Content on this page requires a newer version of Adobe Flash Player.

Get Adobe Flash player

 

 

 


THẢO CHƯƠNG TÂN ƯỚC

Giới Thiệu Các Sách Phúc Âm & Khảo Cứu Mathiơ

Biên Soạn: Dick Woodwar


NHÌN CHUNG VỀ MATHIƠ

Chương 1: NHỮNG QUYỂN SÁCH HAY NHẤT TRONG KINH THÁNH

Bốn sách đầu của Tân ước thường được nói đến như là “Các Sách Tiểu Sử Chúa Jêsus”, vì các sách nầy là những nguồn tài liệu cung cấp cho chúng ta những thông tin về tiểu sử của một cuộc đời quan trọng nhất đã từng sống trên đất. Tuy nhiên, bốn sách nầy không hẳn là những sách ghi tiểu sử điển hình như chúng ta thường thấy về loại sách tiểu sử ngày nay, vì có hai sách thậm chí không hề đề cập gì đến sự ra đời của Chúa Jêsus và ba mươi năm đầu của cuộc đời Ngài.

Phúc âm Mác chỉ giới thiệu đơn giản, ngắn gọn rằng: “Chúa Jêsus đã đến”, sau đó chúng ta gặp Ngài ở tuổi ba mươi và bước theo Ngài trong ba năm cuối cùng của cuộc đời Ngài ở thế gian. Chúng ta cũng thấy tương tự như vậy trong Phúc âm Giăng. Mathiơ nói về sự ra đời của Chúa rất ngắn gọn và sau đó ông cũng không đề cập gì đến ba mươi năm đầu của cuộc đời Ngài. Luca là tác giả sách Phúc âm duy nhất ghi lại một số chi tiết về sự giáng sinh của Chúa Jêsus. Luca phá tan bầu không khí yên lặng và kể lại cho chúng ta nghe một chuyện bất ngờ nhỏ đã xảy ra trong suốt thời gian ba mươi năm đầu của Ngài. Hầu hết các tác giả nầy ưu tiên nói cho chúng ta biết rằng Chúa Jêsus đã đến – và lý do tại sao Ngài đến thế gian nầy.

Các Sách Phúc Âm Cộng Quan

Khi bạn đọc bốn sách Phúc âm nầy, một trong những điều khiến bạn thấy ngay là sách Mathiơ, Mác và Luca có rất nhiều phần nội dung giống nhau, trong khi chín mươi phần trăm nội dung Phúc âm Giăng chỉ có ở sách ấy mà thôi. Bởi vì nội dung của ba sách Phúc âm đầu có nhiều phần tương đồng nên chúng được gọi là “Các Sách Tin Lành Cộng Quan”.

Mác ghi nhận những sự kiện về Chúa Jêsus rất rõ ràng và súc tích. Để có thể viết một bài báo sâu sắc, rõ ràng, các sinh viên khoa báo chí nên đọc Phúc âm Mác trước rồi hẳn đọc đến Mathiơ và Luca. Họ cần đặt sự quan sát và nghiên cứu của mình trên nền tảng của sách Phúc âm nầy, vì nhiều học giả cho rằng sách Mác đã được viết trước, và Phierơ là người cung cấp thông tin với tư cách là nhân chứng. Với ý nghĩ như vậy của các học giả nầy, Mathiơ và Luca đã dùng Phúc âm Mác làm nền cho tác phẩm của mình. Hai tác giả của sách Phúc âm đầu và Phúc âm thứ ba tin chắc là có một số sự kiện về cuộc đời Chúa Jêsus mà Mác không ghi nhận. Họ được Đức Thánh Linh cảm động, hướng dẫn để viết ra Phúc âm của mình và cũng để chia sẻ với chúng ta những sự kiện đó.

Vì chín mươi phần trăm nội dung Phúc âm Giăng không tìm thấy trong các sách Phúc âm Mathiơ, Mác và Luca cho nên Sứ đồ Giăng muốn trình bày một số sự kiện về cuộc đời và chức vụ của Chúa Jêsus, là những sự kiện chúng ta không thấy trong ba sách Phúc âm đầu. Vì Phúc âm Giăng có tính chất đặc biệt bởi những lý do như đã nêu,cho nên chúng ta sẽ nghiên cứu các sách Phúc âm Cộng quan và Phúc âm Giăng một cách riêng lẽ, độc lập.

Cuộc đời Chúa Jêsus là cột mốc thời gian trong lịch sử nhân loại. Phần lớn thế giới nhân loại phân chia lịch sử thành nhiều năm trước Chúa Jêsus và sau khi Chúa Jêsus ra đời. Cầm bất kỳ tờ báo hay tạp chí nào trong thế giới nầy, chúng ta đều thấy có ghi đầy đủ ngày tháng. Việc ghi lại ngày tháng như vậy nghĩa là người ta công nhận đã có bao nhiêu năm tính từ cuộc đời Chúa Jêsus Christ đến lúc ấy. Nhìn chung, chúng ta vừa xem xét và tóm tắt cùng một lúc tất cả bốn sách tiểu sử được thần cảm nầy, như vậy,chúng ta sẽ có cái nhìn thấu đáo về cuộc đời của một Con Người, Đấng đã sống ở thế gian chỉ ba mươi ba năm, song đã tạo ra một ảnh hưởng sâu đậm trên lịch sử nhân loại chúng ta.

Chìa Khóa Để Mở Kinh thánh

Sau khi Chúa Jêsus bị đóng đinh và sống lại từ kẻ chết, Ngài đã có một cuộc trò chuyện với các sứ đồ. Chúng ta đọc thấy Ngài đã nói với họ một số điều về Kinh thánh,và điều đó khiến họ được mở mang đểhiểu biết về Lời Đức Chúa Trời. Mặc dù các sứ đồ từng ở với Chúa ba năm, nhưng dường như họ không hiểu gì về Kinh thánh.

Chúa Jêsus đã nói với họ về điều gì trong Kinh thánh khiến họ được mở trí mình ra và hiểu được Lời Đức Chúa Trời như vậy? Chúng ta hãy đọc: “Đoạn, Ngài bắt đầu từ Môise rồi kế đến mọi đấng tiên tri mà cắt nghĩa cho hai người đó những lời chỉ về Ngài trong cả Kinh thánh” (Luca 24: 25-27, 44-45). Khi các sứ đồ nghe rằng cả Kinh thánh đều nói về Đấng Christ, đó là lần đầu tiên trong đời họ nghe như vậy, và họ đã hiểu Kinh thánh (dĩ nhiên là Chúa đang đề cập đến Kinh thánh Cựu ước khi Ngài bảo các sứ đồ cả Kinh thánh đều nói về Ngài).

Chúa Jêsus cũng nói với các thầy thông giáo và người Pharisi thế nầy: “Các ngươi dò xem Kinh thánh, vì tưởng bởi đó được sự sống đời đời: Ấy là Kinh thánh làm chứng về Ta vậy. Các ngươi không muốn đến cùng Ta để được sự sống!” (Giăng 5:39-40).Oswald Chambers, một tác giả người Anh tài ba viết về sự tĩnh nguyện, cho rằng hai câu Kinh thánh trên chính là chìa khóa để mở ra toàn bộ Kinh thánh. Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được Kinh thánh thực sự cho đến khi chúng ta nhận ra toàn bộ Kinh thánh Tân, Cựu ước đều nói về Chúa Jêsus Christ! Kinh thánh không phải là cuốn sách lịch sử của nền văn minh nhân loại. Kinh thánh cũng không phải là cuốn sách giáo khoa thu thập kiến thức viết về các khởi nguyên của vạn vật. Kinh thánh chính là cuốn sách viết về sự cứu rỗi và sự chuộc tội cho nhân loại. Mục đích của Kinh thánh nhằm trình bày Chúa Jêsus Christ là Chúa Cứu Thế và cũng là Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Kinh thánh còn đem lại cho chúng ta bối cảnh lịch sử mà Chúa Cứu Thế đã đến trong thế gian nầy.

Nếu các nhà lãnh đạo trong Hội thánh đã sửa soạn cho mình lỗ tai thiêng liêng để nghe Chúa Jêsus dạy dỗ, thì chắc hẳn họ sẽ nhận được từ Ngài chìa khóa có thể mở trí hiểu của họ ra khiến họ hiểu được Kinh thánh Cựu ước. Mắt họ ắt cũng sẽ được mở ra để có thể nhìn thấy phép lạ, chính Đấng Mêsi đang đứng trước mặt họ.

Đây là một Lẽ thật căn bản, rằng toàn bộ Kinh thánh đều nói đến Chúa Jêsus Christ, ngày nay có thể mở ra cho chúng ta sự hiểu biết về cả Kinh thánh Tân, Cựu ước.Bốn sách Phúc âm nầy là những sách quan trọng nhất trong Kinh thánh, bởi vì cả Kinh thánh đều nói về Chúa Jêsus Christ, và bốn sách Phúc âm nầy là những sách đã được thần cảm ghi lại tiểu sử của Ngài.

Điều Mà Tất Cả Các Sách Phúc Âm Đều Nói Đến

Tất cả những gì chúng ta đang tin sẽ bắt đầu với sự mặc khải vĩ đại nhất về lẽ thật mà Đức Chúa Trời đã ban cho thế gian, đó là cuộc đời và sự dạy dỗ của Chúa Jêsus Christ. Một trong những sách Phúc âm nầy cho chúng ta biết rằng: “Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giãi bày Cha cho chúng ta biết “ (Giăng 1:18). Từ Hylạp “giải bày Cha” là “giải thích” có nghĩa là “tỏ bày lẽ thật”. Giải nghĩa một câu Kinh thánh nghĩa là làm sáng tỏ tất cả chân lý từ câu Kinh thánh đó.

Điều chúng ta đang bàn ở đây là Đức Chúa Jêsus Christ đã làm sáng tỏ tính hiệp nhất của Ngài với Đức Chúa Trời, bày tỏ tất cả lẽ thật giúp chúng ta có thể hiểu về Đức Chúa Trời. Điều nầy có nghĩa rằng Chúa Jêsus Christ chính là Sự Mặc Khải vĩ đại nhất về lẽ thật mà Đức Chúa Trời ban cho thế gian. Tất cả những gì Chúa Jêsus thể hiện, mọi việc Ngài làm, và mọi lời Ngài nói thảy đều “giải thích” về Đức Chúa Trời. Những sách Phúc âm nầy là những sách quan trọng nhất trong Kinh thánh vì các sách nầy nói cho chúng ta biết tất cả về Chúa Jêsus, Đấng đã bày tỏ Đức Chúa Trời một cách thật rõ ràng và đầy đủ.

Có một câu Kinh thánh khác trong Phúc âm Giăng nói cho chúng ta nghe điều mà cả bốn sách Phúc âm đều đề cập đến. Giăng viết: “Ban đầu có Ngôi Lời (Chúa Jêsus), Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời” (Giăng 1:1). Ở phần cuối của chương một nầy, chúng ta đọc: “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta,đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha” (1:14).

Để minh họa cho câu Kinh thánh quan trọng nầy, tôi mời bạn hãy vận dụng trí tưởng tượng của mình. Bây giờ bạn hãy tưởng tượng bạn đang gặp vấn đề về lũ kiến. Khi bạn để thứ gì đó có vị ngọt trên bàn, lúc tối về nhà bạn thấy kiến bu đầy bàn. Giả sử bạn muốn xử lý những chú kiến đó, bạn biết bầy kiến đến từ một cái hang lớn sau nhà.Quyết tâm xua lũ kiến đi, bạn liền đổ dầu hỏa vào hang kiến rồi châm lửa đốt. Khi lửa cháy lên, lũ kiến chui sâu xuống hang. Đến lúc lửa tắt, chúng lại chui ra và lại bò vào nhà bạn như trước.Vậy, bạn phải giải quyết vấn đề kiến của bạn bằng cách nào? Vấn đề của bạn không phải là do bạn ghét kiến mà là vì lũ kiến đó cứ hay bu đầy bàn ăn của bạn. Nếu bạn có khả năng trao đổi trò chuyện được với kiến, có lẽ bạn sẽ nói với chúng rằng: “Kìa! Tao không ghét chúng mày đâu. Đơn giản là tao không muốn chúng mày ở trên bàn của tao. Tao sẽ cho chúng mày một miếng thức ăn ở đằng kia, ngay gần cửa hang, với điều kiện là chúng mày đừng bò vào nhà tao nữa!”. Trở ngại lớn nhất của bạn ở đây là bạn không thể giao tiếp được với kiến. Bạn là người, chúng là kiến, và con người thì không thể nào nói chuyện được với kiến.Bây giờ, bạn hãy dùng trí tưởng tượng lần nữa. Nếu bạn yêu thương lũ kiến đó và bạn có thể làm được mọi sự bạn muốn vì cớ chúng, có lẽ bạn sẽ quyết định biến thành kiến, chui xuống hang và nói: “Nè! Các bạn kiến ơi! trông tôi có vẻ giống kiến nhưng tôi không phải là kiến đâu nhé! Tôi là người sống trong ngôi nhà lớn ở trên kia kìa và bây giờ tôi muốn đề nghị với các bạn thế nầy. Tôi sẽ cho các bạn những điều các bạn cần, với điều kiện là chúng ta hãy cùng nhau tiến đến một thỏa thuận. Tôi sẽ đặt một miếng thức ăn thật lớn gần hang của các bạn nếu các bạn chịu rời khỏi nhà tôi!”

Đây là một thí dụ minh họa khá ngộ nghĩnh, thế nhưng bạn có thấy được điều tôi muốn trình bày ở đây là gì không? Lời nói là phương tiện của ý nghĩ. Đức Chúa Trời có lẽ thật và Ngài muốn truyền đạt cho chúng ta, Ngài có một giao ước về sự cứu rỗi muốn thiết lập với chúng ta. Cha yêu thương của chúng ta ở trên trời rất yêu thương chúng ta, đến nỗi Ngài chịu làm một sinh tế vĩ đại, lìa bỏ thiên đàng để truyền đạt lẽ thật cho chúng ta. Nhưng Ngài là Chúa còn chúng ta là loài người. Có một cách tốt nhất để chuyển tải ý tưởng vĩ đại đó là gói gọn ý tưởng ấy trong một con người. Ấy là lý do tại sao Đức Chúa Trời gọi Con Ngài là “Ngôi Lời” và sau đó Ngài nói cho chúng ta biết Ngôi Lời trở nên xác thịt sống giữa vòng chúng ta cho đến năm ba mươi ba tuổi.Chắc chắn là vì sự hạ mình mà có người muốn trở thành kiến để có thể trò chuyện, trao đổi với bầy kiến, và làm một sinh tế vì ích lợi của bầy kiến. Tuy nhiên, khi Kinh thánh dạy rằng Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt như con người để Ngài có thể trò chuyện, giao tiếp với chúng ta và cứu chúng ta thóat khỏi tội lỗi mình, đó là sự hạ mình vĩ đại nhất mà thế gian nầy đã từng thấy.

Chúa Jêsus Sắp Đến! Chúa Jêsus Đã Đến!

Vấn đề chủ yếu được bày tỏ trong Kinh thánh ở đây là vấn đề con người đã lìa bỏ Thiên Chúa và bây giờ sự xa cách đó cần được hàn gắn lại. Sứ điệp Cựu ước tóm tắt giải pháp xử lý vấn đề đó bằng những dòng chữ: “Chúa Jêsus sắp đến!”. Sứ điệp Tân ước mô tả giải pháp cho vấn đề đó trong câu: “Chúa Jêsus đã đến!”.Xuyên suốt Kinh thánh Cựu ước, chúng ta thường nghe các nhà tiên tri và nhiều người khác nữa nói như vầy: “Tôi biết đó là điều sắp xảy ra. Tôi tin Đức Chúa Trời khi Lời Ngài bảo chúng ta rằng Ngài sẽ sai Đấng Mêsi đến thế gian nầy”. Chúng ta hãy nghe những người như Gióp nói tiên tri: “Còn tôi, tôi biết rằng Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống. Đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất". Tuy vậy, chúng ta cũng hãy nghe Gióp kêu la: “Ôi! Chớ chi tôi biết nơi nào tìm được Chúa, hầu cho đi đến trước tòa của Ngài!” (Gióp 19:25; 23: 3).

Trong các sách Phúc âm nầy, chúng ta nghe những người như Anhrê, em của Simôn Phierơ kêu lên: “Chúng ta đã gặp Đấng Mêsi!” (Giăng 1:41). Và khi người đàn bà Samari xác quyết rằng Đấng Mêsi sẽ đến trong ngày ấy, thì chúng ta nghe Chúa Jêsus đáp lại rất rõ ràng:“Đấng đó chính là Ta đây!” Ngài tuyên bố Ngài chính là Đấng Mêsi đã được hứa ban mà các nhà tiên tri trong Cựu ước đã nói (Giăng 4:25-26).

Bốn sách đầu của Tân ước được gọi là “các sách Phúc âm” bởi vì từ “Phúc âm” có nghĩa là “Tin Lành”. Khi các sứ đồ đúc kết và ứng dụng Tin Lành của các sách Phúc âm nầy, thì họ cho chúng ta biết rằng chúng ta đã được làm hòa với Đức Chúa Trời vì Chúa Jêsus đã đến. Họ tóm tắt lời thách thức của bốn sách tiểu sử được thần cảm của Chúa Jêsus Christ như sau: “Chúa đang dùng chúng tôi nói với bạn điều nầy: chúng tôi xin bạn như thể chính Chúa Jêsus Christ đang xin bạn là hãy tiếp nhận tình yêu Ngài dành tặng cho bạn – để bạn được hòa thuận với Đức Chúa Trời (IICôrinhtô 5:20).

Khi chúng ta cùng nhau nghiên cứu Kinh thánh Tân ước, tôi đã cầu nguyện thế nầy, nếu bạn đang xa cách Đức Chúa Trời, bạn sẽ kinh nghiệm được sự hòa thuận với Ngài qua Đức Chúa Jêsus Christ. Khi bạn được hòa thuận và trở lại trong mối tương giao với Đức Chúa Trời qua Đấng Christ thì chắc chắn bạn sẽ được hòa thuận với chính bạn và hòa thuận với người khác nữa. Đó là điều cốt lõi trong sứ điệp Tân ước.Hãy tìm kiếm sứ điệp đó khi bạn đọc Kinh thánh Tân ước. Sứ điệp đó là: Hãy làm hòa với Đức Chúa Trời, làm hòa với chính mình và với người khác, vì cớ bạn tin Chúa Jêsus Christ là Đấng Mêsi theo lời hứa đã vào đời.

Chương 2: NHỮNG LỜI TUYÊN BỐ VỀ SỨ MỆNH CỦA CHÚA JÊSUS

Khi chúng ta đọc kỹ các sách Phúc âm, chúng ta sẽ khám phá ra rằng có một Con Người đã sống với sứ mệnh của mình và Ngài biết rất rõ sứ mệnh của Ngài là gì. Khi bạn cùng đọc các sách Phúc âm với tôi, xin bạn hãy lắng nghe Chúa Jêsus nói cho bạn biết lý do tại sao Ngài đến thế gian. Bạn sẽ nghe Ngài mô tả sơ lược những điều mà chúng ta có thể gọi là:“Niềm đam mê cao thượng” của Ngài. Khi Ngài tuyên bố một cách rõ ràng về mục đích cuộc đời và chức vụ của Ngài, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi xác định Ngài là Ai và tại sao Ngài đến thế gian. Thí dụ trong Phúc âm Giăng, chúng ta nghe Chúa Jêsus mô tả sứ mạng của Ngài và mục tiêu sứ mạng thế nầy: “Trong khi còn ban ngày, Ta phải làm trọn những việc của Đấng đã sai Ta đến; tối lại, thì không ai làm việc được” (9:4). Chúng ta cũng nghe Chúa Jêsus nói với các sứ đồ của Ngài: “ Ta có một thứ lương thực để nuôi mình mà các ngươi không biết…Đồ ăn của Ta tức là làm theo ý muốn của Đấng sai Ta đến, và làm trọn công việc Ngài” (4:32,34).Khi đã đến lúc Đức Chúa Jêsus kết thúc ba năm thi hành chức vụ công khai của mình, Ngài đi vào vườn Ghếtsêmanê cầu nguyện: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm” (17:4). Những lời cuối cùng của Ngài trên thập tự giá là lời chiến thắng, Ngài đã kêu lên: “Mọi sự đã được trọn” (19:30).

