sánh các điều răn trong sách Êdíptô ký (chương 20) với các điều răn trong sách Phục truyền, bạn sẽ có cái nhìn mới về luật pháp của Đức Chúa Trời. Trong phần lặp lại các điều răn nầy, Môise bảo dân Ysơraên phải hướng lòng về Chúa và phải vâng theo các điều răn của Ngài. Nếu họ làm vậy, mọi phước hạnh sẽ đến với họ trong tương lai và với con cháu họ ở nhiều thế hệ.

Trong sách Phục truyền, Môise giảng cho dân chúng: “Môise và những thầy tế lễ về dòng Lêvi nói cùng cả Ysơraên rằng: Hỡi Ysơraên hãy nín và nghe! Ngày nay ngươi đã trở nên dân của Giêhôva Đức Chúa Trời, vậy phải nghe theo tiếng phán của Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi và giữ theo những điều răn và luật lệ của Ngài, mà Ta truyền cho ngươi ngày nay” (Phục truyền 27:9-10).

Sứ điệp quan trọng của Môise trong chương 6 trở thành lời tuyên xưng đức tin căn bản của Do Thái giáo được gọi là “Shema” (nghĩa là “hãy nghe” trong tiếng Hêbơrơ), bởi vì bài giảng nầy bắt đầu bằng những chữ “Hỡi Ysơraên, hãy nghe”. Mục đích của bài giảng nầy là để thách thức thế hệ thứ hai của dân sự Chúa chuyển giao Lời Đức Chúa Trời cho con cháu họ, thế hệ thứ ba của dân Ysơraên sau khi ra khỏi Êdíptô. Chúng ta tìn thấy bản phác thảo về việc dưỡng dục con cái trong bài giảng tuyệt vời nầy của Môise.

Chương tám của sách Phục truyền cung cấp cho chúng ta một bài giảng sâu sắc và hùng biện khác của Môise. Đây là bài giảng nói về tầm quan trọng của việc vâng theo Lời Chúa.Ở đây Môise cũng chỉ cho chúng ta cách học Lời Đức Chúa Trời. Bài giảng quan trọng nầy cho chúng ta biết mục đích của Lời Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta Lời của Ngài bởi vì Ngài muốn chúng ta biết cách sống. Đức Chúa Trời tạo dựng chúng ta và Ngài biết làm thể nào chúng ta có thể sống một cuộc đời mãn nguyện. Chúa Jêsus đến phán: “Ta đã đến để chiên được sự sống và sự sống sung mãn” (Giăng 10:10). Trong bài giảng quan trọng nầy, Môise cho chúng ta biết cách thức để có thể bước vào một đời sống sung mãn (Phục truyền 8:1-14).

Môise giảng rằng Lời Đức Chúa Trời nói toàn về cuộc sống. Nếu chúng ta muốn hiểu Lời Đức Chúa Trời, có ít nhất hai cách để nghiên cứu. Bạn có thể học ở trường đại học, chủng viện hay trường Kinh thánh; bạn cũng có thể tự học Lời Chúa để mở mang hiểu biết và kiến thức. Thế nhưng, theo Môise, đó không phải là cách duy nhất để học Lời Chúa. Nếu Lời Chúa nói toàn về cuộc sống, thì một cách khác để học Lời Chúa là học ngay trong cuộc sống. Lời Chúa ban cho chúng ta cái nhìn về cuộc sống và cuộc sống cung cấp cho chúng ta cái nhìn về Lời Chúa.

Khi Ngài đặt chúng ta trong hoàn cảnh đói khát và chịu những cơn bão tố của cuộc đời, chúng ta có thể quay trở lại cùng Ngài và nhận biết rằng Ngài là nguồn của sự sống và của mọi sự chúng ta cần để sống một cuộc sống như Ngài phát thảo khi tạo dựng nên chúng ta. Ấy là qua những kinh nghiệm đồng vắng, qua những kinh nghiệm khó khăn của cuộc sống, mà Đức Chúa Trời khiến chúng ta biết rằng “con người sống không chỉ nhờ bánh mà thôi”. Con người sống nhờ vâng theo mọi lời mà Đức Chúa Trời đã ban cho con người. Dân Ysơraên không học Lời Chúa tại chủng viện hay tại nhà hội. Họ học Lời Chúa trong bối cảnh của kinh nghiệm sống thật.

Một bài học khác chúng ta nên học từ chương tám của sách Phục truyền là giữ mình khỏi nguy hiểm về sự thịnh vượng. Bạn có bao giờ nhận biết rằng được phước bởi sự thịnh vượng có thể là một thách thức không? Tuyển dân của Đức Chúa Trời đã học Lời Ngài trong sự kỷ luật. Khi họ bị hình phạt vì không vâng lời, họ học biết rằng Lời Đức Chúa Trời là chìa khóa để mở cuộc sống. Bây giờ Môise cảnh cáo họ rằng họ phải áp dụng trong đời sống những gì đã học được trong những lúc khó khăn, cũng như khi Đức Chúa Trời ban phước cho họ cách dư dật. “Đừng bao giờ quên những bài học mà bạn đã học trong những lúc gặp thử thách và hoạn nạn. Khi bạn đạt đến sự thịnh vượng, đó là lúc phải canh chừng”. Kinh thánh Tân ước
cũng cùng một ý tương tự: “Ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (ICôrinhtô 10:12).

Môise tiếp tục bài giảng quan trọng về Lời Chúa bằng một bài giảng quan trọng khác về ân điển của Đức Chúa Trời. Ông lặp đi lặp lại với dân chúng bốn lần để nhấn mạnh rằng họ đã được Đức Chúa Trời chọn không phải bởi vì họ tốt hay có được ân huệ của Chúa: “Vậy, khá biết rằng chẳng phải vì cớ sự công bình ngươi mà Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi cho ngươi nhận lấy xứ tốt tươi nầy đâu; bởi vì ngươi vẫn là một dân cứng cổ” (Phục 9: 6).

Đây là bức tranh tuyệt vời về ân điển của Đức Chúa Trời. Sự thương xót của Đức Chúa Trời giữ lại những gì mà chúng ta đáng phải gánh chịu. Aân điển của Đức Chúa Trời đổ trên chúng ta ân huệ và phước lành của Ngài mà chúng ta không xứng đáng. Đức Chúa Trời ban phước không phải vì chúng ta tốt. Đức Chúa Trời ban phước vì Ngài tốt lành và vì Ngài yêu thương chúng ta. Đó là ý nghĩa từ “ân điển” .

Môise mô tả rất rõ cho chúng ta biết về ân điển của Đức Chúa Trời trong một bài giảng quan trọng ở chương chín của sách Phục truyền. Bạn sẽ thấy ân điển được nhấn mạnh xuyên suốt Kinh thánh, ân điển là một thuộc tính sống động của Đức Chúa Trời, là nguồn gốc đem lại sự cứu rỗi cho chúng ta. Chúng ta không thể nhận được ân điển của Chúa nhờ sức riêng của mình.

Chương 9: NHỮNG BÀI GIẢNG QUAN TRỌNG KHÁC CỦA MÔISE

Chúng ta đã xem xét bài giảng quan trọng của Môise về ân điển của Chúa trong chương chín, và bây giờ chúng ta hãy sẵn sàng suy gẫm bài giảng nầy về phản ứng của chúng ta với ân điển Đức Chúa Trời trong chương mười.“Vậy, hỡi Ysơraên, bây giờ Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi đòi ngươi điều chi? Há chẳng phải đòi ngươi kính sợ Giêhôva, Đức Chúa Trời ngươi, đi theo các đạo Ngài, nhếy lòng hết ý kính mến và phục sự Giêhôva, Đức Chúa Trời ngươi, giữ các điều răn và luật lệ của Đức Giêhôva, mà ta truyền cho ngươi ngày nay, để ngươi được phước? Kìa, đất và các từng trời cao hơn trời, đất và mọi vật ở trên đất đều thuộc về Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi. Chỉ Đức Giêhôva ưa đẹp và các tổ phụ ngươi và yêu mến, rồi trong muôn dân, Ngài đã chọn dòng dõi họ,tức là các ngươi y như ngươi thấy ngày nay. Vậy hãy trừ sự ô uế của lòng mình đi, chớ cứng cổ nữa” .

Sự nhấn mạnh ở đây là cách chúng ta đáp ứng với ân điển Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta thất bại. Chúng ta không thể làm điều gì để có được tình thương của Đức Chúa Trời, bởi vì tình thương của Ngài không thể có được hay mất đi do công đức của chúng ta.

Không việc gì chúng ta làm lại khiến Đức Chúa Trời không còn yêu thương chúng ta nữa. Tình thương của Ngài không có điều kiện. Tình thương vô điều kiện của Ngài sưởi ấm lòng thương xót và ân điển của Đức Chúa Trời. Đó là ý nghĩa của từ “ân điển.” Ân điển là gươm hai lưỡi. Nó cắt hai mặt. Trước hết, ân điển tuyên bố rằng tình thương của Chúa và phước lành của Ngài không dựa trên cách chúng ta hành xử tốt. Khi bạn hiểu được những từ ngữ ân điển, tình thương, và lòng thương xót là bày tỏ bản tính và thân vị của Đức Chúa Trời, bạn sẽ nhận biết rằng bạn không cần phải lo lắng để nhận được tình thương của Ngài. Dù gì chăng nữa Ngài vẫn yêu thương bạn do bởi chính lòng thương xót, tình thương, và ân điển của Ngài.

Bạn không thể đánh mất lòng thương xót, tình thương và ân điển khi bạn hành xử tiêu cực. Đức Chúa Trời vẫn yêu thương bạn, không phải vì bạn tốt đẹp và Ngài sẽ không ngừng yêu thương bạn nếu bạn xấu xa. Đức Chúa Trời yêu thương bạn. Chúa Jêsus yêu thương bạn khi bạn tốt, khi bạn làm những điều bạn nên làm. Chúa Jêsus yêu thương bạn khi bạn xấu,dù điều đó khiến Ngài rất buồn. Thế nhưng Chúa Jêsus vẫn yêu thương bạn. Đó là sứ điệp của toàn bộ Kinh thánh, đó cũng là sứ điệp của sách Phục truyền.

Bạn đáp ứng với lòng thương xót, ân điển và tình thương của Đức Chúa Trời như thế nào? Hỏi một cách khác là “Bạn yêu Chúa tới mức nào?” Một phụ nữ tin kính sống ở thế kỷ trước đã nói: “Tôi thà xuống địa ngục hơn là làm buồn Đức Thánh Linh một lần nữa.” Chúng ta phải có ước muốn làm đẹp lòng Chúa, Đấng luôn yêu thương chúng ta, và chúng ta đừng bao giờ làm tổn thương Chúa, vì chúng ta yêu thương Ngài. Đó phải là động cơ thúc đẩy chúng ta loại bỏ khỏi đời sống những điều mà Chúa không đẹp lòng và sau đó phục vụ Ngài và bày tỏ sự đáp ứng của chúng ta với tình thương của Ngài trong sự thờ phượng đầy lòng biết ơn và mến yêu.

Sau khi đề cập nhiều về ân điển Đức Chúa Trời và sự cứu rỗi của chúng ta, sứ đồ Phaolô nói với chúng ta: “Tôi xin anh em đừng nhận ân điển của Đức Chúa Trời cách vô ích” (ICôrinhtô 6:1). Giống như nói danh Chúa cách vô ích (lấy Danh Chúa mà làm chơi) là tội thì nhận ân điển của Chúa cách vô ích cũng là tội. Nếu Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta và đổ phước lành trên chúng ta qua ân điển của Ngài, nếu chúng ta không sử dụng ân điển đó, chúng ta đang phạm tội là dùng danh Chúa cách vô ích. Bài giảng quan trọng của Môise trong chương mười cảnh cáo chúng ta đừng bao giờ nhận ân điển của Chúa cách vô ích.

Bài giảng nầy theo sau bài giảng về đề tài bội đạo (chương 13). Sự bội đạo nghĩa là “xa khỏi hay ngã khỏi vị trí mà bạn đã từng có nơi Đức Chúa Trời”. Môise bảo tuyển dân rằng nếu một người con trai, con gái, người vợ, hay người bạn thân tìm cách kéo chúng ta khỏi Đức Chúa Trời, thì dân Ysơraên phải giết chết người đó và không thương tiếc gì người đó. Ông bảo họ rằng nếu họ tấn công một thành phố bội đạo, nên nên hủy diệt thành phố đó. Điều nầy nghe có vẻ nhẫn tâm, nhưng nếu bạn nghiên cứu kỹ về hậu quả của sự bội đạo bị phu tù cho người Babylôn, bị phu tù cho người Asiri – bạn sẽ thấy lý do Đức Chúa Trời rất nghiêm khắc khi Ngài tỏ cho Môise cách để xử lý nân đề bội đạo.

Môise cũng giảng bài giảng về một phần mười (14:22-28). Từ “phần mười” trong tiếng Hêbơrơ nghĩa là “mười”, chúng ta được truyền bảo phải dâng cho Chúa một phần trong mọi vật chúng ta có. Phần mười dạy chúng ta phải luôn luôn đặt Chúa đầu tiên trong đời sống chúng ta. Đức Chúa Trời không cần một phần mười thu nhập của chúng ta, song Ngài truyền
bảo dâng một phần mười vì phần mười là cách đo lường lòng tận hiến của chúng ta với Ngài. Chúng ta học được lẽ thật quan trọng Đức Chúa Trời dạy chúng ta qua phần mười khi chúng ta hiểu rằng phần mười là phần mười đầu tiên của mọi vật mà dân Ysơraên đã nhận khi Đức Chúa Trời cung ứng cho nhu cầu của họ. Đức Chúa Trời muốn biết chúng ta cần có Ngài là đầu tiên trong đời sống chúng ta hay không, nhưng đôi khi chúng ta thì không biết. Đó là lý do Đức Chúa Trời truyền bảo chúng ta phải bày tỏ Ngài là đầu tiên trong những ưu tiên của chúng ta qua việc dâng phần mười đầu tiên trong mọi sự chúng ta nhận.

Đức Chúa Trời muốn phần mười đầu tiên. Khi những người Hêbơrơ tiến vào xứ Canaan, thành phố đầu tiên họ chinh phục là Giêricô. Tất cả chiến lợi phẩm của thành đó phải quy về cho Chúa bởi vì đó là thành đầu tiên họ đã chinh phục. Có năm từ diễn tả tính chất của các sách, các chương và các câu của Kinh thánh. Năm từ đó là Đức Chúa Trời Trước Tiên! Đặt Đức Chúa Trời trước tiên không phải là dễ, nhưng đặt Đức Chúa Trời trước tiên cũng không phải là quá phức tạp. Đức Chúa Trời làm phức tạp cái đơn giản còn Đức Chúa Trời làm đơn giản cái phức tạp. Đức Chúa Trời làm phức tạp cái việc đặt Chúa trước tiên bởi vì chúng ta không muốn đặt Chúa trước tiên. Phần mười giúp chúng ta thành thật với chính mình và đo lường việc Đức Chúa Trời trước tiên trong đời sống chúng ta tới mức độ nào.

Trong chương 15 của sách Phục truyền, Môise đưa ra cho chúng ta một bài giảng về tầm quan trọng của việc thương xót người nghèo. Luật pháp Môise và Cựu ước thường nhấn mạnh về việc làm từ thiện. Môise truyền bảo cách xử dụng khoản phần mười của dân Ysơraên. Phần mười phải dâng cho người Lêvi cơ sở của Kinh thánh để trả lời cho những người hầu việc Chúa. Phần mười cũng giúp những khách ngoại bang trong xứ khi họ rơi vào cảnh túng ngặt. Dân Ysơraên cũng được truyền bảo giúp cho những người góa bụa và mồ côi sống giữa vòng họ.