Mục Đích Sống

Chúa Jêsus đã sống một đời sống mẫu mực và bày tỏ cho chúng ta thấy được mục đích của đời người. Có một bài Tín Điều quen thuộc mà các bậc cha mẹ tin kính thường dạy cho con cái mình, có câu: “Mục đích chính của con người là làm vinh hiển Đức Chúa Trời, và thỏa lòng nơi Ngài mãi mãi”. Mục đích của cuộc sống là làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Thế nhưng, ý câu nầy nghĩa ra sao? và chúng ta làm vinh hiển Đức Chúa Trời bằng cách nào đây?Chúa Jêsus giải đáp cho câu hỏi đó khi Ngài cầu nguyện như thế nầy: “Cha ơi! Con xin làm sáng danh Cha! Xin Cha giao tờ hóa đơn cho Con – Con sẵn sàng trả hết” (Giăng 12:23-28). Ngài đã chứng minh điều nầy bằng chính cuộc đời của Ngài, đã trả giá để làm sáng danh Đức Chúa Trời, cho đến khi kết thúc cuộc đời mình, Ngài tuyên bố: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm…Mọi việc đã được trọn…Cha ơi! Con xin giao linh hồn Con trong tay Cha! ”(17:4; 19:30).

Trong thập niên năm mươi, có một người tên là Jim Elliot cùng bốn nhà truyền giáo khác ở Ecuador đã tử đạo, những thổ dân da đỏ Auca dùng rựa tấn công chém chết họ, rồi chặt chân tay vứt xác xuống một con suối trong rừng. Khi các thành viên thuộc lực lượng vũ trang được phái đến kiếm các thi thể, họ tìm thấy xác Jim Elliot với cuốn nhật ký của ông nữa.Trong những trang nhật ký đã bị nước thấm ướt nhòe nhoẹt, họ đọc được các lời nầy: “Khi thời điểm theo hoạch định và mục đích của Đức Chúa Trời dành cho bạn đã đến thì bạn ắt phải chết, hãy chuẩn bị tinh thần rằng tất cả những gì bạn phải làm lúc đó chính là chịu hy sinh”.Khi chúng ta cùng nhau nghiên cứu Kinh thánh Tân ước với chủ đích rõ ràng, tôi muốn hỏi bạn các câu hỏi ứng dụng cá nhân: “Ý của những lời nhật ký kia muốn nói là gì vậy? Nó có ý nghĩa gì? Nó có ý nghĩa gì đối với bạn? Với những người trong mối quan hệ xã hội của bạn? Với những người bạn đang dạy dỗ, và có ý nghĩa gì với Chúa?Trọn đời mình, Chúa Jêsus lúc nào cũng lo tưởng đến công việc mà Cha muốn Ngài hoàn thành. Ngày qua ngày, Chúa vẫn thường bảo rằng: “Trong khi còn ban ngày, Ta phải làm trọn những việc của Đấng đã sai Ta đến; tối lại, thì không ai làm việc được” (9:4). Đến thì giờ cuối cùng của cuộc đời mình, Chúa đã hoàn thành hết mọi công tác. Tất cả những gì Ngài đã phải làm đó là chịu hy sinh.Khi ứng dụng lời mời gọi nầy vào đời sống cá nhân, tôi muốn hỏi bạn vài câu hỏi: “Điều gì đã bắt đầu trong cuộc đời bạn như là một kết quả của công việc mà Chúa Jêsus đã hoàn thành bằng chính đời sống của Ngài? Có phải bạn đã nhận ra những điều Chúa làm cho bạn và cứu bạn để cuối cùng bạn làm sáng danh Ngài? Có phải bạn đang làm vinh hiển danh Chúa mỗi ngày hay không? Khi thời điểm xảy đến theo hoạch định của Đức Chúa Trời dành cho bạn là lúc bạn phải chết, vậy thì liệu bạn có thể nói rằng: “Cha ơi! Con đã làm sáng danh Cha trên đất. Con đã hoàn thành công việc Ngài giao cho con” hay không? Liệu bạn có dám thưa thế nầy: “Tất cả những gì con phải làm đó là chịu hy sinh. Cha ơi! con xin giao linh hồn con vào tay Cha!” hay không? Hoặc, có phải bạn đang có ý thức trách nhiệm về một công việc nào đó mà bạn chưa hoàn thành khi suy nghĩ về mục đích của Chúa dành cho bạn sự cứu rỗi trong đời nầy hay không?

Cuộc Đời Đấng Christ

Có một phương pháp rất hay để nghiên cứu cuộc đời Đức Chúa Jêsus Christ trong các sách Phúc âm là đặt câu hỏi: Những công việc quan trọng nhất đối với Chúa Jêsus mà Cha muốn Ngài hoàn thành là những công việc gì? Vào thì giờ cuối cùng của cơn khổ nạn, Chúa Jêsus đã thốt lên tiếng kêu chiến thắng từ thập tự giá: “Mọi việc đã được trọn!”. Như vậy, rõ ràng Ngài đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Thế nhưng điều quan trọng ở đây là Ngài đã hoàn tất việc gì? Cả bốn sách Phúc âm có hết thảy tám mươi chín chương. Bốn chương nói về sự giáng sinh và ba mươi năm đầu của cuộc đời Chúa Jêsus. Tám mươi lăm chương nói về ba năm cuối cùng của cuộc đời Ngài, trong đó có hai mươi bảy chương đề cập đến tuần lễ cuối cùng của Ngài; năm mươi tám chương nói về chức vụ dạy dỗ, chữa bịnh, và huấn luyện các môn đồ, chứng minh cho giá trị mà các tác giả sách Phúc âm đặt trên những khía cạnh của cuộc đời và sứ mệnh của Ngài.Vì phần nghiên cứu Kinh thánh Tân ước nầy không đi sâu vào từng chi tiết và đề cập đến tất cả mọi khía cạnh của các sách Phúc âm, mà chỉ là sự giới thiệu và là một cái nhìn khái quát, cố gắng chỉ cho bạn biết cách tiếp cận những sách Phúc âm nầy và cho bạn một bức tranh toàn cảnh, tôi sẽ nhấn mạnh việc nghiên cứu của chúng ta vào những nơi mà các tác giả sách Phúc âm chú trọng và hướng sự chú ý của chúng ta vào những phần đó của các sách tiểu sử thiêng liêng nầy.

Sứ Mệnh Ưu Tiên Hàng Đầu Của Chúa Jêsus

Khi nghiên cứu các sách nầy, sẽ cho chúng ta thấy lý do vì sao chúng được gọi là “các sách Phúc âm”, vì các sách tường thuật lại một “Tin Lành”, đó là Chúa Jêsus đã đến, và khi Ngài đến, Ngài chính là: “Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng cất tội lỗi thế gian đi” (Giăng 1:29). Nếu chúng ta quan tâm đến vấn đề chúng ta là những tội nhân, thì chúng ta sẽ biết vì cớ gì mà các tác giả sách Phúc âm nầy lại cho rằng đó là “Tin Lành”.

Có rất nhiều chương trong các sách nầy nhấn mạnh vào tuần lễ cuối cùng của cuộc đời Chúa Jêsus. Trong tuần lễ đó Ngài đã làm tất cả mọi việc mà Ngài buộc phải làm như Chiên Con của Đức Chúa Trời để cứu chúng ta ra khỏi tội lỗi. Sự nhấn mạnh của các sách Phúc âm cho chúng ta thấy sự chết của Ngài trên thập tự giá tại Giêrusalem vì cớ tội lỗi chúng ta, sự
sống lại từ kẻ chết của Ngài chính là nhiệm mạng đầu tiên, và dĩ nhiên đó cũng là công việc ưu tiên hàng đầu của Ngài.Một phần ba nội dung các sách Phúc âm ký thuật việc Chúa Jêsus đã làm ứng nghiệm ra sao sứ mệnh đầu tiên mà Cha Ngài đã giao phó cho Ngài, khi Đức Chúa Trời vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài chịu chết trên cây thập tự để cứu rỗi chúng ta (Giăng 3:15-19). Các sứ đồ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công cuộc cứu rỗi nầy của Chúa Jêsus trong (IPhierơ 1:18-19; 2:24; IICôrinhtô 5:19,21-6:1-2).

Chúa Jêsus Có Thêm Hai Mục Tiêu Sứ Mệnh Nữa

Khi chúng ta đọc thấy Chúa Jêsus biến những lời tuyên bố về sứ mệnh của Ngài thành những mục tiêu sứ mạng, thì cuộc đời và chức vụ Ngài lại có thêm hai chiều kích nữa như đã được nhấn mạnh trong các sách Phúc âm. Chúng ta sẽ khám phá ra được chiều kích thứ nhất của hai mục tiêu sứ mạng nầy khi chúng ta tiếp tục đọc về chiều kích siêu nhiên của cuộc đời và chức vụ Ngài, điều nầy được các tác giả của cả bốn sách Phúc âm nhấn mạnh rất rõ ràng.Chúa đã làm nhiều phép lạ, và phép lạ kỳ diệu nhất trong số các phép lạ đó chính là phép lạ chữa lành.Nếu chúng ta tìm đọc trong các sách Phúc âm các dẫn chứng về những phép lạ mà Chúa đã làm và không nghĩ ngợi gì về ý nghĩa của chúng, có lẽ chúng ta sẽ gán cho chúng một tựa đề rất hấp hẫn nào đó, chẳng hạn như “ Những Phép Lạ Của Chúa Jêsus”, hay là “Những Sự Chữa Lành Của Chúa Jêsus”. Có đến khoảng một phần ba nội dung bốn sách Phúc âm mô tả các phép lạ của Ngài. Thật có ý nghĩa rằng điều nầy lại tiếp tục được nhấn mạnh dưới sự thi hành chức vụ của các sứ đồ trong thời kỳ nguyên thủy của Hội thánh Ngài.

Khi bạn đọc hết câu chuyện nầy đến câu chuyện khác về những phép lạ và sự chữa lành mà Chúa Jêsus đã thực hiện, và khi bạn thấy các sứ đồ của Hội thánh đầu tiên làm nhiều phép lạ và chữa lành cho nhiều người bệnh, ắt bạn sẽ thắc mắc: “Trong sự thi hành chức vụ của Đấng Christ hằng sống phục sinh thì khía cạnh nầy có ý nghĩa gì cho ngày nay?” Đấng Christ là Đấng từng sống ở thế gian cách đây hơn hai ngàn năm, giả sử bây giờ Ngài đang có mặt ở đây với tôi và bạn, vậy bạn có nghĩ rằng Ngài vẫn có thể làm các phép lạ và chữa lành cho bạn và tôi như ngày xưa Ngài đã làm hay không? Dựa trên kinh nghiệm, sự học hỏi, và quan sát của bạn, thì ngày nay Chúa Jêsus có còn làm phép lạ, chữa lành cho người bệnh và kêu kẻ chết sống lại như Ngài đã làm khi còn tại thế trong con người xác thịt hay không? Có phải Ngài luôn luôn có thiện ý chữa lành không? Có phải Ngài đã từng chữa lành cho mọi người không? Có phải Chúa Jêsus trong quá khứ cũng chính là Đấng trong hiện tại, luôn quan tâm đến sức khoẻ thuộc thể lẫn thuộc linh của con người không? Bạn nghĩ sao? Khi bạn trả lời cho câu hỏi nầy trong bối cảnh của sự chữa lành thuộc thể, thì chắc chắn bạn sẽ có cái nhìn xa hơn về sự chữa lành thuộc linh, như điều đã xảy ra qua kinh nghiệm được cứu rỗi của những người tin nhận Chúa Jêsus và trở nên môn đồ Ngài hiện nay.

Sứ Điệp Của Chúa Jêsus

Còn có một mục tiêu sứ mệnh khác của Chúa Jêsus được nhấn mạnh trong bốn sách Phúc âm cùng với sự chết, sự sống lại và cùng với nhiều phép lạ mà Ngài đã làm. Tôi thích kết
luận cho cái nhìn chung mang tính chất giới thiệu về các sách Phúc âm nầy bằng lời nhận xét rằng bốn sách đầu của Kinh thánh Tân ước có ít nhất là một phần ba nội dung dành để ký thuật những lời Chúa Jêsus đã phán.Chúa Jêsus tuyên phán rằng: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật và Sự Sống”, và chúng ta không thể đến với Đức Chúa Trời bằng con đường nào khác (Giăng 14:6). Khi Ngài bảo cho chúng ta biết Ngài chính là Con Đường dẫn tới Đức Chúa Trời, tức là Ngài muốn ám chỉ đến công việc của Ngài trên thập tự giá để đem lại con đường duy nhất cho chúng ta, hầu cho chúng ta có thể được phục hòa với Đức Chúa Trời mà bấy lâu nay chúng ta lìa xa và phục hồi mối tương giao với Cha Thiên Thượng của mình.Khi Chúa nói với chúng ta Chúa là Sự Sống, có nghĩa là Ngài đang ngụ ý về các phép lạ của Ngài, kể cả việc ban cho chúng ta sự sống đời đời và thay đổi cuộc đời của những người nam và người nữ tin nơi Ngài và được Ngài chữa lành cả về thuộc linh, tình cảm và thân thể. Khi tuyên bố là Lẽ Thật, hiển nhiên Ngài muốn nói đến sự dạy dỗ và chức vụ rao giảng của Ngài.

Là Con của Đức Chúa Trời, lẽ ra Chúa Jêsus Christ chỉ cần lìa khỏi thiên đàng vào chiều sáu để thực hiện sứ mệnh của Ngài trong chiều kích thuộc về thiên đàng và hoàn thành công cuộc cứu rỗi nhân loại trong một vài ngày mà thôi. Vậy tại sao Ngài phải trải qua ba mươi ba năm sống ở thế gian? Chắc chắn Ngài phải thực hiện thêm những công việc khác nữa cho Cha Ngài để tất cả đều được hoàn tất bởi sự chết của Ngài trên thập tự giá và qua sự phục sinh của Ngài.

Khi Chúa Jêsus phán Ngài là Lẽ Thật, và khi Giăng mô tả Ngài là Ngôi Lời đã trở nên xác thịt (Giăng 1:14), chúng ta sẽ thấy một chức vụ mà Chúa Jêsus không thể nào hoàn thành chỉ trong một buổi chiều. Đức Chúa Trời đã ban Lời Ngài cho chúng ta như đã được chép, nhưng theo ý Ngài và theo kế hoạch của Ngài thì chính Chúa Jêsus sẽ ban cho chúng ta còn nhiều hơn những Lời đã được chép đó. Giăng mô tả những điều Chúa Jêsus ban cho chúng ta như vầy: “Vì luật pháp đã ban cho bởi Môise, còn ơn và lẽ thật bởi Đức Chúa Jêsus Christ mà đến” (Giăng 1:17). Đức Chúa Trời ban cho chúng ta lẽ thật qua Môise và Kinh thánh Cựu ước. Còn qua Chúa Jêsus, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta lẽ thật và ân sủng hay “ân tứ” để sống theo lẽ thật đó. Chúa Jêsus không chỉ ban cho chúng ta lẽ thật, song chính Ngài cũng là Lẽ Thật. Ngài không chỉ nói cho chúng ta biết cần phải sống đời sống như thế nào, mà Ngài còn sống đúng theo đời sống đó nữa vì Ngài chính là Sự Sống. Mọi sự là Ngài, mọi việc Ngài làm, mọi điều Ngài nói đều là chân lý mà Đức Chúa Trời muốn truyền đạt cho chúng
ta qua Con Ngài. Đó là lý do tại sao Phúc âm Giăng mô tả Chúa Jêsus là Lời hằng sống (Giăng 1: 1,14).

Chúng ta thấy sứ điệp vĩ đại nhất mà Đức Chúa Trời từng phán cho thế giới biết chính là Chúa Jêsus Christ. Một phần sứ điệp đó của Ngài từng phán hoặc truyền dạy được chép trong một phần ba nội dung bốn sách Phúc âm. Sứ điệp nầy của Chúa Jêsus đến dưới nhiều hình thức. Có những bài giảng quan trọng như Bài Giảng Trên Núi, Bài Giảng Trên Phòng Cao và Bài Giảng Trên Núi Ôlive (Mathiơ 5-7; Giăng 1316; Mathiơ 24-25).Còn có nhiều bài giảng khác nữa, đặc biệt trong Mathiơ và Luca, giống các sách Tiểu tiên Tri vậy, nhưng không phải vì chúng có nội dung kém hơn các bài giảng lớn, chính yếu của Chúa mà là vì độ ngắn của chúng. Những bài giảng loại nầy thường xuất hiện dưới hình thức các ẩn dụ, ngụ ngôn, phúng dụ, và còn có nhiều sứ điệp của Chúa Jêsus được lồng vào các cuộc đàm thoại. Thường thì Chúa hay có các cuộc đàm thoại mang tính chất tranh luận với những nhà lãnh đạo trong Hội thánh cùng thời Ngài, và Chúa Jêsus thường khai mào trước cho các cuộc đối thoại đó bằng những câu chất vấn (chỉ riêng Phúc âm Mathiơ đã chứa đến tám mươi ba câu hỏi của Chúa).

Dường như Ngài thường huấn luyện các sứ đồ bằng cách khích lệ họ đặt nhiều câu hỏi. Bài Giảng Trên Núi Ôlive (Mathiơ 24-25) và bài giảng dài nhất của Ngài được ký thuật là Bài Giảng Trên Phòng Cao (Giăng 13-16) được Chúa ban ra để trả lời những câu hỏi của các sứ đồ. Phần nhiều các cuộc đối thoại nầy là những cuộc đối thoại có tính cách đối kháng giữa Chúa Jêsus và các nhà lãnh đạo tôn giáo. Bạn cũng sẽ thấy trong các cuộc đối thoại nầy có rất nhiều câu phỏng vấn của Chúa Jêsus. Ngài đã đưa ra một số câu tuyên bố vô cùng sâu sắc để đáp lại những câu hỏi mà Ngài đã hỏi trong khi Ngài trò chuyện với dân chúng.Khi đọc các sách Phúc âm, bạn sẽ thấy bất cứ lúc nào Chúa Jêsus nói về một điều gì đó, dầu đó là một bài giảng , một ẩn dụ, một lời cầu nguyện, hoặc là điều gì bất kỳ mà Ngài hỏi hoặc tuyên bố thì thảy đều là lời giải đáp cho vấn đề mà Ngài đã hỏi trong buổi trò chuyện hay trong một cuộc tranh luận nào đó, hãy nhớ rằng Ngài là Lời vĩnh cửu của Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt sống giữa chúng ta, cho nên, khi Ngài nói chuyện có nghĩa là Ngài đang bày tỏ (giải thích) Đức Chúa Trời cho chúng ta. Ngài đang ban cho chúng ta một sự mặc khải đầy đủ nhất về Đức Chúa Trời mà thế gian nầy chưa từng nhận lãnh bao giờ (Giăng 1:18).