Khi nói đến việc từ thiện, Môise nói: “Các ngươi là một dân cứng đầu cứng cổ”. ông cảnh cáo họ chớ có than phiền về việc chia sẻ với những người thiếu thốn (15:1-11). Ông giảng
rằng luôn luôn có những người nghèo giữa vòng họ và đó là lý do cần thiết để có mạng lệnh nầy.
Là một tiên tri, Môise giải bày Lời Chúa như một nhà truyền giảng đầy ơn. Ông cũng nói trước là khi ông rao giảng Lời Chúa. Dân Ysơraên lúc đó không có vua và cũng không sẽ không có vua trong vòng 500 năm. Chúng ta cũng sẽ đọc những chi tiết về cách mà một vị vua được đăng quang khi khảo cứu sách Samuên thứ nhất. Nhưng Môise bảo dân Ysơraên rằng một ngày nào đó Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ điều ước ao và ban cho họ một vị vua. Rồi ông viết ra một mạng lệnh có tính tiên tri trong sách luật pháp được thần cảm rằng khi họ có vua, vua phải sao chép sách luật pháp từ sách thánh mà những thầy tế lễ người Lêvi và đọc nó mỗi ngày để vua có thể học kính trọng Chúa và vâng theo mạng lệnh của Ngài. Việc đọc Lời Chúa đều đặn sẽ ngăn người đó khỏi cảm nhận rằng mình tài giỏi hơn người khác. làm thế cũng giữ vua khỏi lìa bỏ luật pháp của Chúa và khiến vua cai trị lâu dài.

Trong Thi thiên thứ nhất của Đavít, ông phác họa người được phước là người suy gẫm luật pháp ngày và đêm. Rồi ông liệt kê tất cả những phước lành mà một người có thể nhận được vì thỏa thích nơi Lời Đức Chúa Trời và bước theo lời khuyên mà người đó tìm thấy trong Lời Chúa. Bởi vì Đavít là vị vua thứ hai của dân Ysơraên, ông phải tuân theo mạng lệnh tiên tri của Môise. Các phước lành của người được phước mà Đavít phác họa trong Thi thiên thứ nhất giống như một bài tiểu sử thuộc linh về cuộc đời của ông.

Trong chương mười tám của sách Phục truyền, Môise có một bài giảng mạnh mẽ chống lại tà đạo. Môise dùng ngôn ngữ rất mạnh để làm sáng tỏ rằng Đức Chúa Trời không dung tha những kẻ đồng bóng và bói toán. Bài giảng nầy nói:
“Khi ngươi được vào trong xứ mà Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi ban cho, chớ tập bắt chước những sự gớm ghiếc của các dân tộc ở tại đó. Ở giữa các ngươi chẳng nên có ai đem con trai hay con gái mình qua lửa, chớ nên có thầy bói hay kẻ hay xem sao mà bói, thầy phù thủy, thầy pháp, kẻ hay dùng ếm chú, người đi hỏi đồng cốt, kẻ thuật số, hay là kẻ đi hỏi cầu vong; vì Đức Giêhôva lấy làm gớm ghiếc kẻ làm việc ấy, và vì các sự gớm ghiếc ấy, nên Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi đuổi các dân tộc đó khỏi trước mặt ngươi. Vì những dân tộc mà ngươi sẽ đuổi đi, nghe theo tà thuật và bói khoa; song về phần ngươi, Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi không cho phép ngươi làm như vậy” (Phục truyền 18:9-14).

Có người nói rằng có nhiều điều xảy ra giữa trời và đất mà con người có thể tưởng tượng ra. Hãy quan sát rằng Kinh thánh không nói những điều nầy là không có. Kinh thánh bảo chúng ta hãy lánh xa. Có những linh trong thế giới thần linh không thánh thiện và không thuộc về Đức Chúa Trời. Khi bạn liên hệ đến việc bói toán, phù phép và nhiều thứ khác, bạn đang tiếp xúc với các linh không thuộc Đức Chúa Trời. Do đó, qua Môise, Đức Chúa Trời mạnh mẽ nghiêm cấm dân sự của Ngài liên hệ đến thế giới thần linh mà không thuộc Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời cho biết Thánh Linh sẽ dẫn chúng ta vào lĩnh vực của các thần linh trên trời. Do đó việc chúng ta cầu hỏi những người thuộc về thế giới tà linh để hướng dẫn và ban sức mạnh cho chúng ta là một tội lỗi.

Có một bài giảng quan trọng trong sách Phục truyền tiên tri về Chúa Cứu Thế. Môise nói: “Từ giữa anh em ngươi, Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi sẽ lập lên một Đấng tiên tri như ta;các ngươi khá nghe theo Đấng ấy! Đó là điều chánh các ngươi đã cầu Giêhôva Đức Chúa Trời ngươi, tại Hôrếp, trong ngày nhóm hiệp mà rằng: Cầu xin tôi chớ nghe tiếng Giêhôva Đức Chúa Trời tôi nữa, chớ thấy đám lửa hừng nầy nữa, e tôi chết chăng” (Phục truyền 18:15-17).

Môise bảo dân Ysơraên rằng Đức Chúa Trời nghe lời cầu nguyện của họ và sai đến thế gian một tiên tri mà Ngài sẽ phán dạy.Đức Chúa Trời đã ban cho họ lời thành văn cách lạ lùng, nhưng Ngài muốn phán với họ vượt quá lời đã chép. Trong sự thương xót và tình thương dành cho họ, Đức Chúa Trời sẽ phán với họ qua chính vị Tiên Tri đặt biệt nầy. Vị tiên tri đó là: Đấng Cứu Thế trở thành Tiên Tri, Thầy Tế Lễ và Vua của họ.

Có một số bài giảng trong chương 19 nói về hình phạt xử tử. Trọng tâm của đoạn nầy không phải nhắm về tội phạm và việc cảm thấy hổ thẹn khi giết chết một người. Trong câu nói được thần cảm của Môise về hình phạt xử tử. Câu Kinh thánh nầy cho chúng ta biết hình phạt xử tử sẽ tẩy sạch tội ác khỏi dân Ysơraên.

Một bài giảng quan trọng về đức tin được tìm thấy trong chương 20. Ghiđêôn áp dụng đoạn Kinh thánh nầy khi ông lãnh đạo đạo binh chống lại người Mađian, đang thống trị dân Ysơraên (Quan xét 7:1-7).“Lúc gần khai chiến, thầy tế lễ sẽ bước tới, nói cùng dân sự mà rằng: Hỡi Ysơraên, hãy nghe! Ngày nay các ngươi đi giao chiến cùng thù nghịch mình, lòng các ngươi chớ nhát, chớ sợ, chớ run rẩy, và chớ kinh khiếp vì chúng nó, bởi Giêhôva Đức Chúa Trời các ngươi là Đấng cùng đi với các ngươi, đặng vì các ngươi đánh kẻ thù nghịch và giải cứu cho” (Phục 20:2-4).

Chúng ta thấy ý niệm “ân điển” thường được bày tỏ trong sách Phục truyền. Chúng ta cũng sẽ gặp ý niệm về “sự cứu chuộc”. Luật mua chuộc người họ hàng gần trong chương 25 là một bức tranh đẹp về Cứu Chúa của chúng ta là Chúa Cứu Thế Jêsus. Lần đầu bạn gặp từ “người mua chuộc” hay “sự cứu chuộc” là những từ liên quan đến thuật ngữ pháp lý. Nhưng nếu bạn hiểu ý nghĩa pháp lý của sự cứu chuộc, bạn sẽ hiểu sự cứu chuộc khi Cựu ước và Tân ước áp dụng ý niệm nầy vào sự chết của Chúa Jêsus trên thập tự giá. Đoạn nầy trong chương 25, trình bày cho chúng ta biết luật người mua chuộc họ hàng, là chìa khóa mở ta ý nghĩa và áp dụng sách Ru tơ.

Cuối sách Phục truyền, và sách Lêviký, sách Giôsuê, bạn sẽ thấy một mạng lệnh quan trọng phải vâng theo Lời Chúa. Một lần nữa đây là điểm chính của sách Phục truyền, một trong những lời giảng hay nhất mà thế giới đã từng nghe đến nằm ở những chương cuối của sách Phục truyền, Môise công bố phước lành của Đức Chúa Trời sẽ đến trên dân Ysơraên nếu họ vâng giữ Lời Chúa, và họ sẽ bị rủa sả nếu không vâng lời. Môise kết thúc bài giảng sống động nầy bằng lời giảng: “Ngày nay, ta bắt trời và đất làm chứng cho các ngươi rằng ta đã đặt trước mặt ngươi sự sống và sự chết, sự phước lành và rủa sả. Vậy, hãy chọn sự sống, hầu cho ngươi và dòng dõi ngươi được sống” (Phục truyền 30:19)

SÁCH GIÔSUÊ

Chương 10: CHIẾM HỮU TÀI SẢN CỦA BẠN

Về một số phương diện thì sách Giôsuê trái ngược hẳn với sách Dân số ký. Dân số ký là một câu chuyện về sự vô tín, dân Ysơraên bị chết mất do hậu quả của việc thiếu đức tin của họ; sách Giôsuê đề cập về đức tin, loại đức tin chinh phục và chiếm hữu mọi sự Đức Chúa Trời dành cho họ.Khi chúng ta khảo cứu sách Xuất Êdípô ký, chúng ta học biết từ “xuất hành” nghĩa là “ra khỏi” ách nô lệ của người Êdíptô. Sách lịch sử đầu tiên có thể được gọi “bước vào” bởi vì nó cũng nói về việc “bước vào” đất hứa Canaan. (“ex” = ra khỏi, “eis” = bước vào). Đề tài của sách Giôsuê là “Chiếm Hữu Tài Sản”.
Tên Giôsuê đồng nghĩa với tên Jêsus. Ngài là con đường, trong tiếng Hy lạp là Joshua hay Yashua cũng là con đường trong tiếng Hy bá. Tên đó nghĩa là “Đấng Cứu Rỗi” hay “Giêhôva cứu rỗi”. Trong tên của ông, vị lãnh đạo tài ba nầy là hình ảnh về Chúa Cứu Thế bởi vì Ngài dẫn dắt dân sự Ngài vào đất hứa của phước lành thuộc linh.

Từ quan trọng trong ơn cứu rỗi khỏi Êdíptô thuộc linh của chúng ta là từ “tin”. Từ quan trọng để bước vào đất hứa của phước lành thuộc linh là từ “vâng lời” Chúng ta nói về đức tin khi chúng ta nói về sự vâng lời. Từ đức tin nghĩa là phó thác, phó thác trong sự vâng lời.Giôsuê được 40 tuổi khi ra khỏi Êdíptô. Hãy nhớ rằng Giôsuê và Calép là hai người sống sót duy nhất trong số những người lang thang trong đồng vắng bởi vì họ có những lời báo cáo tích cực khi được sai đi làm do thám xứ Canaan. Đức Chúa Trời thấy đức tin của họ, và đó là
điều đáng được ban thưởng. Giôsuê 80 tuổi khi ông nhận mạng lệnh lãnh đạo dân sự tiến vào xứ Cananan và chinh phục bảy nước hùng mạnh đang được phòng thủ vững chắc. Ông không nhận mạnh lệnh nầy trực tiếp từ Chúa, mà từ Môise, một người của Đức Chúa Trời biết rõ Chúa và biết rõ Giôsuê.
Mối quan hệ giữa Môise và Giôsuê là một khuôn mẫu về mối quan hệ giữa Phaolô và Timôthê, đây là khuôn mẫu quan trọng trong việc trang bị các lãnh đạo cho dân sự và cho công việc của Đức Chúa Trời (IITimôthê 2:2). Giôsuê qua đời lúc ông 110 tuổi. Ông là một người mạnh mẽ, trung thành, và có đức tin lớn.

Khi chúng ta quan sát Đức Chúa Trời hành động qua các vị lãnh đạo, tiên tri, thầy tế lễ thì chúng ta thấy một sự thay đổi quan trọng khi học đến quyền lãnh đạo của Giôsuê. Môise nhận Lời Chúa trực tiếp từ Đức Chúa Trời trên núi Sinai, cũng như ông nhận mạng lệnh trực tiếp từ Chúa trong bụi gai cháy. Nhưng khi đọc Giôsuê, chúng ta thấy ông được truyền là hãy suy gẫm Lời thành văn – Lời Chúa mà Đức Chúa Trời đã ban cho Môise. Giống như các vị vua của dân Ysơraên theo sau ông, Giôsuê được truyền bảo hãy suy gẫm về Lời Chúa ngày và đêm và ông phải vâng theo các mạng lệnh của Chúa.
Khi những người Hêbơrơ sắp vượt qua sông Giôđanh và tiến chiếm Canaan, đây là điều Chúa truyền bảo họ: “Phàm nơi nào bàn chân các ngươi đạp đến, thì Ta ban cho các ngươi, y như ta đã phán cùng Môise” (Giôsuê 1:3). Cả xứ đã được ban cho họ, và về phương diện sở hữu chủ họ có mọi sự rồi, nhưng về phượng diện chiếm hữu thì chưa. Luật chiếm hữu là mỗi tất đất của xứ Canaan nào mà các ngươi đặt chân đến đó là phần Ta đã ban cho các ngươi – không hơn không kém.

Đây cũng là cách nhận các phước lành thuộc linh của chúng ta. Có nhiều phước lành thuộc linh có sẵn cho chúng ta ngày nay: sự cầu nguyện, Kinh thánh, sự thông công, sự thờ phượng – Đức Chúa Trời ban hết thảy cho mọi kẻ tin. Nhưng một số tin đồ chiếm hữu một số phước lành và một số khác thì không. Chìa khóa thì rất thực tế - Bạn phải đặt chân lên đó.

Bạn chiếm hữu sự cầu nguyện qua sự cầu nguyện, bạn chiếm hữu sự thờ phượng qua sự thờ phượng, bạn chiếm hữu Kinh thánh khi đọc Kinh thánh, hiểu Kinh thánh và áp dụng Kinh thánh. Bạn chiếm hữu những tài sản thuộc linh theo từng bước vào từng lúc.
Nhiều học giả cho rằng sách Êphêsô của Tân ước chính là sách Giôsuê của Cựu ước. Sách Êphêsô cho chúng ta biết về mọi phước lành thuộc linh chúng ta có trong Chúa Cứu Thế và chúng ta có thể bước vào Chúa Cứu Thế để chiếm hữu mọi phước lành thuộc linh nầy.

Câu chìa khóa của sách Giôsuê là 1:3. Câu chìa khóa của sách Êphêsô 1:3 cũng tương tự câu chìa khóa của Giôsuê 1:3: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời” Đức Chúa Trời ban cho chúng ta chứng từ để nhận mọi phước lành mà Ngài đã ban cho chúng ta, nhưng chúng ta phải bước vào đó và chiếm hữu nó.
Trong sách Giôsuê, những phước lành nầy nằm trong đất hứa. Trong sách Êphêsô những phước lành nầy ở trong Chúa Cứu Thế. Nếu chúng ta muốn chiếm hữu những phước lành nầy, chúng ta phải tìm thấy nó qua việc ở trong Chúa Cứu Thế. Chúng ta phải bước vào các nơi trên trời, bởi vì đó là nơi có mọi phước lành. Sách Giôsuê dạy chúng ta rằng chúng ta có
thể bước vào đất hứa của phước lành Đức Chúa Trời bởi đức tin. Phaolô nói với chúng ta điều tương tự khi ông viết thư tín được thần cảm cho những người Êphêsô.

Các tác giả Tân ước khác cũng viết về “đất hứa” thuộc linh. Hãy lắng nghe thư tín của Phierơ nói về nơi nào và cách nào để chúng ta chiếm hữu các tài sản thuộc linh của chúng ta:“Quyền phép Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi điều thuộc về sự sống và sự tin kính, khiến chúng ta biết Đấng lấy vinh hiển và nhơn đức mà gọi chúng ta” (IIPhierơ 1:3).