Có một phương pháp rất hiệu quả để tiếp cận với toàn bộ các lẽ thật mà Chúa Jêsus đã dạy, đó là tiếp cận với tất cả những lời giảng dạy của Ngài sau khi đặt câu hỏi: “Hệ thống giá trị của Chúa Jêsus Christ là gì? Dựa trên hết thảy những lời dạy dỗ của Ngài, không kể đến cách thức Ngài đã tuyên bố hoặc bày tỏ, thì hệ thống giá trị của Chúa Jêsus là gì?”Khi bạn đọc các sách Phúc âm, hãy tìm kiếm sứ mệnh đầu tiên của Chúa Jêsus Christ đã được Ngài hoàn thành trên thập tự giá, vào lúc chúng ta nhận ra Ngài là Con Đường dẫn nhân loại đến phục hòa với Đức Chúa Trời. Cũng hãy tìm kiếm các phép lạ của Chúa Jêsus, đặc biệt là những phép lạ về sự tái sinh và sự chữa lành đã bày tỏ Chúa Jêsus là Sự Sống. Hãy tìm kiếm chức vụ dạy dỗ của Chúa khi Ngôi Lời của Đức Chúa Trời trở nên xác thịt sống giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật. Hãy đọc các sách Phúc âm để nhìn thấy Chúa Jêsus chính là Đường Đi, Lẽ Thật và Sự Sống.

KHẢO CỨU PHÚC ÂM MATHIƠ

Chương 3:CHIẾN LƯỢC CỦA CHÚA JÊSUS

Trong cả bốn sách Phúc âm, Chúa Jêsus được mô tả là Con Người không chỉ đang thi hành sứ mệnh mà còn có chiến lược để thực hiện sứ mệnh đó. Đây là lẽ thật đặc biệt của Phúc âm Mathiơ.Giả sử bạn biết mình chỉ còn được sống ba năm nữa nhưng bạn lại rất muốn rao báo ra cho cả thế giới nầy biết sứ điệp của mình, vậy bạn sẽ làm gì? Chúa Jêsus biết Ngài chỉ cònsống trên đất ba năm thôi, và Ngài muốn rao ra cho cả thế giới đều nghe Phúc âm của Ngài. Biết là như thế, nhưng Ngài đã làm gì? Khi đọc Phúc âm Mathiơ, chúng ta hãy hỏi và trả lời câu hỏi nầy, nó sẽ giúp chúng ta tìm thấy chiến lược của Chúa Jêsus đã dùng để thực thi các mục tiêu sứ mệnh của Ngài.Nếu bạn có tham gia những khóa học, hoặc các buổi hội thảo bàn về vấn đề một ủy viên ban chấp hành phải là người thế nào thì làm việc mới có hiệu quả. Chắc chắn bạn sẽ được khuyên là để trở thành một ủy viên ban chấp hành làm việc có hiệu quả thì bạn phải là người có đầu óc phân tích, tổ chức, có khả năng biết ủy nhiệm, điều hành giám sát và cuối cùng là phải có tinh thần chịu khổ!Trong Phúc âm Mathiơ, mỗi khi chúng ta đọc rằng Chúa Jêsus nhìn thấy đoàn dân đông thì Ngài động lòng thương xót, chúng ta có thể hình dung ra bức tranh mô tả lòng thương xót của Ngài dành cho cả thế giới nầy, và qua đó cũng thấy được chiến lược rao giảng sứ điệp cứu rỗi cho nhân loại của Ngài. Mỗi khi Chúa Jêsus nhìn thấy đoàn dân đông, với lòng thương xót, Ngài thường làm một điều gì đó mang tính chiến lược.

Lần thứ nhất được ký thuật trong Phúc âm Mathiơ qua sự kiện Ngài chữa lành mọi thứ tật bịnh mà chúng ta có thể hình dung ra được trên bờ Biển hồ Galilê. Ngài biết được nhu cầu của đoàn dân, nên Ngài đã sắp xếp một buổi mà tôi gọi là: “Cuộc Tĩnh Tâm Cơ Đốc Đầu Tiên” đểrao ra Bài Giảng Trên Núi (Mathiơ 4:23-5-2).

Lần thứ hai, Ngài thấy đoàn dân đông thì động lòng thương xót nên Ngài đã chọn, lập một số người vừa nghe Ngài dạy dỗ trên núi làm “sứ đồ” hoặc làm “người được sai đi”. Từ ngữ nầy có nghĩa tương tự với từ “giáo sĩ” mà hiện nay chúng ta thường dùng. Chúa Jêsus có nhiều môn đồ, nhưng chỉ có mười hai sứ đồ mà thôi, Đó là điểm khác nhau giữa môn đồ và sứ đồ.Chúng ta có thể nói rằng lúc bấy giờ Ngài đã phân tích, tổ chức và ủy nhiệm cho những người sẽ thực hiện chiến lược rao giảng toàn cầu của Ngài. Khi bước theo sợi dây chiến lược
của Ngài qua Phúc âm Mathiơ, chúng ta sẽ thấy có hai tình tiết hầu như đồng nhất với nhau. Một lần nữa Chúa Jêsus nhìn thấy đoàn dân đông thì lại động lòng thương xót. Lần nầy,đoàn dân có thêm một nan đề là đang đói khát. Các sứ đồ đề nghị Chúa hãy bảo dân chúng đi đâu đó mua thức ăn. Chúa liền thách thức các sứ đồ: “Các ngươi hiện có tất cả bao nhiêu ổ bánh?” Chúa bảo họ hãy nói với dân chúng đừng đi đâu cả, bởi vì họ chính là những người được Chúa ủy nhiệm và cũng là những người đại diện của Ngài, cho nên họ có thể đáp ứng các nhu cầu đó cho đoàn dân. Đây là câu chuyện khá quen thuộc, là phép lạ duy nhất của Chúa Jêsus được ký thuật trong cả bốn sách Phúc âm, trên thực tế đây là một ẩn dụ về khải tượng truyền giáo của Chúa Jêsus (14:14-36; 15:32-39).

Nếu chúng ta nhận ra đoàn dân đông kia đại diện cho thế giới và mọi nhu cầu của họ,thì chúng ta sẽ thấy Ngài dùng chiến lược đặt các sứ đồ Ngài đã chọn giữa Ngài và sự sắm sẳn của Ngài để đáp ứng nhu cầu cho đoàn dân. Chúng ta đang đọc một câu chuyện phúng dụ về chiến lược của Chúa Jêsus nhằm đáp ứng các nhu cầu cho thế giới. Sự chu cấp siêu nhiên của Đức Chúa Trời dành cho đoàn dân đông không phải do Chúa Jêsus trực tiếp thực hiện mà qua tay các sứ đồ! Ngày nay Chúa vẫn dùng cách như vậy. Đấng Christ hằng sống phục sinh quyết định dùng môn đồ của Ngài để truyền đạt Lẽ thật và Phúc âm của Ngài cho những ai có nhu cầu được cứu rỗi.Câu chuyện về phép lạ được Chúa hà hơi nầy rõ ràng là một câu chuyện mà trong đó con người, nơi chốn và mọi thứ đều có ý nghĩa sâu sắc. Chiến lược của Chúa Jêsus được thể hiện ở phần cuối Phúc âm Mathiơ, ký thuật lại nhiệm vụ Chúa giao phó mà chúng ta vẫn thường gọi là Đại Mạng Lịnh (Mathiơ 28:16-20). Khi Chúa Jêsus thăng thiên, lìa khỏi thế giới nầy, Ngài đã ủy thác cho các môn đồ đến với thế giới như là người thay mặt Ngài.Chúng ta có thể nói là sau khi thăng thiên, Chúa vẫn tiếp tục thực hiện hai bước cuối cùng trong chiến lược của Ngài một cách hiệu quả – Chúa giám sát các môn đồ Ngài trong suốt hơn hai ngàn năm qua của lịch sử Hội thánh khi họ đến với thế giới thay cho Ngài. Ở đây có một kết luận hợp lý nhất là Chúa cùng chịu khổ với những nỗ lực của họ. Đặc biệt là trong suốt giai đoạn họ chịu khổ vì bị bắt bớ dữ dội trong ba trăm năm đầu của lịch sử Hội thánh. Chúng ta có thể tóm lại rằng Chúa vẫn tiếp tục chịu khổ khi sự bắt bớ vẫn tiếp diễn suốt hơn hai ngàn năm qua của lịch sử Hội thánh, và còn tiếp tục xảy ra tại rất nhiều nơi trên thế giới chúng ta ngày nay. Chúng ta có thể kết luận rằng Chúa cũng đang chịu khổ như một số chương gây kinh hoàng đã được viết ra trong lịch sử Hội thánh.Điều nầy giúp chúng ta hiểu được Hội thánh ngày nay. Chúng ta có thể thấy được mục đích thiêng liêng cơ bản của Hội thánh khi nhìn xem Chúa Jêsus thực thi chiến lược của Ngài trong Phúc âm Mathiơ. Hội thánh là một tổ chức truyền giáo! Hội thánh được Chúa Jêsus thiết lập và trao cho quyền hợp pháp để hành động, và là phương tiện để qua đó ân điển và lẽ thật của Đức Chúa Jêsus Christ được công bố cho cả thế giới. Tất cả mọi kế hoạch, chương trình và hoạt động của Hội thánh đều phải được xem là phương tiện để đạt đến mục đích đó .

Có một sự xác quyết rõ ràng cho lẽ thật nầy trong sách Công Vụ Các Sứ Đồ. Phúc âm Mathiơ kết thúc với việc Chúa Jêsus giao trọng trách cho Hội thánh là hãy đi ra rao giảng Phúc âm cho thế giới hư mất. Khi ra đi, họ phải môn đồ hóa muôn dân, làm phép báptêm và dạy cho người ta mọi điều mà Chúa đã truyền cho họ. Và quả thật họ đã làm đúng những việc nầy như sách Công Vụ ghi nhận. Vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, họ nhận được ân tứ – quyền năng của Đức Chúa Trời – để thực hiện những việc ấy, và khi họ thực hiện Đại Mạng Lịnh nầy thì cũng là lúc Hội thánh Chúa được khai sinh.Sách Công vụ là bản ký thuật rõ ràng về việc họ đi vào thế gian, môn đồ hóa, làm phép báptêm và dạy dỗ môn đồ mọi điều mà Chúa đã truyền cho họ. Sách Công vụ và lịch sử Hội thánh cho chúng ta biết chiến lược của Chúa Jêsus đang được thực hiện. Chúng ta là những người góp phần hình thành Hội thánh Chúa ngày nay, vẫn đang được Chúa kêu gọi ra đi, môn đồ hóa, làm báptêm và dạy mọi điều mà Chúa Jêsus đã truyền.

Chương 4:NHỮNG SỰ KIỆN QUAN TRỌNG TRONG CUỘC ĐỜI ĐẤNG CHRIST

Trong Kinh thánh, không có nhân vật nào quan trọng hơn mà lại ít được nói đến cho bằng Giăng Báptít. Chúa Jêsus nói ông là một người vĩ đại nhất và cũng là nhà tiên tri lớn nhất được sinh ra bởi người nữ (Mathiơ 11:11; Luca 7:28).Cuộc đời Giăng Báptít được miêu tả rất ngắn gọn trong bốn sách Phúc âm. Điều đặc biệt của cuộc đời ông là gì? Thứ nhất, ông không chỉ là nhà tiên tri vĩ đại nhất trong tất cả các tiên tri, mà còn là vị tiên tri cuối cùng. Các tiên tri rao ra Một Tin Tức Tốt Lành rằng Đấng Mêsi sắp đến. Còn vị tiên tri nầy đã thực sự chỉ vào Con Người đang trên đường đi xuống Galilê và nói cùng với các môn đệ mình: “Kìa, Chiên con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi” (Giăng 1:29). Giăng Báptít là vị tiên tri cuối cùng nói tiên tri về Đấng Mêsi, ông cũng là người giới thiệu rất rõ ràng cho dân sự của Đức Chúa Trời về Đấng Mêsi của họ.

Chúa Jêsus Chịu Báptêm

Có một vài biến cố quan trọng xảy ra trong cuộc đời Chúa Cứu Thế Jêsus được mô tả ở những chương đầu của của các sách Mathiơ, Mác và Luca. Một ngày nọ, khi Giăng Báptít đang làm Báptêm và ông chợt nhìn thấy một Người đang đứng xếp hàng chờ tới lượt mình, Người đó cũng trẻ như ông. Khi Giăng gặp Chúa Jêsus, ông liền thưa: “Xin Ngài làm phép báptêm cho tôi!” Nhưng Chúa Jêsus bảo: “Không! Hỡi Giăng! Chúng ta nên làm trọn mọi việc công bình. Ngươi hãy làm phép báptêm cho Ta!” Vì thế, Giăng Báptít đã làm báptêm cho Chúa Jêsus. Đang khi ông làm lễ, thì Đức Thánh Linh giáng trên Ngài trong hình dạng chim bồ câu và Đức Chúa Trời là Cha phán rằng: “Nầy là Con yêu dấu của Ta! Đẹp lòng Ta mọi đàng!” (Mathiơ 3:17). Câu chuyện được chép lại về sự việc xảy ra nầy được gọi là sự ký thuật, hay lời chứng của Giăng Báptít.Phép báptêm mà Chúa Jêsus nhận lãnh không giống như phép Báptêm của chúng ta ngày nay. Phép báptêm ấy là một trong những sự kiện quan trọng của cuộc đời Đấng Christ. Đó là lễ nhậm chức của Chúa để Ngài bắt đầu dấn thân vào ba năm chức vụ công khai. Khi một người nào được bầu làm tổng thống của một quốc gia, thì người ta thường tổ chức buổi lễ nhậm chức cho vị ấy. Tại buổi lễ nhậm chức, vị tân tổng thống sẽ đọc một bài diễn văn. Chúa Jêsus cũng bắt đầu chức vụ của mình bằng một lễ nhậm chức. Tuy nhiên, trong trường hợp nầy, diễn giả chính là Đức Chúa Trời Toàn Năng và bài diễn văn nhậm chức của Chúa Jêsus thật là ngắn gọn với nội dung vô cùng giản dị: “Nầy là Con yêu dấu của Ta! Đẹp lòng Ta mọi đàng!” (3:17).

Chúa Jêsus Bị Cám Dỗ

Trong chương bốn sách Mathiơ, chúng ta thấy sau khi Chúa Jêsus chịu phép báptêm thì có một sự kiện quan trọng khác xảy ra. Đức Thánh Linh đưa Ngài vào đồng vắng là nơi Ngài phải đối đầu với Satan, sau khi Ngài kiêng ăn bốn mươi ngày thì bị ma quỷ cám dỗ ba lần. Lần thứ nhất, quỷ cám dỗ đến cùng Ngài bảo rằng: “Nếu ngươi phải là Con Đức Chúa Trời,thì hãy khiến đá nầy trở nên bánh đi!” Chúa Jêsus đáp: “Có lời chép rằng: Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời”. Ở đây có một câu của Chúa Jêsus được ghi lại ba lần trong các sách Phúc âm cộng quan là: “Có lời chép rằng” (Mathiơ 4:4).

Cám dỗ thứ hai đã diễn ra khi ma quỷ khuyến dụ Chúa Jêsus hãy gieo mình xuống từ nóc cao nhất của Đền thờ Salômôn. “Nếu ngươi phải là Con Đức Chúa Trời”, Satan bảo: “thì hãy gieo mình xuống đi; vì có lời chép rằng: Chúa sẽ truyền các thiên sứ gìn giữ ngươi, thì: Các đấng ấy sẽ nâng ngươi trong tay, kẻo chân ngươi vấp nhằm đá chăng” (4:6). Ở đây,chúng ta thấy Satan đã trích dẫn Kinh thánh. Nó là kẻ rất rành Kinh thánh và muốn đánh bại con cái Chúa bằng cách đem Kinh thánh gieo vào đầu để kết tội hoặc khiến cho họ sợ hãi.Chúa liền tuyên bố rằng Ngài chính là Đức Chúa Trời hóa thân làm người. Vậy có ai tin vào lời tuyên bố đó không? Satan gợi ý rằng Ngài hãy dùng quyền bính siêu nhiên của mình chứng minh cho lời tuyên bố ấy. Nhưng Chúa Jêsus phán với ma quỷ: “Cũng có lời chép rằng: Ngươi đừng thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi” (4:7).

Chúa Jêsus bị cám dỗ lần thứ ba khi Satan chỉ cho Ngài thấy mọi vương quốc trên thế gian với tất cả sự giàu sang, nguy nga lộng lẫy của nó. “Ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy”,Satan dụ dỗ: “với điều kiện ngươi phải sấp mình xuống trước mặt ta mà thờ lạy”. Nhưng Chúa Jêsus bảo: “Hỡi Satan, hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi” (4:8-10).

Việc Chúa Jêsus bị cám dỗ trong đồng vắng có ý nghĩa gì? Trước hết, tôi tin là nếu như Satan có phương kế nào đó để tránh được cuộc đương đầu nầy thì có lẽ nó đã tránh. Chúng ta phải hiểu rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã đưa Chúa Jêsus là Đấng Christ đến đối đầu với Satan ngay từ đầu, khi Ngài vừa thi hành chức vụ công khai. Nói một cách văn hoa thì đây là việc “Chúa Jêsus – người anh cả”, Đấng đang thanh toán món nợ thay cho “Ađam – người em trai” là người đã bị Satan lừa dối trong vườn Êđen thuở nào. Sự cám dỗ lần thứ nhất mà Chúa Jêsus gặp phải về cơ bản cũng chính là sự cám dỗ mà Ađam và Êva đã từng đối diện trong vườn Êđen.Như chúng ta đã thấy, Chúa Jêsus trả lời ma quỷ bằng cách nhắc lại sự cám dỗ của nó trong vườn Êđen qua những lời Kinh thánh Ngài trích dẫn: “Có lời chép rằng: Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” (Mathiơ 4:4). Trong vườn Êđen, Satan nêu lên câu hỏi: “Đức Chúa Trời nói như thế sao?” Ađam và Êva đáp: “Vâng! Đúng vậy!” Nói theo nghĩa bóng, ma quỷ bảo thế nầy: “Ồ! Đức Chúa Trời nói thế không đúng đâu!” Sau khi ma quỷ đưa ra câu hỏi mơ hồ, gây thắc mắc cho loài người khiến họ không biết những gì Đức Chúa Trời phán bảo là đúng hay sai, thì họ bắt đầu nghi ngờ, dẫn đến sự không tin và không vâng theo Lời Ngài.