Phierơ không thể đọc hay viết (IIPhierơ 5:12, Công vụ 4:13). Song ông nhấn mạnh việc nhận biết Đức Chúa Trời. Phierơ không phải là một học giả, nhưng ông là một người thuộc linh khổng lồ, ông biết rõ Đức Chúa Trời. Và ông nói cho chúng ta biết rằng nguồn gốc của mọi phước lành thuộc linh mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta chính là mối quan hệ với Đức Chúa Trời (IIPhierơ 1:3). Theo Phierơ, Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi sự chúng ta cần để sống một đời sống tin kính. Nhưng để chiếm hữu tài sản thuộc linh, chúng ta phải công bố những phước lành nầy trong sự nhận biết về Đức Chúa Trời.
Hai vị lãnh đạo vĩ đại của Hội thánh Tân ước đã đồng ý nhau, và đồng ý với Giôsuê rằng chúng ta đang giữ một chứng từ ghi rằng chúng ta sở hữu mọi phước lành thuộc linh mà chúng ta cần. Nhưng chúng ta phải chiếm hữu các phước lành thuộc linh nầy từng bước một, trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời và với Chúa Cứu Thế.

Giôsuê nói chúng ta có mọi phước lành. Phierơ nói chúng ta có mọi phước lành. Phaolô cũng nói là chúng ta có mọi phước lành. Vậy thì tại sao chúng ta không chiếm hữu mọi phước lành nầy? Ba con người vĩ đại nầy của Đức Chúa Trời đều đồng ý điều nầy, bởi vì chúng ta không hiểu cái cầu đức tin nối liền khoảng cách giữa mọi sự mà Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta và khả năng của chúng ta để chiếm hữu những gì Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta. Đó là lý do Đức Chúa Trời ban cho chúng ta sách Giôsuê.

Trong sách Giôsuê có mười sáu ví dụ minh họa về đức tin. Khi Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết về đức tin trong sách Sáng Thế, Ngài ban cho chúng ta mười hai chương về con người Ápraham. Đức tin rất quan trọng đối với Đức Chúa Trời bởi vì mục đích của toàn bộ sách Giôsuê là chỉ cho chúng ta cách để sống bởi đức tin và bước đi bởi đức tin vào mọi phước lành mà Ngài đã ban cho chúng ta.

Sách Giôsuê nói về xứ Canaan. Dân Ysơraên phải bước vào Canaan, phải chinh phục từng thành một, từng nước một. Nhưng sứ điệp thuộc linh của sách Giôsuê không chỉ là nói về vị trí địa lý, mà về việc chiếm hữu tài sản thuộc linh bởi đức tin.

Sách Giôsuê phác họa mục đích của sự cứu rỗi của quốc gia đặt biệt nầy. Bởi vì từ “sự cứu rỗi” nghĩa là “sự giải cứu” Sự cứu rỗi họ khỏi Êdíptô là một biểu tượng về sự cứu rỗi của chúng ta. Sự cứu rỗi của chúng ta đến từ việc tin rằng Chúa Cứu Thế Jêsus là Con độc nhất của Đức Chúa Trời và là Cứu Chúa của chúng ta. Khi chúng ta đặt đức tin nơi Ngài, Ngài giải cứu chúng ta khỏi tội lỗi hay khỏi “Êdíptô thuộc linh”. Sự xâm chiếm và chinh phục Canaan phác họa phẩm chất về một đời sống mà Đức Chúa Trời đã hoạch định cho những ai đã được cứu khỏi gọng kềm “Êdíptô” trên đời sống họ.
Sứ đồ Phaolô nói cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời cứu chúng ta bởi ân điển qua đức tin. Theo Phaolô, sự cứu rỗi không bởi bất kỳ cố gắng nào từ bản thân chúng ta. Nó là một đặc ân của Đức Chúa Trời, không phải là kết quả của công đức chúng ta. Tuy nhiên, Phaolô cũng viết rằng chúng ta được cứu để làm những việc lành, mà Đức Chúa Trời đã định trước cho chúng ta bước theo. Đức Chúa Trời muốn chúng ta bước đi trong những công việc lành nầy. Những công việc lành nầy là mục đích của sự cứu rỗi chúng ta ở đời nầy và nó là một phần của đất hứa thuộc linh mà Cha yêu thương của chúng ta muốn chúng ta chiếm hữu  từng tất đất một.

Sự cứu rỗi không chỉ là chiếc vé lên thiên đàng, mà còn có một mục đích hiện tại khác trong sự cứu rỗi của chúng ta: “Canaan” thuộc linh ngay trên đất nầy. Lý do chúng ta không chiếm hữu những tài sản thuộc linh có thể là do chúng ta không biết cách chiếm hữu nó. Đó là lý do Đức Chúa Trời ban cho chúng ta sách Giôsuê. Đức Chúa Trời ban cho chúng ta sách lịch sử đầu tiên của Cựu ước để giới thiệu cho chúng ta phẩm chất của một đời sống mà qua đó chúng ta có thể chiếm hữu những tài sản thuộc linh của chúng ta.

Chương 11: TOÀN CẢNH CỦA ĐỨC TIN

Sách Giôsuê ghi lại cuộc chinh phục xứ Canaan. Khi chúng ta nghiên cứu sách nầy, chúng ta sẽ thấy “toàn cảnh của đức tin.” Khi đọc sách Giôsuê, chúng ta sẽ có một khái niệm hay về cách chiếm hữu các phước lành thuộc linh. Từng chương một sẽ cung cấp cho chúng ta những ví dụ và lời cảnh cáo để chỉ cho chúng ta thấy đức tin là gì và điều gì không phải là đức tin. Các chương nầy được xen vào những lời cảnh cáo về những mối nguy của “xác thịt, thế gian và ma quỷ”.

Điều đầu tiên chúng ta thấy trong sách Giôsuê có thể gọi là “sự chuyển tiếp đức tin” Chúng ta thấy sự chuyển tiếp quyền lãnh đạo từ Môise đến Giôsuê qua các câu Kinh thánh:“Hãy vững lòng bền chí, vì ngươi sẽ dẫn dân nầy đi nhận lấy xứ mà Ta đã thề cùng tổ phụ ban cho chúng nó. Chỉ hãy vững lòng bền chí, và cẩn thận làm theo hết thảy luật pháp mà Môise, tôi tớ Ta đã truyền cho ngươi; chớ xây qua bên hữu hoặc bên tả, để hễ ngươi đi đâu cũng đều được thạnh vượng. Quyển sách luật pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước”Giô suê 1:6-9).

Trong các chương đầu của sách Giôsuê, chúng ta thấy điều gọi là “Những rắc rối của đức tin”. Khi chúng ta tăng trưởng trong sự hiểu biết về đức tin, chúng ta không được phép lo lắng khi đi qua những nan đề nẩy sinh những thắc mắc thách thức đức tin của chúng ta. Nếu chúng ta có thể loại trừ tất cả những nan đề và ngăn trở khiến nảy sinh những thắc mắc về đức tin, chúng ta sẽ loại trừ chính nhu cầu để có đức tin.

Nhân vật Ra háp trong chương hai sách Giôsuê nẩy sinh ra câu hỏi và nan đề về đức tin đối với nhiều người. Hai thám tử người Do thái đến nhà của bà và bà giấu họ. Khi những người của vua Giêricô đến tìm những người Do thái nầy, bà chỉ cho họ đi hướng khác. Đức Chúa Trời ban phước cho bà về việc nầy. Chúng ta đọc thấy trong chương đức tin quan trọng của Kinh thánh rằng Ra háp là nữ anh hùng đức tin bởi vì bà nói dối.

Song nếu bạn đọc kỹ câu chuyện nầy, bạn sẽ thấy rằng Ra háp không được phác họa như một tấm gương anh hùng vì bà nói dối. Trong chương đức tin chúng ta đọc: “Bởi đức tin, kỵ nữ Ra háp không chết chung với những kẻ chẳng tin”. Khi những thám tử Do thái đến nhà, Ra háp nói: “Tôi biết rằng Đức Giêhôva đã ban cho các ông xứ nầy, sự kinh khủng vì cớ các ông đã bắt lấy chúng tôi, và của dân cả xứ đều sờn lòng trước mặt các ông” (Giôsuê 2:9).

Các thám tử Do thái đã lập giao ước với bà và hứa tha mạng sống cho bà. Tại sao bà được cứu? Đức tin của bà cứu bà. Bà tin rằng những người Hêbơrơ nầy là dân của Chúa và Đức Chúa Trời của họ là Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống. Ra háp trở thành dân sự của Chúa bởi vì bà có đức tin.

Trong chương 3, chúng ta thấy được “Sự xác quyết của đức tin”. Khi Đức Chúa Trời ban cho chúng ta đức tin để bước vào Canaan thuộc linh, Ngài thường thử nghiệm đức tin nhằm khích lệ chúng ta. Chúng ta thấy điều nầy qua đời sống của Ghêđêôn, người đã thử lốt chiên đểĐức Chúa Trời được vinh hiển. Đavít nói cho chúng ta biết: “Chúa định liệu các bước của người công bình” (Thi thiên 37:23). Điều đó có nghĩa là khi chúng ta bước đi bằng đức tin, Đức Chúa Trời chúc phước và làm cho vững chắc những bước đức tin nầy.

Trong chương nầy, Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài cho Giôsuê và cho dân chúng rằng phước lành của Ngài đổ đầy trên người lãnh đạo của họ là Giôsuê, cũng như đã từng tuôn tràn trên Môise. Ông cũng thực hiện các phép lạ, để khích lệ đức tin của dân chúng. Mục đích của các phép lạ nầy chỉ cho họ thấy rằng Đức Chúa Trời ở cùng họ và khi họ tấn công những thành quách kiên cố của xứ Canaan, như thành Giêricô, Ngài sẽ ban cho họ sự chiến thắng.

Trong chương 4, dân Ysơraên xây “đền thờ đức tin” khi vượt sông Giôđanh, cho dù lúc đó thủy triều đang dâng, song nước sông vẫn rẽ ra và họ đi như trên đất khô. Khi họ băng qua, họ được truyền bảo phải xây một bàn thờ bằng đá, một đền kỷ niệm về phép lạ lớn lao nầy để con cái họ không bao giờ quên những gì Đức Chúa Trời đã làm khi họ có đức tin băng qua sông Giôđanh.

Trong chương 5 chúng ta thấy “Những điều kiện tiên quyết của đức tin”. Bước khi dân Ysơraên xâm chiếm Canaan, họ được truyền bảo phải cắt bì mọi nam đinh giữa vòng họ. Thế hệ nam nhi thứ hai chưa hề chịu cắt bì. Bạn nhớ thế hệ thứ nhất đã chết trong đồng vắng, câu chuyện nầy là một ví dụ về những điều kiện của đức tin thật. Trước khi bạn có thể bước
vào đất hứa của phước lành Đức Chúa Trời, bạn phải hỏi chính mình là còn có tội lỗi nào trong đời sống bạn không? Có tội lỗi nào trong đời sống mà bạn cần phân rẻ không? Khi khảo cứu sách Sáng Thế ký, chúng ta thấy có nhiều người tự nhận mình là Cơ Đốc nhân, song lại phớt lờ bàn thờ ăn năn mà Ápraham đã xây khi đời sống ông là một định nghĩa sống động về đức tin cho chúng ta. Họ không hề để cho Đức Chúa Trời xử lý tội lỗi trong đời sống họ. Chúng ta phải ăn năn tội lỗi trong đời sống của chúng ta trước khi chúng ta mong đợi phước lành của Chúa trên đức tin của chúng ta. Đó là ý nghĩa của mạng lệnh làm phép cắt bì mọi nam đinh. Đó là một biểu hiện bên ngoài mà thấy sự cam kết đức tin trong tấm lòng chúng ta. Ý nghĩa của phép cắt bì mà chúng ta tìm thấy trong Cựu ước rất giống ý nghĩa của phéo báp trong Tân ước.

Trong Giôsuê chương 5, bạn cũng sẽ thấy “Một sứ mạng của đức tin” điều nầy được tìm thấy ở cuối chương 5. Giôsuê ra lệnh rằng không một người lính nào rút gươm. Một đạo quân
cắm trại ở phía đông sông Giôđanh trong bóng đêm rất dễ bị phát hiện và bị kẻ thù tấn công. Vì thế, họ đưa ra mạng lệnh “Đừng tuốt gươm.” Nếu họ thấy ai tuốt gươm ra, họ sẽ biết rằng người đó là kẻ thù và có thể phản ứng nhanh.

Giôsuê đi tuần lúc nửa đêm trước khi đánh thành Giêricô. Ông thấy một người tuốt gươm trần. Giôsuê lại gần và hỏi người nầy: “Ngươi là người của chúng ta hay là người của kẻ thù nghịch chúng ta?” Câu trả lời: “Ta đến làm tướng của đạo binh Đức Giêhôva”. Chúng ta đọc thấy Giôsuê sấp mình xuống đất trước mặt vị nầy và thờ phượng rồi nói: “Chúa truyền cho tôi tớ Chúa điều gì?” Vị Tổng Tư Lệnh nói: “Hãy lột giầy khỏi chân, vì nơi ngươi đứng là thánh. Giôsuê bèn làm như vậy”(Giô 5:14-16).

Theo chương 6 của sách Giôsuê, Giôsuê đã nhận kế hoạch chiến trận từ Chúa vào đêm trước khi cuộc chiến xảy ra, nội dung kế hoạch là toàn bộ dân Ysơraên phải ra khỏi trại, dàn trận và đi vòng quanh thành Giêricô. Họ đi như thế mỗi ngày một lần trong suốt sáu ngày. Vào ngày thứ bảy họ được lệnh phải đi vòng quanh thành bảy lần. Họ được truyền bảo đi vòng quanh thành tổng cộng mười ba lần. Thành nầy được bảo vệ bởi một bức tường rất dày, đến nỗi có nhiều nhà cửa được xây ngay trên bờ tường. Dân cư bảo vệ thành đặt các phụ nữ và những người ốm yếu không thể cầm vũ khí đứng trên đỉnh thành, cầm những cục
than đỏ và bất kỳ vật gì có thể ném xuống đầu những kẻ tấn công.

Một vị tướng giỏi tên là Abimêléc bị một người đàn bà ném thớt cối ngay trên đầu khi ông đi sát thành trong lúc tấn công. Bị vỡ sọ, ông nói với người vác binh khí: “Hãy rút gươm ngươi ra giết ta đi, kẻo người ta nói: một người đàn bà đã giết người” (Quan xét 9:52-54). Chuyện nầy trở thành một lời cánh báo cho đạo quân Ysơraên. Đừng bao giờ đi sát tường thành. Hãy nhớ đến Abimêléc.

Tuy nhiên Đức Chúa Trời truyền bảo Giôsuê đem cả đạo quân đi vòng quanh thành Giêricô tất cả mười ba vòng. Đây là chiến dịch quân sự đầu tiên của Giôsuê, và có lẽ ông rất mong muốn chứng tỏ tài năng quân sự của mình như là một nhà hoạch định chiến lược. Giôsuê sớm chứng tỏ ông là một nhà hoạch định chiến lược tài ba. Kế hoạch đánh trận lần nầy thật buồn cười và làm cho Giôsuê trông rồ dại. Giôsuê thực thi từng chi tiết theo kế hoạch nầy, vì ông chỉ cần biết một điều duy nhất về kế hoạch nầy: Đó là kế hoạch của Đức Chúa Trời!