Âm hưởng của vấn đề nầy nghe có vẻ quen thuộc quá phải không? Ma quỷ là kẻ không bao giờ ngừng nêu lên những câu hỏi nghi ngờ giống như vậy xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân sự Đức Chúa Trời. Ngày nay, những sự cám dỗ nầy vẫn tái diễn theo cách cũ của nó, xui giục và cám dỗ chúng ta phạm tội. Đây cũng chính là một định nghĩa về tội lỗi. Tội lỗi là vấn đề chúng ta làm hay không làm những gì mà chúng ta biết là Đức Chúa Trời đã phán. Trong những lời Chúa Jêsus đáp trả khi bị cám dỗ lần thứ nhất, có ẩn chứa một lẽ thật quan trọng là nếu chúng ta muốn sống thì Lời Đức Chúa Trời sẽ chỉ dạy cho chúng ta biết cách sống như thế nào. Càng hiểu Kinh thánh chừng nào, thì chúng ta càng hiểu cuộc sống chừng nấy. Mà chúng ta càng hiểu được cuộc sống thì chúng ta lại càng cảm kích và thấy rõ giá trị đích thực của Kinh thánh. Kinh thánh và cuộc sống soi sáng cho nhau. Mục đích của Kinh thánh là giúp chúng ta biết cách để sống.Trong vườn Êđen, thực chất của sự cám dỗ là hãy đặt nhu cầu thể xác của bạn lên hàng đầu và điều Đức Chúa Trời muốn bạn làm ở hàng thứ hai. Nói cách khác, thay vì giải thích Lời Đức Chúa Trời theo những nhu cầu thuộc thể của mình, thì Đức Chúa Trời muốn họ giải thích những nhu cầu thuộc thể của họ theo Lời Ngài. Về mặt ý nghĩa thì sự cám dỗ nầy là:“Trước tiên nhu cầu của bạn, kế đến là Lời Đức Chúa Trời”.Khi Chúa Jêsus bị cám dỗ hãy biến đá thành bánh, thì sự cám dỗ ấy là: “Ngươi đã kiêng ăn bốn mươi ngày. Vậy trước hết hãy dùng quyền năng siêu nhiên của mình để đáp ứng cho nhu cầu thể xác, và đặt Lời Đức Chúa Trời với ý muốn của Ngài ở hàng thứ hai”. Tuy nhiên, Chúa Jêsus đã đáp lại sự cám dỗ đó thế nầy: “Trước tiên là Lời Đức Chúa Trời, sau đó là nhu cầu thể xác”.Sứ điệp Kinh thánh thường được tóm tắt trong bốn từ: “Chúa là trên hết!” Câu trả lời của Chúa Jêsus cho cả ba lần cám dỗ của ma quỷ có thể được tóm tắt cô đọng trong bốn từ đó. Hãy nhớ rằng sự cám dỗ không phải là tội lỗi, song cách chúng ta đáp lại sự cám dỗ sẽ khiến chúng ta chiến thắng nó hoặc phạm tội. Sự phản ứng của chúng ta ngày nay cũng là sự ứng dụng bốn từ: “Chúa là trên hết! ”

Trong sự cám dỗ thứ hai, Satan đã trích dẫn Kinh thánh và gợi ý rằng Chúa Jêsus hãy chứng minh Ngài là Con của Đức Chúa Trời bằng cách tự gieo mình xuống từ trên nóc cao nhất của Đền thờ Salômôn. Ý ma quỷ muốn nói, nếu Chúa Jêsus được bảo vệ một cách siêu nhiên khi Ngài rơi xuống, thì điều đó chứng minh rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời.Một lần nữa, Chúa Jêsus lại dùng Kinh thánh để trả lời, Ngài cho Satan biết Đức Chúa Trời phán bảo chúng ta là không được thử Ngài. Có một lằn ranh rõ ràng giữa việc đặt cái lốt chiên ở ngoài trời, như Ghêđêôn đã làm, và việc thử Đức Chúa Trời (Các quan xét 6:37-38). Khi chúng ta ghi danh vào “Trường Đại học Đức tin” – là lúc chúng ta đón nhận thử thách để trở thành môn đồ Đấng Christ, chúng ta không có quyền ra bài thi cho Ngài, chỉ Ngài mới có quyền thử chúng ta vào bất cứ lúc nào Ngài muốn, nhưng chúng ta thì không có quyền thử Ngài.

Lần thứ ba Satan cám dỗ Chúa Jêsus rằng nó sẽ cho Ngài tất cả vương quốc trên thế gian nầy, với điều kiện rất đơn giản là phải thờ lạy nó. Lại một lần nữa, Chúa của chúng ta đã dùng Kinh thánh trả lời ma quỷ tương tự như Ngài đã trả lời trong lần cám dỗ thứ nhất: “Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi”. Điều cốt yếu ở đây cũng là bốn chữ: “Chúa là trên hết”. Lần nầy, câu nầy được bổ sung thêm sáu từ nữa: “chỉ một mình Ngài mà thôi!” (Mathiơ 4:10).

Ba sự cám dỗ của Chúa Jêsus có những ứng dụng cá nhân rất rõ ràng cho bạn và tôi. Ứng dụng thứ nhất: “Chúa là trên hết!” Lời Chúa phải được ưu tiên trước hết và sau đó mới đến các nhu cầu của chúng ta. Hãy thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời và chỉ thờ phượng một mình Ngài mà thôi. Hầu hết chúng ta đều có những lúc bị cám dỗ, khiến cho đức tin không còn cần thiết bằng cách thử Đức Chúa Trời, mà quên rằng chỉ có Đức Chúa Trời là Đấng có quyền thử chúng ta. Sau khi Chúa Jêsus bắt bẻ lời của Satan lần thứ ba, chúng ta thấy nó đã phải lìa khỏi Ngài “một thời gian” hoặc một thời gian ngắn. Cụm từ trong ngoặc kép nầy cho thấy Satan đầy quyền lực, sẽ tiếp tục và không ngừng tấn công Chúa Cứu Thế trong ba năm cuối của cuộc đời Ngài. Đây là lẽ thật đặc biệt vào thời gian Ngài sắp sửa trải qua tuần lễ cuối cùng đểchịu chết và sống lại, hầu đem sự cứu rỗi đến cho chúng ta.Có một số người thắc mắc không biết tại sao Chúa Jêsus lại là đối tượng để cho ma quỷ cám dỗ. Trong khi Chúa Jêsus bị ma quỷ cám dỗ trong đồng vắng, phải chăng Đức Chúa Trời là Cha đang nhìn qua ban công của thiên đàng, hồi hộp nín thở tự hỏi rằng: “Ta không biết rồi Ngài sẽ xoay xở ra sao đây?” Bạn có nghĩ như vậy không? Tôi bảo đảm với bạn là Đức Chúa Trời biết rõ Con Ngài sẽ không giống như Ađam, thất bại trong sự cám dỗ nầy. Khi Chúa bị cám dỗ trong đồng vắng, không gì có thể khiến cho Ngài sa ngã được.Vậy, tại sao Ngài chịu cám dỗ? Điều đó rất quan trọng, vì Đức Chúa Trời muốn chứng minh cho chúng ta là ngay từ ban đầu, trong đời sống và chức vụ của Chúa Cứu Thế thì Ngài không hề thất bại. Một trong những câu cuối cùng trong Kinh thánh đề cập đến điều nầy nơi Chúa Jêsus Christ là: “Đấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được” (Giuđe 24). Nếu Chúa Cứu Thế bị cám dỗ nhưng không thất bại, là Đấng đang sống trong chúng ta thì liệu Ngài có thể giữ chúng ta khỏi bị thất bại không? Dĩ nhiên là Ngài có thể! Nếu chúng ta tin cậy và bước theo Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ chúng ta khỏi bị thất bại.Bằng phương cách mà Ngài đã dùng để đối phó với sự cám dỗ, Ngài sẽ chỉ cho bạn và tôi biết phải làm thế nào để đương đầu với sự cám dỗ của ma quỷ. Satan không ngừng tìm mọi cách nói với từng người trong chúng ta rằng: “Hãy đặt nhu cầu thể xác lên hàng đầu, sau đó mới đến nhu cầu tâm linh. Hãy đặt mọi thứ trong cuộc sống bạn lên trên hết, ngoại trừ Đức Chúa Trời! ” Kẻ thù đáng sợ nhất của điều tốt nhất chính là điều tốt. Đây là cách Satan thường dùng để cướp chúng ta ra khỏi điều tốt nhất của Đức Chúa Trời. Ma quỷ cám dỗ chúng ta làm điều tốt để khiến chúng ta đánh mất điều tốt nhất mà Đức Chúa Trời đã dành cho chúng ta. Vì Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, và Ngài biết rằng khi chúng ta đặt Ngài trên hết thì chúng ta sẽ nhận được điều tốt nhất, Ngài muốn chúng ta đặt Ngài lên hàng đầu và đánh bại sự cám dỗ của Satan.

Chương 5: BÀI GIẢNG VĨ ĐẠI NHẤT CỦA CHÚA JÊSUS

Chúa Jêsus có nhiều bài giảng vĩ đại. Trên một phương diện nào đó, thì bài giảng vĩ đại nhất của Ngài chính là Bài Giảng Trên Núi. Bài Giảng Trên Núi được tóm tắt ngắn gọn về đạo đức của toàn bộ Kinh thánh . Đó cũng là bài giảng của Chúa Jêsus dạy về đạo lý và các mối quan hệ được cô đọng lại. Khi xem xét bối cảnh của bài giảng nầy được rao ra, chúng ta nhận thấy rằng đó không phải là một bài giảng điển hình như chúng ta thường nghe trong các bài giảng hiện nay.Văn Mạch Của Bài Giảng Xem xét văn mạch trước khi xét đến nội dung bài giảng vĩ đại của Chúa Jêsus là điều quan trọng. Một trong những nguyên tắc nghiên cứu Kinh thánh, đó là chúng ta phải luôn xem xét các phân đoạn Kinh thánh trong văn mạch của chúng. Từ “văn mạch” nghĩa là “theo bản văn”. Điều nầy luôn quan trọng vì chúng ta biết được điều gì xảy ra với chủ đề chúng ta đang nghiên cứu, điều gì xảy ra trước đó, hoặc điều gì đang diễn ra trong lúc rao giảng, và điều gì sẽ đến sau sự rao giảng hoặc sự kiện mà chúng ta đang nghiên cứu trong một phân đoạn Kinh thánh. Văn mạch sẽ giúp chúng ta giải nghĩa phân đoạn Kinh thánh mà chúng ta đang nghiên cứu.

Ở phần kết thúc của Mathiơ chương bốn, chúng ta tìm thấy sự mô tả của Mathiơ về văn mạch của bài giảng vĩ đại nầy. Chúng ta đọc thấy Chúa Jêsus chữa lành cho nhiều người bệnh đến từ những nơi rất xa, từ các thành phố, các vùng, tất cả đều được Chúa chữa lành (Mathiơ 4:25:1).Trong khi Chúa Jêsus đang chữa lành cho đoàn dân đông tụ họp quanh khu vực sườn dốc Biển Galilê, Ngài truyền gọi một số môn đồ hãy gặp Ngài tại trên núi là nơi từ bờ Biển Galilê đi lên cao dần (Mác 3:13). Và thế là đoàn dân đông được chia thành hai nhóm. Nhóm ở chân núi bao gồm những người có nan đề. Còn nhóm ở cùng với Chúa Jêsus trên núi là những người ít ra cũng muốn tham gia giải quyết hoặc giải đáp cho các nan đề. Sách Phúc âm Mathiơ chương năm, sáu và bảy ký thuật bài giảng vĩ đại mà Chúa Jêsus đã giảng trong khung cảnh như vậy.Tôi gọi văn mạch của bài giảng vĩ đại nầy là “Cuộc Tĩnh Tâm Cơ Đốc Đầu Tiên”. Khi Chúa Jêsus sắp xếp cuộc tĩnh tâm nầy thì Ngài cũng đưa ra thách thức: “Bạn là một phần của nan đề hay bạn muốn là một phần trong việc giải quyết nan đề?” Tại cuộc tĩnh tâm đó, Chúa Jêsus kêu gọi nhiều môn đồ cùng tham gia với Ngài để giải quyết nan đề cho những ai đang gặp phải.Chúa Jêsus đang chăm sóc đoàn dân đông bệnh tật và Ngài biết rằng trong thể xác con người, chỉ là một người đơn lẻ, thì tự Ngài không thể nào giải quyết hết mọi nan đề, cho dù Ngài là Đức Chúa Trời trong hình thể con người, là Con Đức Chúa Trời. Vì thế, Ngài đã phân tích, rồi tổ chức cuộc tĩnh tâm Cơ Đốc đầu tiên. Theo Mác, việc tham gia cuộc tĩnh tâm trên núi được thực hiện là do có lời mời gọi (Mác 3:13).

Trong chương bảy, chúng ta đọc thấy Chúa Jêsus đã kết thúc cuộc tĩnh tâm nầy bằng sự mời gọi đáng sợ. Tôi tin rằng khi Chúa đưa ra lời mời gọi ấy thì chỉ có mười hai người đáp ứng lời Ngài. Dựa vào nhận thức của mình trên thực tế lúc bấy giờ, tôi thấy sau đó không lâu Chúa Jêsus đã xuống núi, và Ngài bắt đầu ủy nhiệm công tác cho các sứ đồ. Tôi tin là Chúa đã huấn luyện mười hai sứ đồ của Ngài trong thời gian của cuộc tĩnh tâm Cơ Đốc đầu tiên.

Nội Dung Bài Giảng

Chúa Jêsus bắt đầu bài giảng bằng những lời giáo huấn các môn đồ về quan điểm Cơ đốc (được gọi là “các phước lành”), là điều sẽ khiến họ cùng dự phần với Chúa đểgiải quyết những nan đề cho số người ở tại chân núi (5:3-12). Tám thái độ hoặc đức hạnh nầy mô tả sơ lược về phẩm chất đã được rèn dũa của môn đồ Chúa Jêsus. Theo Chúa Jêsus, cách chúng ta nhìn vào sự việc có thể sẽ thấy điều khác biệt giữa đời sống có sự sáng và đời sống đầy tối tăm (Mathiơ 6:22-23).

Các Phước Lành: Một Số Nhận Xét Chung

Tám thái độ tốt đẹp nầy là nội dung bài giảng, và tất cả phần còn lại của sự dạy dỗ là phần ứng dụng của bài giảng. Những giáo sư và các diễn giả tài ba là những người chỉ cần một ít thời gian để giảng giải về lẽ thật mà họ muốn dạy, và dành phần lớn thời gian để minh họa và ứng dụng lẽ thật đó. Trong bài giảng nầy, Chúa Jêsus là gương mẫu cho chúng ta qua phương pháp đó, Ngài chỉ dành một phần nhỏ thời gian trình bày lẽ thật (các phước lành), và dành hầu hết thì giờ của Ngài để minh họa và ứng dụng các phước lành ấy.

Bối cảnh của bài giảng nầy đưa đến cao trào liên quan đến việc làm thế nào trở thành tín đồ Đấng Christ, là Cơ Đốc nhân. Những thái độ tốt đẹp được mô tả là đặc điểm thu hút để trở thành Cơ Đốc nhân. Bốn câu chuyện ẩn dụ theo sau các phước lành đó – muối, sự sáng, thành phố, và cây đèn – mô tả sự thách thức, liên quan đến phẩm chất đời sống Cơ Đốc khi
va chạm với nền văn hóa của thế tục. Vấn đề cơ bản ở đây: “Bạn là người đang có nan đề hay là người cùng tham gia với Chúa Jêsus để giải quyết các nan đề? Bạn là một trong những câu trả lời của Ngài hay bạn vẫn đang là người nêu lên những câu hỏi?”Có một “đường ranh phân chia thuộc linh” tưởng tượng giữa phước lành thứ tư và thứ năm. Xuyên suốt Kinh thánh chúng ta thấy có một mô hình nổi bật khi Chúa kêu gọi và huấn luyện các nhà lãnh đạo cho công việc Ngài. Những nhà lãnh đạo nầy có điều mà chúng ta có thể gọi là: “kinh nghiệm đến” và “kinh nghiệm ra đi”. Họ đã đến với Chúa một cách có ý nghĩa trước khi ra đi kết quả cho Ngài. Họ là người thờ phượng Đức Chúa Trời trước khi trở nên nhân sự cho Ngài. Bốn phước lành đầu tiên giới thiệu những thái độ mà chúng ta cần học để đến với Đức Chúa Trời, và bốn phước lành kế tiếp phác họa những thái độ chúng ta cần học để ra đi cho Ngài.Tài năng có thể được phát huy trong nơi tĩnh lặng, nhưng tính cách thì phải được phát huy giữa dòng đời, hoặc trong khi chúng ta tiếp xúc, quan hệ với người khác. Bốn phước lành đầu tiên được phát triển trên núi, hoặc ở trong nơi mà sau đó Chúa Jêsus mô tả như là kinh nghiệm “riêng tư” giữa chúng ta với Đức Chúa Trời (Mathiơ 6:6). Chúng ta có thể học hỏi và nuôi dưỡng bốn phước lành đầu tiên trong mối tương giao cá nhân với Đức Chúa Trời, còn bốn phước lành kế tiếp thì chúng ta phải học và phát huy qua mối thông công với mọi người. Các phước lành được chia làm bốn phần, mỗi phần hai phước lành: nghèo khó về tâm linh là người than khóc; nhu mì là người khao khát sự công nghĩa; người hay thương xót là người có lòng trong sạch; và người làm cho kẻ khác hòa thuận là người chịu sự bắt bớ. Mỗi cặp câu nói về các phước lành đều phát thảo sơ lược cái nhìn thuộc linh nào đó, mà hễ ai là môn đồ Chúa Jêsus thì đều phải học nó trước khi có thể dự phần cùng Ngài giải quyết các nan đề, và trở nên một trong những câu trả lời của Ngài.

Hai phước lành đầu tiên dạy các môn đồ nói thế nầy: “Vấn đề ở đây không phải tôi có thể làm gì mà là Chúa có thể làm gì”, hoặc “Nếu không có Chúa thì tôi chẳng làm chi được”.Cặp phước lành thứ hai nói lên sự thừa nhận của các môn đồ: “Vấn đề ở chỗ không phải tôi muốn gì mà là Chúa muốn gì”. Cặp phước lành thứ ba bày tỏ bí mật thuộc linh: “Vấn đề không phải ở chỗ tôi là ai hay tôi là gì, mà Chúa là ai và Ngài là Đấng thế nào”. Cặp phước lành thứ tư làm chứng cho các kết quả của những phước lành và đưa ra sự thừa nhận: “Vấn
đề không phải tôi đã làm gì mà là Chúa đã làm gì”.Cuối cùng, dường như thể các phước lành đang dẫn dắt chúng ta leo dần lên núi. Phước lành thứ nhất đưa chúng ta lên núi bằng con đường ngắn nhất. Phước lành thứ hai dẫn chúng ta đi xa hơn một chút. Trên đường leo lên núi, sự nhu mì đã chuyển chúng ta từ phước lành thứ ba sang phước lành thứ tư. Và sự đói khát điều công bình của chúng ta dẫn đưa chúng ta lên tới đỉnh núi. Các phước lành “leo núi” nầy là các phước lành đang đến gần.

Mọi sự tĩnh tâm rồi cũng kết thúc, và những người tham dự phải rời khỏi núi. Các phước lành sẳn có sẽ đưa chúng ta rời khỏi núi một lần nữa. Khi một môn đồ được no nê sự công bình của Đức Chúa Trời, thì họ sẽ trở nên như thế nào? Phải chăng họ sẽ giống những người Pharisi tự mãn, và tuân thủ luật pháp cách tuyệt đối? Không, chúng ta đọc thấy rằng họ có lòng thương xót, và họ thương xót với một tấm lòng trong sạch. Họ có được điều đó vào lúc xuống núi tham gia cùng với Chúa giải quyết các nan đề của đoàn dân đông đang có nhu cầu. Khi các môn đồ là người hòa giải thì họ sẽ gặp sự bắt bớ, chúng ta biết họ lại có mặt tại chân núi một lần nữa là nơi mọi nan đề đang tồn tại.

CÁC PHƯỚC LÀNH: MỘT VÀI NHẬN XÉT CỤ THỂ

“Phước Cho Người Nghèo Khó Về Tâm Linh”

Chúng ta tự nhận biết mình nghèo khó tâm linh là một thái độ đúng. Thái độ nầy là do tự chúng ta nhận thức, nếu không thì chúng ta sẽ không bao giờ trở thành giải pháp của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải là thần dân của Nhà Vua- Đấng Giải Quyết. Đây là thái độ đầu tiên cần có nếu chúng ta muốn dự phần vào giải pháp để đáp ứng nhu cầu của con người mà Đấng Christ muốn có qua các môn đồ của Ngài. Nói cách khác, thái độ nhận biết mình đang nghèo khó tâm linh chính là “sự khiêm nhường”.“Phước Cho Những Kẻ Than Khóc” Thái độ đẹp đẽ thứ hai là: “Phước cho những kẻ than khóc” (Mathiơ 5:4). Sự ứng dụng và giải thích nguyên thủy về phước lành thứ hai là chúng ta sẽ không bao giờ trở thành giải pháp và là câu trả lời của Chúa Jêsus cho tất cả nỗi đau khổ mà đoàn dân đông ở chân núi đang phải chịu đựng, nếu như chúng ta chưa từng chịu đựng như họ. Có thể còn cách ứng dụng và giải thích khác cho phước lành nầy là chúng ta hãy than khóc khi nhận biết mình đang nghèo khó về tâm linh, hoặc là chúng ta chẳng thể làm chi được nếu không có Chúa.