Suốt thời gian họ đi vòng quanh thành Giêricô, họ được căn dặn là không nói một lời. Dân thành Giêricô chắc hẳn đã quá kinh sợ nên không ném vật gì trên đầu dân Ysơraên. Sau khi đi vòng quanh bảy lần vào ngày thứ bảy. Giôsuê quay sang dân chúng và truyền lệnh: “Hãy la lên!” Sách Hêbơrơ nói rằng bởi đức tin các tường thành Giêricô sụp đổ. Giôsuê đang dẫn đầu cả một đoàn quân Ysơraên đi quanh thành Giêricô. Đó là đức tin. Ông cần có đức tin để đưa đoàn dân nầy trải qua mọi nguy cơ có thể đe dọa từ trên tường thành đó đó, một lần mỗi ngày trong suốt sáu ngày, và ngày thứ bảy thì đến bảy lần như vậy.

Cuộc chiến tại Giêricô cho chúng ta thấy loại đức tin khiến cho chúng ta có thể bước vào “đất hứa” và sống đời sống tin kính. Loại đức tin nầy rất thực tiển, đó là đức tin bước đi.Đức tin của Giôsuê bước đi quanh thành Giêricô mười ba lần không phải là một điều mầu nhiệm. Phẩm chất của đức tin chỉ đơn giản là sự vâng lời. Đức tin “bước đi” là một đức tin mang lại kết quả hữu hiệu. Đức tin đó bước đi và hành động trong ngày đó là một đức tin mang lại sự chiến thắng thành Giêricô cho Giôsuê và dân Ysơraên. Phẩm chất đức tin có thể mang lại kết quả tốt đẹp và mang lại chiến thắng cho những cuộc chiến trong đời sống bạn.

Có phải đức tin bạn là đức tin loại đó không? Một số người nghĩ rằng đức tin không nên hành động cho tới khi họ hiểu được mọi việc bằng lý trí. Nhưng Chúa Jêsus dạy các môn đồ Ngài phải cam kết hành động trước rồi Ngài hứa sự xác nhận bằng lý trí sẽ theo sau. Ngài phán: “Nếu ai muốn làm, người đó sẽ biết” (Giăng 7:17). Trước hết (về nguyên tắc) hãy bước quanh thành Giêricô mười ba lần, và rồi bạn sẽ khám phá một đức tin mang lại kết quả tốt đẹp và chiến thắng.

Vua Đa vít đã viết trong Thi thiên 27: “Ôi nếu tôi không tin chắc rằng tôi sẽ thấy ơn của Đức Giêhôva trên đất kẻ sống tôi hẳn đã ngã lòng rồi”. Một số người nghĩ rằng: “thấy là tin” hoặc thấy sẽ dẫn tới tin. Nhưng Lời Đức Chúa Trời dạy chúng ta rằng tin dẫn tới thấy. Chúng ta thấy cuộc chiến thành Giêricô là hình bóng về khuôn mẫu đức tin.

Đức Chúa Trời vẫn ủy thác kế hoạch của Ngài cho đời sống chúng ta. Đôi khi, sự ủy thác của Ngài sẽ thử nghiệm đức tin của chúng ta, như kế hoạch chiến đấu của Ngài cho thành Giêricô thử nghiệm đức tin của Giôsuê. Nếu bạn biết rõ Đức Chúa Trời, thì bạn cần biết rằng nhiệm vụ Ngài giao cho chúng ta sẽ không có điều gì vượt quá khả năng mà ân điển Ngài có thể ban cho chúng ta. Nếu bạn biết Đức Chúa Trời đang dẫn dắt bạn làm một việc gì đó, hãy làm đi (Giăng 2:5). Sách Giôsuê dạy chúng ta về đức tin thực tiển. Khi bước đi bởi đức tin, thì sẽ hành động bởi đức tin, và khi hành động bởi đức tin, thì đức tin mang lại chiến thắng cho đời sống.

Chương 12: NHỮNG KẺ THÙ CỦA ĐỨC TIN

Sau khi thất bại tại Ahi, chúng ta thấy Giôsuê sấp mình xuống đất trong sự cầu nguyện sốt sắng. Đức Chúa Trời đáp lại lời cầu nguyện của Giôsuê bằng cách hỏi Giôsuê: “Tại sao người kêu cầu Ta? Dân Ysơraên đã phạm tội!” Khi chúng ta thấy những bằng cớ của thực tại vinh hiển rằng Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta, và bằng cớ đó ban cho chúng ta sự khích lệ để tiếp tục và đức tin tăng trưởng khi chúng ta tiếp tục. Nhưng, khi thấy rõ là Đức Chúa Trời không ở cùng chúng ta, chúng ta nên sấp mặt xuống cho đến khi chúng ta hiểu được tại sao Đức Chúa Trời không ở cùng chúng ta. Tại sao Đức Chúa Trời đáp lại lời cầu nguyện của Giôsuê bằng câu hỏi đó?

Trong sách Xuất Êdíptô, chúng ta thấy dân Ysơraên quay lưng về hướng Biển Đỏ và đạo quân Êdíptô đang tấn công họ. Môise sấp mặt xuống trước mặt Đức Chúa Trời và cầu nguyện tha thiết. Đức Chúa Trời hỏi Môise cùng một câu hỏi như Ngài hỏi Giôsuê khi ông sấp mặt xuống cầu nguyện. Đức Chúa Trời hỏi Môise tại sao ông cầu nguyện khi mà rõ ràng là ông nên nói với dân chúng tiến bước – tiến về phía biển.

Thành Giêricô là thành đầu tiên họ chiếm được tại Canaan, nên luật phần mười đòi hỏi những chiến lợi phẩm của thành phải thuộc về Chúa. Binh lính Ysơraên không được giữ một chiến lợi phẩm nào của cuộc chiến nầy. Rõ ràng có một người nào đó đã lấy cho mình một vật tại Giêricô. Đức Chúa Trời bảo Giôsuê truyền 12 chi phái của dân Ysơraên ra trình diện.

Đức Chúa Trời chỉ ra cho Giôsuê biết chi phái phạm tội, sau đó Ngài truyền bảo từng chi tộc thuộc chi phái đó trình diện. Mọi gia đình thuộc chi tộc đó trình diện từng người một, cho đến khi một người tên là “Acan” được phát hiện. Ông thú nhận là đã lấy vàng, bạc, và áo xống ở thành Giêricô, hiện ông đang chôn giấu trong trại. Cuối cùng ông bị xử tử.

Trong các sách lịch sử nầy, chúng ta được dạy dỗ phải nhìn xem những tấm gương và lời cảnh cáo (ICôrinhtô 10:11). Đức tin của Giôsuê là tấm gương để chúng ta noi theo, song sự
bất tuân của Acan là lời cảnh cáo mà chúng ta phải để ý. Khi Đức Chúa Trời chỉ ngón tay Ngài vào tội lỗi trong đời sống chúng ta, chúng ta phải làm chết tội lỗi để phước lành của Chúa trở lại trên đời sống chúng ta (Côlôse 3:5-6; Rôma 8:13). Chúng ta thấy sự kỷ luật thuộc linh nầy được minh họa trong lời cảnh cáo qua đời sống Acan.

Thế gian, xác thịt và ma quỷ

Vì chúng ta được dạy là không được yêu mến thế gian hay những điều thuộc về thế gian, nên qua nhiều thế kỷ, những người tin kính đã nhận biết biểu tượng về thế gian qua kinh nghiệm của Acan tại Giêricô. Sự thất bại của họ tại Ahi được xem là hình bóng của xác thịt. Chúa Jêsus dạy: “Tâm thần thì muốn, mà xác thịt thì yếu đuối” (Mathiơ 26:41). Xác thịt là bản chất của con người mà không được Đức Chúa Trời giúp đỡ. Bởi vì xác thịt khiến chúng ta thất bại về thuộc linh, nên sự thất bại tại Ahi được xem là hình bóng về xác thịt. Kinh nghiệm kế tiếp của dân Ysơraên được ghi lại trong sách Giôsuê là một biểu tượng tiêu biểu cho kẻ thù thứ ba của đức tin, là ma quỷ.

Dân Ysơraên bây giờ gặp một dân gọi là dân “Gabaôn”. Giống Ra háp, dân Gabaôn nhận thấy rằng dân Ysơraên sẽ di chuyển qua xứ Canaan, diệt hết mọi dân. Họ biết họ sẽ chết nên họ lừa dân Ysơraên. Họ đập giầy dép trên đá cho đến khi nó trông có vẻ cũ mòn và làm áo xống của họ trông sờn rách. Dù họ là dân đang sống trong xứ sẽ bị chiếm lấy, nhưng họ giả vờ từ một xứ xa xôi đến.

Dân Ysơraên lập giao ước với dân nầy mà không cầu hỏi ý Chúa. Những người Gabaôn nài nỉ: “Xin hãy kết ước với chúng tôi. Chúng tôi đến từ một xứ rất xa”. Họ lập giao ước với dân Gabaôn. Sau khi lập giao ước, dân Ysơraên phát hiện ra rằng những người Gabaôn nầy không phải từ xứ xa xôi nào mà là từ Canaan. Vì đã lập ước với dân Gabaôn, vì tuyển dân phải có sự thanh liêm tuyệt đối, nên họ không thể giết dân nầy. Họ bắt dân đã lừa họ phải phục dịch cho mình.

Những người Gabaôn nầy làm biểu tượng về mọi kẻ thù của đức tin trong sách Giôsuê. Kẻ thù trước tiên của đức tin là thế gian, được hình bóng qua thành Giêricô. Câu chuyện Acan là biểu tượng về lòng tham muốn thế gian của chúng ta. Giống như Acan, ham muốn áo xống, bạc và vàng, chúng ta ham muốn những điều của thế gian khiến chúng ta xao lãng khỏi Chúa.

Sự thất bại tại Ahi tiêu biểu cho xác thịt. Chúa Jêsus phán: “Tâm thần thì muốn, mà xác thịt thì yếu đuối” (Mat 26:40-42). Vì dân Ysơraên xem thường thành Ahi, nên họ thất bại.Cho đến khi họ không còn khinh dể Ahi, thì họ mới có khả năng chinh phục kẻ thù. Tương tự, chúng ta thường đánh giá thấp điều mà Kinh thánh gọi là xác thịt. Thánh Linh có thể chiến thắng xác thịt, khi chúng ta nhận biết bản chất con người không được Đức Chúa Trời hỗ trợ, là mối đe dọa cho đức tin của chúng ta. Đừng bao giờ đánh giá thấp ảnh hưởng của xác thịt
trên hành trình đức tin của bạn.

Những người Gabaôn lập giao ước qua việc lừa gạt dân Ysơraên. Ma quỷ cũng hành động tương tự. Trong một bài thánh ca rất hay, Martin Luther viết về satan: “Mưu chước và quyền lực của nó thật lớn”. Ma qủy là thiên sứ sáng láng (IICô 11:14). Nó không làm chúng ta sa ngã bằng cách khiến chúng ta làm những việc khủng khiếp. Nó thường đến với chúng ta trong hình thức của một điều gì đó rất dễ mến. Nếu bạn là một bác sĩ, được Đức Chúa Trời kêu gọi làm giáo sĩ, ma quỷ sẽ không cám dỗ bạn đi ra cướp ngân hàng, nhưng cám dỗ bạn muốn làm một bác sĩ giỏi tại quê nhà. Nếu Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm một giáo sĩ, đó là chương trình tốt nhất của Ngài dành cho chúng ta. Satan làm việc để khiến chúng ta làm điều tốt thay vì điều tốt nhất. Đó là lý do có người nói kẻ thù của điều tốt nhất chính là điều tốt. Giôsuê chương 6 đến chương 9 cho chúng ta hình ảnh về ba kẻ thù của đức tin: thế gian,xác thịt và ma quỷ.

Trong phần còn lại của sách Giôsuê, bạn sẽ thấy thêm một biểu tượng phác họa về đức tin. Đời sống của Giôsuê, và một con người khác được đề cập cùng với Giôsuê, cho chúng ta “Một Tiểu Sử Tích Cực Về Đức tin.” Một trong những người có đức tin vĩ đại trong Kinh thánh là Calép. Ông là một thám tử mang về lời báo cáo tích cực cùng với Giôsuê. Calép không bao giờ mất khải tượng. Suốt thời gian lang thang trong đồng vắng, khi dân Ysơraên than vãn và chết khát, thì Calép cứ nghĩ đến những trái nho mà ông đã thấy khi cùng Giôsuê do thám thành Hếprôn.

Mười thám tử khác là những chuyên gia về “khổng lồ học” – chú tâm về những khó khăn hay những tên khổng lồ, như chúng ta đã nói đến khi học sách Dân số ký. Calép có thấy những tên khổng lồ, nhưng ông biết Đức Chúa Trời lớn hơn những tên khổng lồ. Khi dân Ysơraên vào đất hứa, Calép chinh phục và chiếm lấy thành Hếp rôn, thành mà Môise hứa với ông.

Cũng còn có một “Tiểu Sử Tiêu Cực về Đức tin” trong sách Giôsuê. Ngoài mười thám tử thiếu đức tin, thì dân Ysơraên cũng đã thất bại trong việc chinh phục các dân còn lại tại xứ Canaan như Đức Chúa Trời đã truyền bảo, tiêu biểu cho một hình ảnh tiêu cực về đức tin. Nếu họ đã thực thi kế hoạch của Chúa, chúng ta chắc đã không đọc trong sách kế tiếp của Kinh thánh rằng họ bị bắt làm nô lệ bảy lần do chính những dân mà không chinh phục.

Bức tranh cuối cùng về đức tin mà chúng ta tìm thấy trong sách Giôsuê có thể được gọi là “Một Phán Quyết Về Đức tin”. Giôsuê thách thức dân sự hãy đóng ấn đức tin bằng cách lập giao ước với Chúa. Nêu một tấm gương, ông nói: “Về phần ta, ta và nhà ta sẽ hầu việc Chúa” (Giôsuê 24:15). Giôsuê đóng ấn đức tin bằng một giao ước. Ông tiết lộ rằng ông và nhà ông sẽ đặt Chúa làm đầu và phục vụ Chúa. Khi Giôsuê thách thức dân sự hợp với ông trong việc lập kết ước đó, họ đã làm, và nói rằng: “Vậy bây giờ, hãy kính sợ Đức Giêhôva, và
phục sự Ngài cách thành tâm và trung tín; hãy bỏ xa các thần mà tổ phụ các ngươi hầu việc bên kia sông, và tại xứ Êdíptô; phải phục sự Đức Giêhôva. Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức Giêhôva, thì ngày nay hãy chọn ai mà mình muốn phục sự, hoặc các thần mà tổ phụ các ngươi đã hầu việc bên kia sông, hoặc các thần Amôrít trong xứ mà các ngươi ở; nhưng ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giêhôva. Dân sự bèn đáp rằng: chúng tôi quyết hẳn không lìa bỏ Đức Giêhôva mà hầu việc các thần khác” (Giô 24:14-16).

Sách Giôsuê kết thúc với việc Giôsuê truyền lệnh cho dân chúng như Môise đã làm vào cuối sách Phục truyền và sách Lêvi ký. Môise và Giôsuê thách thức chúng ta đem những vấn đề đức tin đến một quyết định cam kết đặt Chúa trên hết trong đời sống chúng ta.

Bạn có bao giờ đem những vấn đề đức tin đến một quyết định và thực hiện một cam kết nghiêm túc với Chúa chưa? Bạn có bao giờ quyết định trong lòng rằng bạn và gia đình bạn sẽ đặt Chúa làm đầu và hầu việc chỉ một mình Ngài mà thôi chưa? Hãy cùng nhau thêm vào nhiều tiểu sử đức tin trong sách lịch sử được thần cảm của Cựu ước. Hãy cẩn thận suy gẫm
về cách mà sách nói về đức tin nầy kết thúc. Kế đến, hãy để Đức Thánh Linh cảm động bạn dâng mình và lập một giao ước về phẩm chất đức tin được tóm tắt trong sách Giôsuê.

Nguồn tài liệu: HỘI HỢP TÁC TRUYỀN GIÁO QUỐC TẾ TRƯỜNG CAO ĐẲNG THÁNH KINH