“Phước Cho Những Kẻ Nhu Mì”

Tính nhu mì là một khái niệm dễ bị hiểu lầm nhất trong Kinh thánh. Nó không có nghĩa là yếu đuối, mà là mềm mại. Hãy hình dung một con ngựa hoang mạnh bạo, nhưng chưa được thuần hóa - một động vật có sức mạnh nhưng chưa từng bị đặt hàm vào miệng, hoặc bị thắng dây cương trên đầu, hay thắng yên trên lưng. Hầu như chẳng ai có thể kiểm soát nổi con thú mạnh mẽ nầy. Nhưng rồi cuối cùng nó cũng phải đầu hàng, chấp nhận cho người ta đặt hàm thiếc, thắng dây cương và đặt yên lên mình nó. Con vật đó là ẩn dụ về ý nghĩa của từ “nhu mì” mà Kinh thánh đã dùng.Chúa Jêsus tuyên bố rằng Ngài là Đấng có lòng nhu mì, (Mathiơ 11:28-30). Khi Ngài tuyên bố như vậy, thì ý Ngài muốn nói đến chính điều mà Ngài tuyên bố lần trước. Khi nhắc đến Cha, Ngài nói: “Vì Ta hằng làm sự đẹp lòng Ngài” (Giăng 8:29). Chúa Jêsus chấp nhận mang ách và mọi quy tắc theo ý muốn của Cha Ngài. Đó là điều khiến cho Ngài trở nên nhu mì. Trong phước lành nầy, Chúa Jêsus muốn dạy rằng chúng ta chỉ có thể dự phần vàp giải pháp và câu trả lời của Ngài cho thế giới nầy khi chúng ta phó thác ước muốn của mình cho Đức Chúa Trời và chấp nhận sự kỷ luật của ý muốn Ngài đối với đời sống cũng như chức vụ chúng ta bất kể ý riêng của chúng ta là tín hữu nào.

“Phước Cho Những kẻ Đói Khát Sự Công Bình”

Phước lành nầy không nói rằng chúng ta khao khát hạnh phúc mà là sự công bình. Hãy quan sát điểm nhấn mạnh trong bài giảng về lẽ thật nầy, môn đồ Chúa phải là người công bình. Thêm vào phước lành nầy, Chúa tuyên bố một phước lành nữa dành cho người chịu bắt bớ vì cớ công bình. Ưu tiên số một của môn đồ Chúa là sự công bình, và sự công bình ấy phải vượt trổi hơn sự công bình của các thầy thông giáo và người Pharisi (5:10, 20; 6:33).

“Phước Cho Những Kẻ Hay Thương xót”

Từ “thương xót” có nghĩa là “yêu thương vô điều kiện”. “Phước cho người nào nhận lãnh được tình yêu thương tràn đầy, vô điều kiện của Đức Chúa Trời” là một lời diễn giải tuyệt
vời của phước lành nầy. Nếu bạn sắp sửa rời núi để trở thành giải pháp cho những ai đang bị tổn thương, thì ắt hẳn bạn phải được đổ đầy tình yêu của Đức Chúa Trời. Đầy dẫy sự công bình đồng nghĩa với đầy dẫy tình yêu của Đức Chúa Trời.

“Phước Cho Những Kẻ Có Lòng Trong Sạch”

Từ “trong sạch” trong phước lành nầy vốn là một từ theo tiếng Hy Lạp có nghĩa gốc từ chữ “đẩy ra”. Ý nghĩa của thái độ nầy là khi một con cái Chúa yêu thương người khác bằng tình yêu vô điều kiện của Chúa, thì mọi động cơ vị kỷ đều sẽ bị đẩy ra khỏi tấm lòng của người ấy.

“Phước Cho Những Kẻ Làm Cho Người Hòa Thuận”

Người làm cho người khác hòa thuận gọi là người hòa giải. Vấn đề chủ yếu đang tồn tại ở chân núi là sự bất hòa. Đa số nan đề của con người bắt nguồn từ mối bất hòa với Đức Chúa Trời và với người khác trong đời sống họ. Đó là lý do tại sao Chúa Jêsus thách thức các môn đồ Ngài tại nơi tĩnh tâm nầy là hãy làm tác nhân cho sự giải hòa.Theo Phaolô, mục tiêu chính của sứ mạng mà Chúa Jêsus giao phó cho các môn đồ Ngài là sứ điệp và chức vụ giải hòa. Chúng ta hãy đi ra và nói với dân chúng rằng: “Vậy, chúng tôi làm chức khâm sai của Đấng Christ, cũng như Đức Chúa Trời bởi chúng tôi mà khuyên bảo. Chúng tôi nhân danh Đấng Christ mà nài xin anh em: Hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời” (II Côrinhtô 5:20).

“Phước Cho Những Kẻ Chịu Bắt Bớ”

Có thể bạn sẽ nghĩ rằng trong thời đại chúng ta, nếu có người sống với những thái độ đẹp đẽ nầy, thì chắc họ sẽ được nhiều người hoan nghênh lắm. Tuy nhiên, phước lành thứ tám nầy nói cho chúng ta biết rằng môn đồ Chúa Jêsus Christ thì sẽ thường xuyên bị bắt bớ vì thái độ sống đẹp đẽ của họ.Một môn đồ với những thái độ như thế, đặt dân sự trước một kiểu mẫu mà họ phải theo. Tuy nhiên nếu họ trải qua sự đương đầu đó rồi, họ sẽ thú nhận những thái độ sai trái của mình và học hỏi để biết cần phải làm thế nào hầu đạt được những thái độ sống đầy phước hạnh,nhưng cũng có khi họ quay sang công kích những thái độ sống đẹp đẽ đó của các môn đồ. Suốt hơn hai ngàn năm qua, họ thường hành xử theo sự chọn lựa thứ hai.Sứ giả hòa bình là người có nhiệm vụ đi đến nơi đang có các cuộc xung đột, và thường đó là những nơi vô cùng nguy hiểm. Những môn đồ đích thực, đáng tin cậy của Chúa Jêsus thời ấy - kể cả thời nay - thường phó mạng sống mình cho chức vụ giải hòa. Môn đồ tin kính cũng thường xuyên thực hiện chức vụ giảng hòa ngay trong gia đình mình, trong Hội thánh,nơi hàng xóm láng giềng, trong lớp học và tại nơi làm việc.

Chương 6: ỨNG DỤNG BÀI GIẢNG

Chúa Jêsus tiếp tục phát họa tính cách giống như Đấng Christ của Ngài qua bốn ẩn dụ có ý nghĩa rất sâu sắc, cho chúng ta thấy được điều gì sẽ xảy ra khi tính cách đó tác động đến nếp sống của người ngoại giáo. Ngài dạy các môn đồ hãy là muối của đất …, sự sáng của thế gian …, thành phố tọa lạc trên đồi cao nên không thể bị che khuất được, và là cây đèn thắp sáng được đặt trên chân đèn (Mathiơ 5:13-16). Bốn ẩn dụ nầy bắt đầu ứng dụng cho bài giảng. Bây giờ, chúng ta hãy lần lược xem xét từng ẩn dụ:“Các Ngươi Là Muối Của Đất”.

Cách giải nghĩa rõ ràng và sự ứng dụng cụ thể của ẩn dụ nầy liên quan đến một vấn đề: muối là thứ duy nhất được dùng để bảo quản thức ăn trong thời đó. Ý Chúa Jêsus muốn nói thế gian hư mất nầy chẳng khác nào thức ăn bị hư thối, cho nên các môn đồ của Ngài phải là “muối” để ngăn chặn thế giới khỏi bị suy đồi thuộc linh và đạo đức. Trong nguyên bản được ghi: “Chỉ có các ngươi và duy nhất các ngươi là muối của đất”.Một cách hiểu khác của ẩn dụ nầy là không có một sinh vật nào có thể sống được nếu không có muối.

Theo cách hiểu nầy thì, Chúa Jêsus muốn nói với các môn đồ Ngài rằng:“Những người đang ở tại chân núi kia không có sự sống. Nhưng, nếu các ngươi sống theo tám thái độ đẹp đẽ trên, thì các ngươi sẽ trở thành phương tiện để qua đó họ tìm được sự sống”.

“Các Ngươi Là Sự Sáng Của Thế Gian”

Khi Chúa Jêsus nhìn thấy đoàn dân đông, có một điều khiến Ngài động lòng thương xót họ hơn bất cứ điều gì khác, đó là họ giống như chiên không người chăn. Họ không biết phải đi hướng nào. Bởi vì bạn biết được điều mà họ không biết, cho nên bạn là sự sáng mà họ đang cần. Một lần nữa, trong nguyên bản ghi rằng:“Chỉ có các ngươi và duy nhất các ngươi hãy là sự sáng của thế gian”.

Là Ngọn Đèn Đặt Trên Chân Đèn

Điều Chúa Jêsus muốn nói qua ẩn dụ nầy là: “Trước khi ngươi chưa trở nên một trong những giải pháp của Ta thì ngươi chẳng khác nào cây đèn chưa được thắp sáng. Nhưng giờ đây ngươi đã kinh nghiệm được “sự tái sinh”, bao hàm việc trở nên một trong số các môn đồ của Ta, thì đèn của ngươi đã được thắp sáng lên rồi. Cứ mỗi lần Ta thắp lên một ngọn đèn thì Ta
chọn một chân đèn để đặt cây đèn ấy lên theo ý định của Ta”. Chúa Jêsus phán: “Các ngươi phải là cây đèn được đặt trên chân đèn”.

Là Thành Phố Trên Đồi Cao

Ẩn dụ thứ tư là một thành phố nằm trên đồi cao nên không thể bị che khuất. Nếu chúng ta có tám phước lành nầy trong đời sống thì sự làm chứng của chúng ta cho Đấng Christ không thể nào bị che khuất được. Chúa Jêsus Christ không hề có môn đồ nào gọi là môn đồ bí mật cả.

Là Con Rùa Nằm Trên Cột Hàng Rào

Có bao giờ bạn thấy một con rùa nằm trên cột hàng rào chưa? Hễ khi nào bạn thấy có một con rùa đang nằm trên cột hàng rào, thì bạn biết chắc một điều là có người đã đem đặt nó ở đó, vì nó không thể nào trèo lên cột hàng rào ấy được! Mỗi môn đồ của Chúa Jêsus được đặt để ở nơi nào là theo chiến lược của Ngài tương tự như con rùa nằm trên cột hàng rào kia.

Chúng ta hãy quan sát chung quanh; hãy nhận biết nơi chúng ta đang được Chúa đặt để một cách chiến lược trong thế giới nầy, và hãy nghĩ về ẩn dụ cây đèn nằm trên chân đèn, và thành phố nằm trên đồi cao, lúc ấy chúng ta sẽ nói rằng: “Tôi cứ ở tại nơi mà hiện giờ tôi đang sống, bởi vì Đấng Christ phục sinh, hằng sống đã đặt tôi ở đây để làm giải pháp cho các nan đề của thế gian nghèo túng nầy”.

Tiếp Tục Sự Ứng Dụng

Chúa Jêsus tiếp tục ứng dụng bài giảng của Ngài trong phần khó nhất (5:17-48). Ngài bắt đầu áp dụng phần nầy bằng việc đưa ra hai lời tuyên bố quan trọng: Thứ nhất là Ngài đến không phải để phá hủy luật pháp mà là để làm trọn luật pháp của Đức Chúa Trời. Điều cốt lõi trong câu tuyên bố thứ hai là trừ phi sự công bình của các môn đồ Ngài vượt trổi hơn sự công bình của các thầy thông giáo và của người Pharisi, thì các môn đồ ấy mới có thể thực sự hiểu được lời dạy dỗ của Ngài (5:17-20).

Hãy theo dõi phân đoạn Kinh thánh dài nhất trong Mathiơ chương năm, Chúa Jêsus tuyên bố sáu lần: “Các ngươi có nghe lời phán rằng… nhưng Ta phán cùng các ngươi” (Mathiơ 5:21-48). Hầu như lần nầy Chúa Jêsus trích dẫn toàn là những điều đã được phán, tuy vậy Ngài không đề cập gì đến Môise nhưng lại đề cập đến các thầy thông giáo và những người Pharisi. Ngài viện dẫn điều họ dạy thực sự không phải là sự dạy dỗ của Môise và cũng chẳng phải là của Lời Đức Chúa Trời. Khi Ngài đề cập đến những điều Môise dạy, thì Ngài thường không đồng ý với cái cách họ lý giải về điều đó.

Điều cốt yếu của lời dạy nầy là: “Những gì Ta dạy đều phù hợp với Lời Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, sự dạy dỗ của Ta không hề giống với sự dạy dỗ và những lời truyền khẩu của các thầy thông giáo và người Pharisi”. Trong bài giảng vĩ đại nhất của Chúa Jêsus, Ngài thách thức sự dạy dỗ của các nhà lãnh đạo tôn giáo. Sự thách thức của Ngài về sự dạy dỗ và tác
dụng của họ vẫn tiếp tục cho đến lúc họ nhận thấy rằng họ không thể cùng tồn tại với Ngài, nên đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá.

Mục Đích Của Kinh thánh

Cách giải thích và ứng dụng Kinh thánh của Chúa Jêsus và giới lãnh đạo tôn giáo có điểm khác biệt cơ bản. Trước khi ứng dụng Luật Pháp của Đức Chúa Trời vào đời sống dân sự,Chúa Jêsus nhìn Luật pháp bằng “lăng kính” tình yêu của Đức Chúa Trời. Còn các thầy thông giáo và người Pharisi khi dạy Luật Pháp Chúa, họ không hiểu và cũng không nhớ mục đích, ý định của Luật pháp khi được Môise ban ra trên núi Sinai - tất cả là vì hạnh phúc của dân sự Đức Chúa Trời.

Luật Pháp Đức Chúa Trời biểu lộ của tình yêu của Ngài với dân sự. Rõ ràng, Chúa Jêsus không bao giờ quên mục đích đó của Kinh thánh. Đó là điều cốt yếu mà Chúa Jêsus thách thức các môn đồ Ngài hãy học và đừng bao giờ quên khi trở về với đoàn dân ở dưới chân núi. Ngài dạy các môn đồ cần phải biết cách ứng dụng Luật Pháp Đức Chúa Trời vào đời sống dân sự Chúa nếu họ sắp sửa làm sự sáng của thế gian.

Sự Công Bình Có Tính Cách Liên Hệ (Mathiơ 5: 21-48)

Sau khi đưa ra những lời tuyên bố về tầm quan trọng của Kinh thánh trong cuộc sống của môn đồ, Chúa Jêsus dạy cho họ cách áp dụng sự dạy dỗ của Ngài vào các mối quan hệ.Mối quan hệ thứ nhất Chúa Jêsus đề cập đến là mối quan hệ với những người anh em, hoặc với những người cùng đức tin. Thật đáng chú ý khi nghe Ngài giảng rằng đôi lúc chúng ta không ưu tiên Đức Chúa Trời trên hết, mà lại “trước tiên cho anh em các ngươi, kế đó mới đến Chúa”. Thứ tự ưu tiên nầy cho chúng ta thấy Chúa có ý nghĩa to lớn như thế nào trong mối quan hệ của chúng ta đối với các tín hữu cùng niềm tin. Chúng ta không thể thắng thế gian nầy nếu chúng ta đánh mất nhau.

Chúa dạy các môn đồ biết cách đối phó với kẻ thù mình ra sao. Chúng ta đang sống trong thế gian cạnh tranh dữ dội . Kẻ thù của chúng ta là kẻ cạnh tranh với chúng ta và cũng là kẻ chống lại chúng ta (5:2526). Ngài có vài lời liên quan đến nữ giới (5: 27-30) (Vì không thấy có sự chỉ dạy về mối liên hệ của nam giới đối với nam giới, cho nên chúng ta có thể xem đây là sự tĩnh tâm của nam giới). Có nhiều người hiểu sai sự dạy dỗ nầy. Chúa không hề dạy rằng chỉ cần nghĩ đến sự tà dâm thì đã hệ trọng như đã thực sự phạm tội tà dâm vậy. Ở đây lời Chúa muốn dạy rằng chúng ta hãy chiến thắng sự cám dỗ trước hết là ở cái nhìn và trong tư tưởng.Tiếp theo, Chúa Jêsus nói đến mối quan hệ đối với vợ (5:31-32). Ngài dạy rằng mối quan hệ của họ với vợ phải là mối quan hệ suốt đời. Sự dạy dỗ nầy gắn liền với điều Ngài dạy về mối quan hệ của họ với nữ giới.

Nguyên nhân phổ biến dẫn đến tệ nạn ly dị trong thời đại ngày nay là sự thiếu chung thủy. Một nguyên nhân dẫn đến tình trạng ly dị lan tràn hiện nay là sự thiếu chung thủy. Khi nạn ly dị lan tràn, thì có nghĩa là đã xảy ra tệ nạn gia đình suy giảm chức năng khiến cho con cái bị tổn thương. Nhiều người đang đau đớn và khổ sở tại “chân núi”, vì những người đàn ông đã thất bại trong sự cám dỗ như Chúa Jêsus vừa nói đến ở những câu trên (5:27-30).Các môn đồ cũng được dạy là không thề thốt như người Pharisi. Hễ điều gì phải thì nói “phải”, điều gì không nói “không”. Họ không chỉ là người có Lời (Kinh thánh), mà còn là người biết giữ lời hứa, họ phải là người chính trực (5:33-37).

Nguyên Tắc Xử Thế Cao Nhất (5:38-48)

Chúa Jêsus kết thúc sự ứng dụng phân đoạn Kinh thánh khá dài nầy bằng việc truyền dạy cho chúng ta một trong những nguyên tắc xử thế cao nhất. Điều Chúa dạy qua những câu kết thúc nầy trình bày mẫu mực về nguyên tắc xử thế cao nhất trong bất kỳ tôn giáo nào. Lời dạy nầy là tác nhân chính trong việc chịu tử đạo của các sứ đồ và của hàng triệu tín hữu xuyên suốt lịch sử Hội thánh. Những câu Kinh thánh nầy cũng được xem là những lời giảng khó nghe nhất của Chúa Jêsus. Hai trong số những lời dạy khó thực hiện nhất của Ngài là đừng chống cự kẻ ác và hãy yêu kẻ thù.

Hãy nhớ rằng, Chúa Jêsus không dạy nguyên tắc xử thế nầy cho cả đoàn dân đông gồm mọi thành phần tại chân núi. Ngài chỉ dạy riêng cho các môn đồ ở trên núi. Họ là những người hứa nguyện theo Ngài và thậm chí chết vì Ngài (Luca 9:23-25; 14:25-35). Ngài khẳng định rất rõ ràng rằng hễ ai xưng mình là môn đồ Ngài thì phải vác thập tự giá bước theo Ngài. Khi Chúa bảo: “Đừng chống cự kẻ ác”, và: “Hãy yêu kẻ thù”, nghĩa là Ngài muốn nói cho họ biết Ngài muốn họ sẽ phải chịu chết ở đâu, vào khi nào, cách thức ra sao và vì lẽ gì.

Trong những cuộc “Thánh Chiến”, vào khoảng năm 1220, Francis of Assisi chăm sóc cho một người Thổ Nhĩ Kỳ bị thương. Một thành viên trong đội thập tự chinh đang ngồi trên lưng ngựa nhìn thấy vậy liền nói:“ Nếu tên Thổ Nhĩ Kỳ đó được bình phục, hắn sẽ giết mày đấy, Francis” Francis đáp: “Ồ! Không đâu! Anh ấy sẽ nhận biết được tình yêu của Đấng Christ trước khi anh ấy làm điều đó!”

Trọng tâm của sứ điệp nầy nằm ở câu hỏi của Chúa Jêsus: “Điều các ngươi làm có hơn những người khác làm không?” (5:47). Xuyên qua bài giảng nầy, về cơ bản, Chúa Jêsus dạy:
“Là một môn đồ, các ngươi phải khác”. Có một cách dịch diễn đạt câu hỏi nầy của Chúa Jêsus như thế nầy: “Nếu các ngươi chỉ yêu những người yêu mình thì các ngươi sẽ nhận lãnh
được ơn phước gì? Nếu các ngươi chỉ yêu kẻ yêu mình, thì thái độ đó là lẽ thường tình”.

Hội thánh thời Tân ước đã nhận được ân điển trong Ngày Lễ Ngũ Tuần (Công Vụ 2). Ân điển ban cho dân sự trong Hội thánh lúc ấy chính là các ân tứ khác nhau. Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa ban cho ân điển khi chúng ta áp dụng nguyên tắc xử thế cao nhất của Chúa Jêsus vào trong mối quan hệ của chúng ta với kẻ thù.

Chương 7: BA VIỄN CẢNH CỦA CUỘC SỐNG

Khi Chúa Jêsus dạy về các thái độ cư xử đẹp đẽ trên, Ngài thách thức các môn đồ hãy nhìn vào tận đáy lòng mình và xem xét lối suy nghĩ nào điều khiển đời sống họ. Trong phân đoạn Kinh thánh dài tiếp theo sau các phước lành, Chúa lại thách thức họ hãy nhìn quanh và áp dụng các phước lành ấy vào những mối quan hệ quan trọng nhất của họ. Khi các môn đồ đã tham gia tĩnh tâm trên núi, nghe dạy dỗ về cách thức áp dụng các phước lành vào các mối quan hệ, đặc biệt là đối với kẻ thù mình, họ lại càng có sự chuẩn bị tinh thần nhiều hơn cho việc sẽ phải đối diện với viễn cảnh thứ ba trong cuộc sống mà Chúa Jêsus đã chia sẻ với họ.

Khi bắt đầu đọc Mathiơ chương sáu, chúng ta thấy Chúa Jêsus bảo các môn đồ hãy nhìn lên và suy nghĩ về những nguyên tắc thuộc linh và giá trị của một môn đồ đích thật (từ “nguyên tắc” và “môn đồ” đều cùng một từ gốc). Chúa chia sẻ với họ ba nguyên tắc thuộc linh và Ngài dạy rằng cả ba nguyên tắc nầy phải được ứng dụng thực tiễn theo chiều đứng chứ không phải chiều ngang.Người Pharisi có đời sống công bình theo chiều ngang, hoặc thực hành nhằm mục đích để nhận được sự tán thưởng và chấp nhận của con người. Chúa Jêsus thách thức các môn đồ hãy thực hành sự công bình theo chiều đứng để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Đây chính là ý Ngài muốn nói khi dạy rằng sự công bình của các môn đồ Ngài phải vượt trổi hơn sự công bình của các thầy thông giáo và người Pharisi (5:20).

Nguyên Tắc Bố Thí (6:1-4)

Nguyên tắc thuộc linh đầu tiên mà Chúa Jêsus dạy, ngày nay chúng ta gọi là sự quản lý. Sức khoẻ và sự thịnh vượng thuộc linh của chúng ta chịu ảnh hưởng rất lớn của việc chúng ta trung tín thực hiện kỷ luật thuộc linh nầy. Sự bố thí của chúng ta phải thể hiện theo chiều dọc trước mặt Đức Chúa Trời, chứ không phải nhằm để gây ấn tượng với người khác. Nếu chúng ta dâng hiến cho Chúa,thì chúng ta không cần phải cho bất kỳ ai biết chúng ta đang dâng gì.

Nguyên Tắc Cầu Nguyện - Tương Giao Với Chúa (6:5-15)

Bạn không thể nào yêu được kẻ thù mình, hoặc có thể trở thành giải pháp của Đấng Christ trong đời sống của nhiều người đang gặp nan đề, nếu bạn không biết cách cầu nguyện.Thậm chí bạn cũng không thể giải quyết nan đề của chính mình, nếu như bạn không biết cách cầu nguyện. Đó là lý do tại sao Chúa giải thích và dạy các môn đồ nguyên tắc cầu nguyện.

Điểm chính trong lời dạy về sự cầu nguyện của Ngài là phải tin chắc rằng khi chúng ta cầu nguyện, tức là chúng ta thưa chuyện với Đức Chúa Trời. Chúa Jêsus dạy nếu chúng ta muốn chắc chắn mình đang thưa chuyện với Chúa khi cầu nguyện, thì chúng ta hãy đi vào phòng riêng (hoặc ở bất cứ chỗ nào mà chúng ta có thể ở một mình) và đóng cửa lại. Vì nơi không có ai chú ý ngoài Chúa, thì sự cầu nguyện nơi kín nhiệm ấy thường tốt hơn là cầu nguyện tại chốn công cộng cốt cho thiên hạ nhìn thấy, ý Chúa Jêsus bảo vậy. Ngài hứa rằng Đức Chúa Trời của chúng ta, Đấng ở trong nơi kín nhiệm, sẽ khen thưởng, đáp lời cầu xin chân thật nơi riêng tư đó của chúng ta.Trong bối cảnh nầy, Ngài đưa ra lời dạy dỗ vĩ đại nhất mà thế gian nhận được về cách phải cầu nguyện như thế nào. Lời dạy dỗ nầy được gọi là “Lời Cầu Nguyện của Các Môn Đồ ”. Có bảy điều thỉnh cầu trong lời cầu nguyện nầy. Sau khi xưng Đức Chúa Trời là Cha trên trời của chúng ta, thì chúng ta hãy ưu tiên cầu nguyện cho ba điều: Danh Cha, nước Cha và ý Cha. Sau đó, chúng ta cầu khẩn “Xin ban cho chúng con”.Qua ba điều cầu xin mà Chúa đã dạy nầy, thì chúng ta đan giải cứu cầu nguyện “Chúa là trên hết”. Cầu nguyện không chỉ là bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời với một danh
sách ghi những thứ cần mua sắm, rồi chúng ta sai Ngài chạy lo những việc vặt cho chúng ta.

Chúng ta phải bước vào phòng riêng, cầu nguyện với một tấm lòng mở ra và thưa với Chúa, xin Ngài sai chúng ta chạy những việc vặt cho Ngài. Một khi chúng ta đã ưu tiên cầu nguyện như thế rồi, thì sau đó chúng ta hãy cầu xin cho những nhu cầu cá nhân. Những sự cầu xin cá nhân đó là: “Xin ban cho chúng con, xin tha tội lỗi cho chúng con, xin dẫn dắt chúng con, và xin giải cứu chúng con”.Sự cầu xin cá nhân đầu tiên là: “Xin ban cho chúng con hôm nay đồ ăn đủ ngày” (6:11). Đồ ăn là biểu tượng cho tất cả mọi nhu cầu của chúng ta. Đồ ăn chúng ta cầu xin chỉ cho “hôm nay”.Tiếp tục chúng ta khẩn nài “Xin tha tội cho chúng con” (6:12). Chúa Jêsus không dạy rằng sự tha thứ của chúng ta được đặt trên nền tảng chúng ta tha thứ. Chúng ta tha thứ bởi vì chúng ta đã được tha thứ. Tại sao chúng ta không chịu tha thứ cho người khác, trong khi chúng ta đã được tha thứ quá nhiều? Theo Chúa Jêsus thì, chúng ta kinh nghiệm được tha thứ chỉ khi nào chúng ta biết tha thứ.

Sự cầu xin cá nhân thứ ba là: “Xin chớ để chúng con bị cám dỗ” (6:13). Lời thỉnh cầu nầy thực sự như vầy: “Lạy Cha! nếu Cha chỉ lối cho con bước đi, và con bước theo sự dẫn dắt của Cha, thì con sẽ không phải đối mặt để đương đầu với sự cám dỗ”.Còn sự cầu xin thứ tư là: “Xin cứu chúng con khỏi điều ác” (6:13). Chúng ta được dạy kết thúc lời cầu nguyện giống như cách chúng ta mở đầu với đại ý “Chúa là trên hết” lần nữa.Chúng ta hãy kết thúc lời cầu bằng sự nhận biết và khẳng định rằng: “Vì nước, quyền, vinh hiển đều thuộc về Cha đời đời vô cùng”.

Nguyên Tắc Kiêng Ăn (6:16-18)

Giống như sự bố thí và cầu nguyện, Chúa Jêsus dạy rằng nguyên tắc kiêng ăn thuộc linh cũng phải được thực hiện theo chiều dọc. Kiêng ăn là tuyên bố với Chúa và với chính mình rằng chúng ta xem giá trị thuộc linh hơn thuộc thể. Theo Chúa Jêsus, kiêng ăn là hành vi bày tỏ sự thành thật hết lòng của chúng ta trong lời cầu nguyện. Chắc chắn phép lạ sẽ không xảy ra trừ phi có sự dốc sức kiêng ăn và cầu nguyện (Mathiơ 17:21).

Nguyên Tắc Giá Trị Theo Chiều Dọc (6:19-34)

Kế đó Chúa Jêsus dạy các môn đồ về nguyên tắc giá trị của thiên đàng (6:19-34). Trong phân đoạn Kinh thánh nầy, Ngài mô tả sơ lược về một nguyên nhân khác gây nên đau khổ cho nhiều người đang ở tại chân núi. Dân chúng đau khổ bởi vì không có những giá trị thuộc linh. Vì các môn đồ Ngài sẽ trở thành giải pháp và là một trong những câu trả lời của Ngài cho dân sự đang gặp nan đề, cho nên họ phải có những giá trị thuộc linh theo chiều dọc, thuộc về thiên đàng của Đấng Christ.

Có nhiều kho báu trên thiên đàng và dưới đất. Các môn đồ Chúa không nên tích trữ của cải trong đời nầy vì chúng sẽ mất giá trị và có thể bị trộm cướp. Họ nên dồn chứa của báu của mình ở trên trời là những thứ không bao giờ bị mất giá trị và không bị trộm cướp. Ngài hết sức chân thực, chỉ cho họ làm thế nào để nhận biết được những giá trị thực sự là gì. Ngày nay, có một lời diễn giải tóm tắt sự dạy dỗ nầy là: “Nếu bạn muốn biết những gì bạn có là đáng giá thế nào, thì hãy nhìn lại, xem xét mình đã chi dùng tiền bạc vào đâu, và lục lại mấy
tờ lịch cũ của năm năm qua xem thử mình đã sử dụng thì giờ cho những việc gì”.

Của cải của bạn ở đâu thì lòng bạn ở đó, và nếu bạn muốn biết của cải ấy có giá trị ra sao thì bạn hãy tự hỏi những câu nầy: “Bạn đã sử dụng tiền bạc và thì giờ của mình như thế nào? Bạn làm gì suốt ngày? Bạn muốn làm gì trong ngày? Bạn hay lo lắng về điều gì trong ngày? Nếu muốn đánh giá những hành động, tham vọng và những điều lo lắng của mình, thì bạn cần tập trung chú ý đến những giá trị của mình.

Chúa kết thúc bài giảng về của báu thật nầy bằng lời dạy cho các môn đồ rằng điều có giá trị nhất của họ chính là Vương quốc Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài - Ngài chứng minh cho họ thấy đúng như vậy. Nếu ai đói khát sự công bình thì người đó sẽ có được giá trị tuyệt đối nầy, và Chúa sẽ chúc phước trên họ, ban cho họ mọi nhu cần khi họ biết ưu
tiên đặt Đức Chúa Trời và Vương quốc của Ngài lên hàng đầu.

Hãy Nhìn Vào (7:1-5)

Khi đọc Mathiơ chương bảy, chúng ta thấy Chúa Jêsus sắp sửa kết thúc cuộc tĩnh tâm của Ngài. Sau khi thách thức các môn đồ hãy nhìn vào, nhìn quanh và nhìn lên, Ngài đưa ra lời dạy dỗ như một phán quyết bằng cách đề nghị họ hãy cẩn thận quyết định nhìn vào chính mình và xét lại mình. Chúa dùng một ẩn dụ hóm hỉnh dạy chúng ta không nên cố tình tìm cho
ra một hạt mùn cưa trong mắt anh em mình, trong khi chúng ta lại đang có một khúc gỗ nằm trong mắt. Chúng ta hãy nhìn vào chính mình và xin Chúa phán xét bản thân chúng ta trước,
rồi sau đó chúng ta mới có thể giúp đỡ người khác. Bởi vậy, chúng ta cần quyết định nhìn vào và lấy khúc gỗ ra khỏi mắt mình trước khi chúng ta chăm sóc người khác. Chúa Jêsus khuyên chúng ta đừng làm kẻ đạo đức giả hay chỉ trích những chuyện nhỏ nhặt của người khác.

Hãy Nhìn Lên (7:3-5)

Chúa Jêsus tiếp tục kết thúc sự dạy dỗ của Ngài qua lời mời gọi những ai đã nghe lời giảng, thì hãy quyết định nhìn lên. Ngài dạy về những nguyên tắc và giá trị thuộc linh, rồi đưa ra phán quyết bằng lời mời gọi các môn đồ hãy nhìn lên với sự bền chí – không ngừng kêu cầu, tìm kiếm và gõ cửa. Lời hứa của Ngài gồm có ba phần: hễ ai xin sẽ được, ai tìm sẽ gặp và hễ ai thường xuyên gõ cửa, thì sẽ gặp được chính Ngài đang đứng trước cửa đã mở (Luca 11:9-13).

Hãy Nhìn Quanh (7:12)

Khi những người nghe Ngài dạy dỗ sắp rời khỏi núi, Chúa Jêsus liền bảo họ hãy quyết định nhìn quanh. Sự dạy dỗ nầy được gọi là: “Luật Vàng”. Thành ngữ ngắn gọn nầy tóm tắt cô đọng về sự dạy dỗ của Chúa Jêsus và của cả Kinh thánh về những gì liên quan đến nguyên tắc xử thế.Thách thức chủ yếu của sự dạy dỗ nầy là: “Nếu bạn muốn trở thành muối và ánh sáng cho nhu cầu cấp bách của thế gian, thì hãy đặt chính mình vào vị trí của mỗi người bạn gặp gỡ. Sau đó, bạn cần tự hỏi: “Nếu bạn là người đó, thì bạn muốn một môn đồ đã nghe điều bạn từng nghe trên đỉnh núi nầy, phải làm gì?” Khi bạn có câu trả lời cho câu hỏi nầy rồi thì bạn sẽ thấy nó thật quá đơn giản! Đó là sự dạy dỗ của Kinh thánh về chủ đề trong các mối quan hệ của con người: “Hễ các ngươi muốn người ta làm bất cứ điều gì cho mình, thì trước hết hãy làm điều đó cho họ”.

Với ứng dụng nầy, bạn hãy đặt chính mình vào vị trí của người phối ngẫu, của con cái, cha mẹ, anh chị em ruột và của những anh em trong Chúa. Hãy áp dụng sự dạy dỗ nầy cho tất cả những ai có liên hệ với cuộc đời bạn. Đặt trường hợp bạn là những người đó, thì bạn sẽ muốn mình làm điều gì? Đừng quên áp dụng sự dạy dỗ nầy cho cả những người chưa đặt niềm tin nơi Chúa Jêsus, là những người chưa nếm trải được sự cứu rỗi hoặc các ơn phước của sự cứu rỗi. Sau đó, bạn hỏi: “Nếu tôi là người đó, thì tôi muốn một môn đồ của Chúa Jêsus Christ đã được dạy về thái độ cư xử, làm gì cho mình?” Khi bạn tìm được lời giải đáp rồi, thì đơn giản là hãy thực hiện, đó là Luật Vàng trong công tác truyền giảng Phúc âm.
Lời Mời Gọi (7:13-27)

Khi Chúa Jêsus bắt đầu cuộc tĩnh tâm nầy, Ngài có lời mời gọi: “Các ngươi là người có nan đề hay muốn trở thành giải pháp cho nan đề?” Lúc kết thúc, Ngài lại đưa ra lời thách thức tương tự – Đây là thời điểm tốt nhất để những người nghe lời mời gọi công khai thừa nhận là họ muốn dự phần vào giải pháp. Vào phần cuối, lời mời gọi của Ngài là: “Các ngươi sẽ là giải pháp nào đây?” Để tổng kết và diễn giải lời mời gọi của mình, Chúa Jêsus khép lại cuộc tĩnh tâm nầy với lời tuyên bố: “Có hai nhóm môn đồ - đa số và thiểu số, giả dối và chân thật, người nói suông và người thực hành. Những người thuộc nhóm đa số nghĩ là con đường khoảng khoát sẽ khiến họ trở thành giải pháp và câu trả lời, những người nầy không bao giờ trở thành giải pháp của Ta được. Thế nhưng, những người thuộc nhóm thiểu số nhận thấy là để trở thành muối của đất, và ánh sáng của thế gian thì phải vào cửa hẹp, với một đời sống khuôn khổ, kỷ luật. Vậy, các ngươi sẽ là những môn đồ đa số hay thiểu số, môn đồ giả dối hay chân thật để thật sự góp phần trong giải pháp của Ta? Các ngươi sẽ là người chỉ biết nói suông hay là người thực hành những điều Ta đã dạy dỗ trên núi nầy?” Ẩn dụ thú vị Chúa Jêsus dùng để kết luận bài giảng tuyệt vời nhất của Ngài về hai loại môn đồ sắp rời núi. Chúa mô tả hai ngôi nhà (hai cuộc đời), một ngôi nhà được xây trên nền đá (là những môn đồ làm theo sự dạy dỗ của Chúa) và ngôi nhà còn lại được xây trên cát (là những môn đồ không làm theo sự dạy dỗ của Ngài). Cả hai đều nghe lời Chúa, nhưng một người - là người dại  không chịu làm theo những gì đã nghe. Còn người kia, nghe và làm theo tất cả. Lời kết luận đầy quyền năng nầy cho thấy điểm khác biệt giữa hai nhóm môn đồ,đó chính là ở chỗ họ sẽ làm gì với những điều đã nhận được (Mathiơ 7:24-27).Sau khi bạn đã xem xét sự dạy dỗ tuyệt vời nầy, bạn hãy quyết định là môn đồ nào cho Chúa Jêsus? Bạn dự định sẽ làm gì với những điều bạn nhận biết?

Chương 8: NHIỆM VỤ ĐƯỢC GIAO

Chúng ta không biết có bao nhiêu môn đồ tham dự Cuộc Tĩnh Tâm Cơ Đốc Đầu Tiên. Theo sự quan sát của tôi, sau lời kết luận ngắn ngủi của Chúa Jêsus qua bài giảng trên núi cùng với lời mời gọi đầy thách thức, Chúa Jêsus đã chọn mười hai môn đồ làm sứ đồ. Rõ ràng Chúa đã huấn luyện họ thành sứ đồ trong cuộc tĩnh tâm nầy và sau đó Ngài ủy thác để họ ra đi, thực hiện sứ mệnh cho Ngài – họ đã tham gia chiến lược rao giảng của Chúa, cho cả thế gian đều biết sự cứu rỗi mà Ngài đem đến cho thế giới nầy.

Như có lần tôi từng hỏi, giả sử bạn biết mình chỉ còn sống trong ba năm nữa thôi và bạn phải hoàn thành một sứ mệnh nào đó của mình, vậy bạn sẽ làm gì? Chúa biết rất rõ Ngài chỉ còn sống trong thế gian ba năm thôi và đó là lý do tại sao Ngài phải bổ nhiệm, ủy quyền cho các sứ đồ thực hiện công việc rao giảng sự cứu rỗi của Ngài cho nhân loại. Các môn đồ trung tín của Ngài đã rao giảng Tin lành suốt cả cuộc đời. Kể từ khi Chúa ủy nhiệm họ ra đi, mãi đến năm thế kỷ sau đó vẫn không ai có thể kiếm được một việc làm trong Đế quốc La mã nếu như người ấy thừa nhận mình là Cơ Đốc nhân. Cũng vậy, chúng ta phải trung tín rao báo cho thế gian nầy biết đến Đấng Christ bằng cách hãy nói về Phúc âm cho nhiều người
nghe, ngay tại nơi chúng ta đang sống.

Làm Quen Với Mười Hai Sứ Đồ

Chúa Jêsus cầu nguyện thâu đêm trước khi Ngài bổ nhiệm mười hai sứ đồ (Luca 6:12-13). Bốn sứ đồ đầu được kể tên trong sách Mathiơ gồm có hai cặp anh em là Phierơ và Anhrê,Giacơ và Giăng. Bốn người nầy từng làm việc với nhau trong nghề chài lưới.Philíp và Bathêlêmy thường được kể tên cùng lúc, Thôma với Mathiơ cũng vậy. Philíp là một thương gia kinh doanh ngựa và các phương tiện vận chuyển khác. Có lẽ công việc của ông tương tự như những người làm ăn trong giới kinh doanh xe hơi ở thời đại chúng ta ngày nay. Khi so sánh danh sách những sứ đồ trong các sách Phúc âm với nhau, chúng ta có thể khẳng định Bathêlêmy chính là Nathanaên.Thôma là người thông minh và hiếu kỳ. Ngày nay chúng ta gọi mẫu người như thế là “Thôma nghi ngờ”. Mathiơ là người thu thuế, còn gọi là nhân viên thuế vụ, chuyên đi thu thuế của người Do thái để nộp cho đế quốc La mã, vì thế nên ông bị người ta xem là một kẻ phản bội lại dân tộc mình. Bạn thấy các sách Phúc âm thường đề cập đến “những kẻ có tội và người thâu thuế”. Điều nầy không có nghĩa người thâu thuế không phải là kẻ có tội, song có nghĩa là tất cả người thâu thuế đều là kẻ có tội! Dân Do Thái rất ghét những người thâu thuế. Như vậy, thật là đáng quan tâm khi Chúa Jêsus lại chọn một người thâu thuế làm một trong số mười hai sứ đồ của Ngài.

Tên của bốn sứ đồ cuối cùng trong danh sách là những tên trùng lặp trong danh sách mười hai sứ đồ. Thí dụ, có một Simôn nữa khác với Simôn Phierơ. Simôn đó được gọi là: “người Canaan” hoặc “Xêlốt ”. Điều nầy có nghĩa rằng ông ta là người đối kháng với một người như Mathiơ. Ông thuộc đảng Xêlốt, gồm những chiến sĩ du kích thường xuyên nổi dậy chống lại chính quyền La mã, cho dù đất nuớc Do thái đã bị quân La mã xâm chiếm. Ngày nay, chúng ta gọi một người như Simôn là chiến sĩ cách mạng. Các học giả cho rằng có khoảng ba hoặc
bốn người trong số các sứ đồ là những chiến sĩ của đảng Xêlốt.

Tôi thường thắc mắc không biết Simôn Xêlốt và Mathiơ người thâu thuế đã nói về chuyện gì – vào những lúc họ cùng nhau trò chuyện – khi đi cùng Chúa Jêsus ở Galilê, Giuđê,Giêrusalem và Samari. Hãy tưởng tượng một vở kịch khi Chúa Jêsus bảo với Mathiơ người thâu thuế, và Simôn Xêlốt hãy yêu thương và rửa chân cho nhau (Giăng 13:34- 35).Có một Giacơ khác trong danh sách 12 sứ đồ, được gọi là “Giacơ con trai của Aphê”. Giacơ nầy còn được gọi là “Giacơ nhỏ”, có lẽ do ông thấp bé hoặc nhỏ tuổi (Mác 15:40). Còn có hai người trong danh sách cùng tên Giuđa. Đó là, “Giuđa anh của Giacơ” còn gọi là “Thađê”, và Giuđa Íchcariốt kẻ phản Chúa Jêsus.

Các sứ đồ rao giảng Phúc âm và thực hiện nhiều dấu kỳ phép lạ chứng minh cho nước Đức Chúa Trời. Họ chữa lành nhiều bệnh tật, làm sạch bệnh phung, đuổi quỷ và khiến cho người chết sống lại. Họ rao giảng và ban phát Phúc âm một cách vô điều kiện, không đòi hỏi ở bất cứ ai về một điều gì cả, vì tin rằng Đức Chúa Trời sẽ đáp ứng mọi nhu cầu của họ.
Họ đã sống bởi đức tin.

Chúa Jêsus báo cho các sứ đồ biết trước họ sẽ không được người ta tiếp đón ân cần. Ngài bảo: “Kìa, Ta sai các ngươi đi khác nào như chiên vào giữa bầy muông sói” (Mathiơ 10:16).Ý Ngài muốn cảnh báo họ rằng: “Khi các ngươi thi hành nhiệm vụ Ta giao phó và thực hiện chiến lược của Ta, thì các ngươi sẽ không được thế gian nghênh đón đâu!” Đó cũng chính là
sự thật của ngày hôm nay.

Công Việc Được Giao

Bạn sẽ được soi sáng và được phước, nếu bạn trả lời sáu câu hỏi nầy về mười hai sứ đồ, là những người được Chúa Jêsus sai đi trong suốt ba năm Ngài thì hành chức vụ, và đã được
Ngài ủy thác sứ mệnh của Ngài ở thế gian:

1. Họ đang làm gì khi gặp Chúa Jêsus?
2. Cơ hội gặp Chúa Jêsus đã đem lại kết quả thế nào cho họ?
3. Họ đã tử vì đạo ở đâu, lúc nào?
4. Họ phải chịu chết giữa lúc đang làm gì?
5. Qua những điều bạn học được từ Kinh thánh và những nguồn tư liệu khác, hãy cho biết họ đã chết như thế nào?
6. Tại sao Chúa Jêsus lại chọn người cá biệt nầy làm sứ đồ?

Chúa Jêsus yêu cầu việc thực hiện sự ủy nhiệm ở mức độ rất cao khi đưa ra lời mời trên núi, vì Ngài biết trước các sứ đồ sẽ gặp khổ nạn và chịu chết vì Ngài. Bạn đang thực hiện sự ủy thác của Đức Chúa Jêsus Christ ở mức độ nào? Bạn có phải là môn đồ đích thực của Ngài không? Bạn có sẵn lòng nhận sự ủy nhiệm của Chúa Jêsus như sự ủy nhiệm đã được thể hiện trong đời sống của các sứ đồ không?

Chương 9: NHỮNG ẨN DỤ CỦA CHÚA JÊSUS TRONG SÁCH MATHIƠ

Mathiơ chương mười ba là một ẩn dụ rất hay của Phúc âm nầy. Từ “ẩn dụ” có nguồn gốc từ hai chữ Hylạp “para ballo”. Chữ para có nghĩa là “bên cạnh”, còn chữ ballo có nghĩa là “ném”. Do đó, trong tiếng Anh chữ “ball” có nghĩa là trái banh. Ẩn dụ là câu chuyện “được ném song song bên cạnh một lẽ thật mà chúng ta muốn dạy dỗ. Có một giai đoạn trong chức vụ Chúa Jêsus, Ngài thường dùng các ẩn dụ để dạy dỗ. Một trong những lý do mà Ngài không bị bắt khi kể những câu chuyện ngắn, là vì họ không hiểu được. Chỉ có những ai được Đức Thánh Linh soi dẫn thì mới hiểu được các ẩn dụ của Ngài. Mathiơ chương mười ba là một ẩn dụ tuyệt vời, là câu chuyện, là một chương trong Phúc âm nầy. Vì đây là một bài khảo sát và giới thiệu Phúc âm Mathiơ, cho nên tôi chỉ dành thì giờ giới thiệu với bạn khái niệm về ẩn dụ và đưa ra một vài thí dụ về những ẩn dụ mà Chúa Jêsus đã dạy.

Chúa Jêsus bắt đầu với ẩn dụ về Người Gieo Giống. Có một nông dân nọ đi ra gieo giống trên ruộng mình. Người lấy hạt giống trong bao ra rải. Một số hạt rơi nhằm đất cứng, dọc đường nơi người ta đi lại. Hạt giống chỉ nằm trên bề mặt, không thể đâm rễ xuống đất nên chim trời bay đến và ăn mất.

Một phần giống rơi nhằm đất mềm, những hạt giống bắt đầu châm rễ, thế nhưng, dưới bề mặt của lớp đất mỏng đó lại có đá cứng. Vì thế, khi rễ đụng phải đá thì quay trở lại. Lúc mặt trời mọc lên, chiếu những tia nắng nóng, thì cây vừa nẩy mầm bị cháy xém và chẳng đậu được trái nào hết.

Một số hạt rơi trúng nơi có nhiều đất thịt ẩm ướt, hạt liền châm rễ ra. Nhưng khi cây bắt đầu mọc thì bất ngờ chúng gặp phải cỏ dại lấn lướt, khiến cho nghẹt ngòi đến nỗi không cách gì ra trái được.

Chỉ có phần giống còn lại cuối cùng của người nông dân rơi xuống nơi đất màu mỡ. Những hạt đó không gặp phải vấn đề gì, cả bên dưới lẫn trên mặt đất. Cho nên chúng đã đơm hoa
kết trái - Một vài hạt ra được ba mươi hạt, hoặc ra được sáu mươi, và hoặc ra được một trăm - gấp rất nhiều lần số hạt lúc mới gieo.

Khi đọc ẩn dụ nầy lần đầu, chúng ta thấy nó phù hợp với tên gọi “Ẩn Dụ Về Người Gieo Giống”. Tuy nhiên, khi nghiên cứu thật kỹ lưỡng, thì chúng ta lại thấy nó thích hợp với tên gọi: “Ẩn Dụ Về Hạt Giống”, bởi vì hạt giống là Lời Chúa, ẩn dụ nầy dạy dỗ rất sâu sắc về Lời Đức Chúa Trời và một số vấn đề có liên quan khi Lời Ngài được dạy dỗ hoặc rao giảng.“Vậy, hãy coi chừng về cách các ngươi nghe” Lời Đức Chúa Trời, là cách Luca áp dụng cho ý nghĩa của ẩn dụ nầy (Luca 8:18).

Sau khi Chúa Jêsus dạy xong ẩn dụ nầy, khi còn một mình Ngài với các sứ đồ, họ hỏi Ngài về ẩn dụ và Ngài đã giải thích cho họ. Ngài cho họ biết hạt giống mà người nông dân gieo là Lời Đức Chúa Trời và bốn loại đất đại diện cho bốn cách mà con người đáp lại Lời Ngài.Khi đọc lời giải thích về ẩn dụ nầy của Chúa Jêsus, chúng ta nhận thấy là có thể đặt một tựa đề hay hơn cho ẩn dụ, đó là: “Ẩn dụ Về Các Loại Đất”. Khi suy nghĩ về trọng tâm của ẩn dụ, chúng ta thấy có đề cập đến cách người ta đáp lại Lời Đức Chúa Trời, chúng ta nhận thấy còn có một tựa đề hay hơn nữa để đặt cho ẩn dụ: “Bốn Cách Thức Nghe Lời Đức Chúa Trời”, vì ẩn dụ nầy mô tả sơ lược bốn cách con người thường đáp lại khi Lời Chúa được dạy dỗ hoặc rao giảng.

Khi Lời Chúa được rao ra, người đầu tiên hầu như chẳng hiểu gì cả; đầu óc họ quá cứng rắn, không thể tiếp thu được nên không đơm hoa kết quả.Người thứ hai hiểu Lời Chúa. Họ hiểu cách thấu đáo, nhưng đất sỏi đá ngăn không cho hạt đâm rễ sâu xuống đất, tượng trưng cho điều Chúa Jêsus thường gọi là “sự cứng lòng”.Điều nầy cho thấy tâm trí họ không thấu suốt và sự phó thác của họ rất hời hợt. Họ tin Lời Chúa, nhưng khi gặp nghịch cảnh hoặc bị bắt bớ, họ sẽ nhanh chóng bỏ đạo và rút lui, do đó họ không thể nào kết quả được.

Người thứ ba không bị bất cứ điều gì, dưới mặt đất hoặc trong cuộc sống ngăn trở họ, chẳng hạn như sự nhận biết của tâm trí hoặc sự phó thác của ý chí họ, song họ bị đánh bại bởi những tác động trên mặt đất hoặc ở bên ngoài cuộc sống họ, chẳng hạn như sự gian dối trong việc làm giàu cùng với nhiều thú vui trần tục khác. Họ cũng có thể bị đánh bại bởi “chăm vào những việc thế gian”, hoặc lo lắng về của cải là điều họ hiện có hoặc chưa có. Trong ẩn dụ nầy, trở lực là cỏ dại làm nghẹt ngòi cây trồng là Lời Chúa sẽ mọc lên trên đất là đời sống họ. Loại người thứ ba nầy cũng là người không đơm hoa kết quả.Chúng ta có thể nói người thứ nhất đang đội một “cái nón cứng” thuộc linh. Người thứ hai là kẻ cứng lòng, và người thứ ba đang bị rối trí bởi những sự chọn lựa khó khăn.

Loại đất thứ tư mô tả cách Chúa Jêsus muốn tất cả chúng ta đáp ứng khi nghe Lời Đức Chúa Trời. Chẳng có thứ gì ở dưới và ở trên mặt đất có thể ngăn cản quá trình tăng trưởng và ra trái đang diễn ra. Hình ảnh nầy minh họa cho mẫu người xác định rằng không có điều gì trong đời sống họ, chẳng hạn như sự hiểu biết, nhận thức hay sự cứng lòng khiến cho họ không kết trái được. Họ cũng xác định rằng không gì trong thế gian nầy, chẳng hạn như những tác động bên ngoài cuộc sống, sẽ ngăn trở không cho họ làm trọn mục đích của Đức Chúa Trời trong việc ban Lời Đức Chúa Trời cho họ.

Như Luca mô tả về người nầy “Là kẻ lấy lòng thật thà tử tế nghe đạo, gìn giữ, và kết quả một cách bền lòng” (Luca 8:15). Luca cũng mô tả điều cốt lõi của ẩn dụ sâu sắc nầy bằngcâu: “Vậy, hãy coi chừng về cách các ngươi nghe Lời Chúa” (Luca 8:18).

Lẽ thật của ẩn dụ có ý nghĩa sâu sắc nầy rất rõ ràng cho những ai dạy dỗ hoặc rao giảng Lời Chúa. Khi Lời Chúa được dạy dỗ hoặc rao giảng, sẽ luôn có bốn loại người nầy ở đó, và nhờ sự nhận biết sáng suốt mà diễn giả hoặc giáo sư dạy lời Chúa có thể chỉ từng loại người trong số họ ra cho bạn thấy.

Tất cả những ai nghe và dạy Kinh thánh đều suy nghĩ nhiều về ẩn dụ nầy khi họ nghe hoặc giảng dạy Lời Đức Chúa Trời. Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào loại đất của chính mình.Hạt giống của Chúa đang tìm kiếm loại đất nào trong lòng chúng ta? Chúng ta có để cho Lời Chúa kết trái không? Chúng ta có sinh ra lắm trái (100%) hay là chúng ta chỉ ra một ít trái mà thôi (30%)? Thứ hai, những người giảng dạy cần phải nhạy bén nhận thức được một thực tế khó khăn, đó là sự dạy dỗ và giảng dạy Lời Chúa sẽ không kết quả, trừ khi những người được dạy dỗ hiểu được ý nghĩa của Lời họ đang nghe.

Chúng ta sẽ nhận thấy rõ hơn rằng sự dạy dỗ và rao giảng của chúng ta sẽ không kết quả, trừ khi tấm lòng của những người mà chúng ta đang dạy được thấm nhuần. Vì thế, chúng ta
phải dạy thật đơn giản để họ có thể hiểu được. Chúng ta cũng phải cầu nguyện để sự dạy dỗ hoặc rao giảng của chúng ta được Đức Thánh Linh dùng để tác động sâu vào ý chí của những người nghe lời giảng và dạy của chúng ta.

Ở đây, chúng ta không bị ẩn dụ quan trọng nầy thách thức để sản sinh ra “Những chuyên gia Kinh thánh” là những người rất hiểu Kinh thánh mà là để tạo ra những môn đồ trung tínvới Chúa, những người thực hiện lời của Ngài là Lời đã thấm nhuần vào trong tâm trí và ý chí của họ. Vì thế, chúng ta phải nghe, dạy dỗ và rao giảng Lời Chúa thật rõ ràng, phải cầu nguyện xin Đức Thánh Linh mở mắt thuộc linh cho người nghe để họ có thể hiểu được và làm theo Lời Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta và những người nghe có được món quà đức tin cùng “ý muốn làm theo” Lời Chúa, để Lời Ngài được kết quả (Giăng 7:17; Philíp 2:13).

Chúng ta cũng phải nài xin Chúa ban năng lực cho chúng ta và những người nghe chúng ta, để vượt qua mọi quyền lực trong đời nầy,là những kẻ thường dùng quyền lực để làm mọi điều hầu chứng tỏ rằng sự nghe, dạy dỗ và rao giảng Lời Chúa không đem lại kết quả gì. Chỉ Đức Chúa Trời mới có thể làm được những việc nầy. Đó là lý do tại sao khi chúng ta học hỏi, dạy dỗ, hoặc rao truyền Lời Chúa thì phải chuyên lo “cầu nguyện và chức vụ giảng đạo” là hai việc luôn phải đi đôi với nhau (Công
vụ 6:4).

Ẩn Dụ Về Lúa Mì Và Cỏ Lùng (Mathiơ 13:24-30; 36-42)

Ẩn dụ khá sâu sắc nầy cùng với sự giải thích ý nghĩa của nó là một sự dạy dỗ rất quan trọng của Chúa Jêsus, vì nó là câu trả lời của Ngài cho câu hỏi thường làm đau đầu các nhà thần học và triết học, từ bấy lâu nay, nó được xem là kiến thức thuộc thần học và triết học. Câu hỏi đó là “Ma quỷ từ đâu đến?” Hoặc nói cách khác là: “Chúng ta giải thích thế nào về sự có mặt của ma quỷ trong thế giới được tạo dựng và bảo tồn bởi một Đức Chúa Trời có quyền năng tuyệt đối và đầy lòng yêu thương?”

Câu trả lời mang tính ẩn dụ của Chúa Jêsus là: “Đương khi người ta ngủ thì một số kẻ thù của Ta đã làm điều nầy”. Nguồn gốc của ma quỷ được quy cho là “một số kẻ thù của Ta”,và cũng được gán cho sự cẩu thả của loài người. Sự giải thích nầy của Chúa Jêsus có lẽ đã truyền cảm hứng cho người viết câu nầy: “Dù là người tốt mà không làm gì cả thì ma quỷ
cũng sẽ đánh bại họ và đó là điều hiển nhiên”.

Trong ẩn dụ nầy, “hạt giống” không phải là Lời Đức Chúa Trời rơi trên đất trồng là đời sống của con người, nhưng là con cái của nước Trời, được gieo trồng trong đất của thế gian.Chúng ta có thể không hiểu, nhưng ở phần trên chúng ta đã chấp nhận một sự thực là có ma quỷ, cho nên sự thách thức bây giờ sẽ là: Chúng ta sẽ làm gì với vấn đề nầy? Theo Chúa Jêsus: “Ruộng là thế gian”, và điều nầy khiến chúng ta nghĩ đến gánh nặng mà Ngài thường nhấn mạnh. Ngài thách thức các môn đồ hãy cầu xin Đức Chúa Trời mau sai thợ gặt vào ruộng nầy bởi vì: “Mùa gặt thì trúng, nhưng con gặt thì ít” (Mathiơ 9:37-38).

John Wesley đã hiểu được và ông chia sẻ viễn cảnh nầy của Đấng Christ khi tuyên bố: “Thế gian là giáo khu của tôi!” Chúng ta đừng bao giờ đánh mất cái nhìn: “ruộng là thế gian”, và chúng ta không chỉ nhìn ở một góc nhỏ của ruộng đó mà thôi. Chúng ta hãy luôn có cái nhìn về thế gian khi chúng ta chấp nhận thách thức rằng điều thiện và điều ác đều cùng tồn tại trong trần thế nầy.

Ẩn Dụ Về Hạt Cải Và Men (Mathiơ 13: 31-33)

Đây là hai ẩn dụ ngắn ngủi đã được ứng nghiệm xuyên suốt lịch sử Hội thánh. Những ẩn dụ rất ngắn nầy dạy rằng vương quốc mà Chúa Jêsus thường nói đến sẽ bắt đầu hình thành từ việc nhỏ giống như hạt cải bé tí kia, dần dần sẽ trở thành cây lớn; và như men làm bánh được trộn vào bột nhào, khi bánh đang được làm thì men ngấm vào và lan khắp cả ổ bánh khiến cho bánh nở to ra.Tuy nhiên, trong hai ẩn dụ trên, Chúa Jêsus đã nói tiên tri rằng, vương quốc nầy sẽ phát triển cách lạ lùng, tương tự như sự tăng trưởng của hạt cải và nó sẽ có ảnh hưởng và gây tác động đáng kinh ngạc y như cách của men tác động lên bột vậy. Hai ngàn năm sau, phần lớn thế giới nầy đều công nhận niên đại lịch sử trước và sau cuộc đời của Con Người mà người ta gọi là Chúa Jêsus.

Nguyên lý phát triển của men và hạt cải ngày nay vẫn còn hiệu quả y như vậy. Khi chúng ta xem xét sự phát triển của Hội thánh, ngay cả trong những nơi bị bắt bớ, chúng ta vẫn thấy hai ẩn dụ ngắn ngủi nầy được ứng nghiệm .Tương tự như ẩn dụ về Người Gieo Giống, cũng có chim chóc, nhưng ở đây chim chóc bay đến làm tổ trên nhánh cây, là một biểu tượng tiêu cực vẽ lên hình ảnh một đoàn dân đông, đủ mọi thành phần gồm cả những người không thuộc về vương quốc nhưng mạo nhận mình là thành viên của vương quốc. Theo tôi, ý chính của sự dạy dỗ nầy muốn nói đến sự phát triển và sự chiến thắng cuối cùng của nước Trời cùng với ảnh hưởng của các con trai, con gái vương quốc.

Mặc dù men thường được dùng ở một số chỗ trong Kinh thánh đểchỉ về ma quỷ, nhưng trong ẩn dụ nầy thì nó không phải biểu hiện cho ma quỷ mà là biểu hiện cho sự tác động của Vương quốc Đức Chúa Trời trên thế gian. Nếu như men được dùng ở đây để chỉ về ma quỷ thì ẩn dụ nầy đang dạy về sự suy đồi của vương quốc là điều không tương thích với sự nhấn mạnh của Kinh thánh về việc cuối cùng điều thiện sẽ thắng điều ác. Đức Chúa Trời sẽ thắng Satan, và Đấng Christ sẽ đắc thắng lên làm Vua của muôn vua, Chúa của muôn chúa. Ẩn Dụ Về Của Báu Và Châu Ngọc (Mathiơ 13: 31-33)

Hai ẩn dụ ngắn nầy rõ ràng có cùng nội dung, là bức tranh đẹp đẽ nói về sự vui mừng hết lòng đối với Vua và vương quốc của Ngài. Các ẩn dụ muốn nói với chúng ta thế nầy: “Nếu Chúa Jêsus Christ là tất cả đối với bạn thì Ngài là tất cả cho bạn. Bởi vì Ngài sẽ không là gì đối với bạn cho đến khi Ngài là tất cả đối với bạn”. Chúng ta chưa thực sự nhìn thấy vương
quốc mà Chúa Jêsus đang giảng giải cho đến khi chúng ta thấy được nó là thứ vĩ đại nhất mà chúng ta chưa từng thấy bao giờ. Nước thiên đàng đáng để chúng ta vui mừng đón nhận.

Hai ẩn dụ nầy dạy rằng quả thật chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được hoặc hết lòng ngưỡng mộ nước Trời cho đến chừng nào chúng ta vui mừng, sẵn lòng bán đi tất cả mọi thứ chúng ta có và khi từ bỏ mọi sự thì chúng ta sẽ được Vua là Đấng dẫn chúng ta đến với vương quốc Ngài.

Ẩn Dụ Về Sự Tha Thứ (Mathiơ 18: 15-35)

Tình huống của ẩn dụ có ý nghĩa rất thâm sâu nầy là sự giáo huấn về việc tha thứ cho anh em chúng ta. Phierơ hỏi Chúa là ông phải tha thứ cho anh em mình bao nhiêu lần khi anh em phạm lỗi với ông. Theo luật truyền thống thời ấy thì bạn phải tha thứ cho anh em bạn bảy lần, và có lẽ vì vậy mà Phierơ đã đề cập đến con số bảy. Chúa Jêsus dạy rằng sự tha thứ cho anh em là vô hạn. Ý nghĩa thật sự của câu “không phải chỉ tha thứ bảy lần, mà là bảy mươi lần bảy” có nghĩa là số lần tha thứ mỗi ngày không xác định được, tức là rất nhiều. Và cơ sở hợp lý cho lập trường nầy đã được ẩn dụ tiếp theo minh họa.

Một món nợ rất lớn được tha nói lên sự tha thứ tất cả tội lỗi khi chúng ta kinh nghiệm sự cứu rỗi. Sự cứu rỗi của chúng ta liên quan đến việc xóa bỏ tất cả “các món nợ” của chúng ta,hoặc liên quan đến việc tha thứ mọi tội lỗi mà chúng ta đã vi phạm.

Ẩn dụ nầy có ảnh hưởng rất nhiều đến Bài Cầu Nguyện của Các Môn Đồ. Chúa Jêsus dạy chúng ta hãy cầu xin Chúa tha nợ cho chúng ta như chúng ta tha kẻ mắc nợ chúng ta. Ngài
tiếp tục chỉ dạy với những lời đáng sợ là nếu chúng ta không tha thứ cho kẻ vi phạm cùng chúng ta, thì Cha chúng ta cũng sẽ không tha thứ cho sự vi phạm của chúng ta.

Ẩn dụ nầy kết luận bằng những lời tương tự. Phúc âm cứu rỗi được rao ra rằng: “Khi Chúa Jêsus chết trên thập tự giá, Ngài đã trả xong món nợ mà Ngài không hề mắc, bởi vì chúng ta đã mắc món nợ mà chúng ta không thể trả nổi”. Chúng ta không được tha thứ vì cớ chúng ta không chịu tha thứ. Chúng ta hãy chứng minh rằng mình đã được tha thứ qua việc chúng ta tha thứ cho mọi người. Chúng ta phải tha thứ cho người khác vì ngay cả Đức Chúa Trời cũng đã vì cớ Đấng Christ mà tha thứ cho chúng ta (Êphêsô 4:32; Côlôse 3:12-13).

Ẩn Dụ Về Kết Quả Công Việc (Mathiơ 21: 23, 28-31)

Đây là một trong những ẩn dụ hấp dẫn nhất của Chúa Jêsus. Khi Đức Chúa Trời trở thành người và bước vào thế gian, và thế gian thường đánh giá rất cao về giá trị bề ngoài, thì Ngài đã trở nên một người không có giá trị bề ngoài nào cả, mà chỉ có những việc Ngài làm mà thôi. Một trong những điều khác biệt giữa Chúa Jêsus và người Pharisi là Ngài đánh giá cao sự thi hành công việc và đánh giá thấp lời nói suông. Còn người Pharisi thì bài bác cách đánh giá đó. Sự bất đồng quan điểm như vậy chính là trọng tâm của ẩn dụ ngắn ngủi nầy.

Hai con trai trong ẩn dụ cùng nhận lãnh công việc như nhau, thế nhưng họ đã thực hiện khác nhau. Cho nên lời tuyên bố của họ là vô nghĩa, song hành động của họ mới là kết quả cuối cùng. Rõ ràng đây là ứng dụng cho những nhà lãnh đạo tôn giáo thấy rằng Chúa Jêsus và Giăng Báptít đều không hề có thành tích theo hình thức tôn giáo như thế gian đã thấy trong thời ấy. Theo cách nói của họ thì họ không thừa nhận chính mình là con cái Đức Chúa Trời đang làm việc trong vườn nho của Ngài. Còn theo cách thực hiện của họ thì rõ ràng cho
thấy cả Chúa Jêsus và Giăng Báptít đều ở trong vườn nho và đang làm công việc của Cha.Mặc khác, các nhà lãnh đạo tôn giáo nói một đàng, làm một nẻo, chỉ lý thuyết suông mà không thực hành. Qua tất cả những trang phục là áo choàng ngoài, lễ phục và các phù hiệu
biểu hiện địa vị xã hội mà họ đang mặc, đang đeo trên người, họ muốn chứng tỏ rằng họ là con cái Đức Chúa Trời đang làm việc trong vườn nho của Ngài. Tuy nhiên căn cứ trên sự thi
hành công việc của họ, thì rõ ràng họ không hề có mặt trong vườn nho của Cha và cũng không làm việc cho Ngài.

Khi người ta chất vấn Chúa Jêsus về kết quả công việc của Ngài, thì điều nầy chính là câu trả lời thật thâm thúy. Sự thực hiện của Ngài là kết quả trong công việc. Và chúng ta đang lừa dối chính mình cho đến chừng nào chúng ta hoàn toàn nhận ra được rằng không phải chỉ nói suông, mà chính sự thực hành mới là kết quả thực sự. Ngày nay trên thế giới có khoảng hai triệu mục sư, thì có chưa tới một trăm ngàn người có bằng cao đẳng. Điều đó có nghĩa là phần lớn các mục sư trên thế giới hiện nay cần phải nghe ẩn dụ nầy của Chúa Jêsus. Tiếp theo sau đây là phần giảng giải nội dung ý nghĩa uyên thâm của ẩn dụ.

Một Đời Sống Giản Dị

“Được sinh ra tại một ngôi làng hẻo lánh xa xôi, Ngài là đứa trẻ, con của một phụ nữ miền quê. Ngài làm việc trong một xưởng mộc cho đến năm tròn 30 tuổi. Ba năm tiếp theo sau đó Ngài đi khắp các miền đất nước, gặp gỡ, lắng nghe và giúp đỡ nhiều người bất cứ ở đâu mà Ngài có thể.
Ngài chưa hề viết cuốn sách nào, cũng không có một cuốn sổ ghi chép. Ngài chưa từng đi đến trường, cũng chưa từng ứng cử vào một chức vụ nào trong bộ máy chính quyền. Ngài không có gia đình, lại chẳng sở hữu nhà cửa gì. Ngài chẳng có gì hết, ngay cả những thứ thường đi kèm với người có địa vị cao trọng. Ngài không có gì ngoài bản thân Ngài.Khi Ngài vừa đến tuổi 33, xu hướng dư luận chung quay sang chống nghịch Ngài, và bạn bè Ngài đã chối bỏ Ngài. Khi Ngài bị bắt, chỉ có rất ít người muốn làm điều gì đó cho Ngài.Sau một phiên tòa xét xử bất công, Ngài bị chính quyền kết án chung với những kẻ phạm tội trộm cướp. Chỉ duy nhất có một người bạn hào phóng đã tự nguyện dâng cho Ngài phần mộ của chính mình làm nơi chôn cất Ngài.

Tất cả mọi điều nầy đã xảy ra cách đây hơn hai mươi thế kỷ, và cho đến nay, Ngài vẫn là nhân vật dẫn đầu loài người về tấm gương của tình yêu tuyệt đối. Giờ đây, thật không cường điệu chút nào khi nói rằng mọi kẻ thù đã từng hành quân, mọi lực lượng hải quân đã từng dong buồm lên, các nhà cầm quyền từng thống trị và mọi vua chúa từng cai trị trong đời nầy, tất cả dù có hợp sức lại cũng chẳng làm gì được cuộc đời của một con người trên đất giống như Cuộc Đời Giản Dị nầy” (Fred Bock).

Ẩn Dụ Về Chúa Nhật Khải Hoàn (Mathiơ 21:33-46)

Ngày nay có hàng triệu người biết chuyện Chúa Jêsus đã từng cỡi một con lừa vào thành Giêrusalem trong Chúa Nhật Lễ Lá đầu tiên. Bạn đọc thấy Chúa Jêsus làm gì sau khi Ngài xuống lừa? Ngài đã tạo ra một bối cảnh cho ẩn dụ đầy quyền năng và đáng sợ nầy bằng sự quở trách cây vả và dẹp sạch Đền thờ. Ẩn dụ nầy đưa cuộc đối thoại giữa Chúa Jêsus và các nhà lãnh đạo tôn giáo lên đến đỉnh cao của sự đối địch.

Nội dung của ẩn dụ là bức tranh Chúa sai các tiên tri (những đầy tớ) của Ngài đến đặng thâu hoa lợi của vương quốc. Khi các đầy tớ bị đối xử nhục nhã thì con trai của chủ vườn nho được sai đến để thâu hoa lợi. Chủ vườn tin rằng những người làm thuê trong vườn sẽ kính trọng con mình, thế nhưng, chúng chẳng những không nể nang mà còn hè nhau giết chết người con của chủ! Dĩ nhiên, Chúa Jêsus chính là Người Con trong ẩn dụ nầy, và lúc bấy giờ các nhà lãnh đạo thuộc linh kia cũng đang lập mưu giết Ngài.

Có một số lời rất khó nghe mà Chúa Jêsus đã phán trong phần kết luận của chương Kinh thánh nầy, Ngài dùng ẩn dụ đáng sợ để ứng dụng cho những nhà lãnh đạo Do Thái giáo. Ngài sử dụng phép ẩn dụ để tố cáo thói quen hình thức mà họ đưa vào tôn giáo, và bởi vì họ không chịu nộp lại hoa lợi của nước Đức Chúa Trời,cho nên nước Ngài sẽ bị cất khỏi tay họ và được ban cho một dân khác là dân sẽ nộp lại cho Chúa hoa lợi của nước Ngài.

Chúng ta thấy điều đó đã xảy ra theo đúng nghĩa đen trong sách Công Vụ Các Sứ Đồ khi những người được chọn của Đức Chúa Trời trở thành Hội thánh (Công vụ 10-11). Ẩn ý trong phúng dụ nầy dạy là khi dân sự Chúa trượt ngã trên Vầng Đá giao ước là Đấng Christ, thì họ sẽ bị giập nát, bởi ý muốn và công việc của Ngài, cuối cùng Vầng Đá ấy sẽ rơi trên họ và
nghiền nát họ ra thành tro bụi.

Trong Kinh thánh, cây vả là biểu tượng của dân Ysơraên. Khi chúng ta liên hệ phép ẩn dụ ở cuối chương nầy với việc Chúa quở trách cây vả, chúng ta sẽ nhận thấy là Chúa Jêsus phán bảo với các nhà lãnh đạo tôn giáo của Ysơraên rằng Đức Chúa Trời là Cha của Ngài đang làm những điều như thế qua Ngài như đã từng làm với dân Hêbơrơ trong đồng vắng.

Chương thứ mười bốn với những con số đáng sợ có liên hệ với ẩn dụ mang tính chất cảnh tỉnh nầy. Đức Chúa Trời đã kiên nhẫn mười lần tự chứng minh chính Ngài cho con cái Ysơraên trong đồng vắng qua các phép lạ. Vào thời điểm đó, Ngài tuyên bố họ sẽ bị hư mất trong đồng vắng vì cớ không tin Ngài, không dám tiến chiếm xứ Canaan và khẳng định đó là Miền Đất Hứa.

Chúa Jêsus đã “thiêu đốt” các nhà lãnh đạo Do Thái giáo khi Ngài cất nước Trời khỏi họ vào Chúa Nhật Khải Hoàn ấy. Xuyên suốt lịch sử Hội thánh thì Chúa Nhật Khải Hoàn nầy đã được ứng nghiệm nhiều lần. Đức Chúa Trời dường như đã “dời cơ quan đầu não” của Ngài khỏi Hội thánh tại một số nơi trên thế giới, là những nơi không chịu thâu nộp lại hoa lợi của Vương quốc Ngài để ban vương quốc ấy cho những nơi đang đơm hoa kết trái.

Phương Pháp Tiếp Cận Các Ẩn Dụ Của Chúa Jêsus

Trong ba sách Phúc âm Cộng quan có tất cả 47 ẩn dụ. Ở đây tôi chỉ chọn một vài thí dụ tiêu biểu để giới thiệu với bạn về chiều kích quan trọng trong sự dạy dỗ của Chúa Jêsus ở Phúc âm Mathiơ. Tôi khích lệ bạn hãy thực hiện một bài nghiên cứu thật sâu về các ẩn dụ của Chúa Jêsus. Khi bạn tiến hành, tôi muốn tặng bạn một số ý tưởng về phương pháp tiếp cận các ẩn dụ của Chúa Jêsus như sau:

Hãy nhớ rằng ẩn dụ là câu chuyện được người giảng dạy đem quăng nó bên cạnh lẽ thật nào đó mà họ muốn dạy dỗ. Chúa Jêsus quả thật là một Bậc Thầy của phương pháp tiếp cận nầy qua sự dạy dỗ đó. Chúng ta nên tìm ra lẽ thật chính trong từng ẩn dụ mà Chúa Jêsus đã dạy bởi vì các ẩn dụ của Ngài thường được Ngài đem ném bên cạnh một lẽ thật nào đó quan trọng nhất.

Tìm hiểu bối cảnh của từng ẩn dụ là việc hết sức cần thiết, giúp chúng ta trong quá trình nổ lực lý giải nội dung ý nghĩa các ẩn dụ của Chúa Jêsus. Do đó, khi bạn nghiên cứu các ẩn dụ của Ngài, bạn phải luôn tự hỏi mình những câu hỏi sau đây: “Ẩn dụ nầy được Chúa nêu lên trong bối cảnh nào? Ở đâu? Khi nào? Và nó ám chỉ ai? Theo bạn thì Chúa Jêsus muốn dùng ẩn dụ nầy để dạy dỗ về vấn đề gì? Lẽ thật quan trọng nhất nằm song song bên cạnh ẩn dụ trong câu chuyện của Chúa Jêsus là lẽ thật gì? Nếu Ngài đưa ra lời giải thích cắt nghĩa cho ẩn dụ đó, thì bạn hãy tiếp thu lời giải thích ấy. Còn nếu không có sự cắt nghĩa của Ngài thì bạn cứ khiêm nhường hiểu theo cách hiểu của bạn. Một ẩn dụ chỉ có một cách giải thích đúng nhưng có nhiều ứng dụng. Vì vậy nên bạn cần phải luôn đặt câu hỏi như thế nầy: “Chúa muốn ứng dụng điều gì trên đời sống, trên gia đình và trên Hội thánh của tôi như thế nào?”

Chương 10: NHỮNG SỰ DẠY DỖ QUÝ BÁU CỦA CHÚA JÊSUS TRONG SÁCH MATHIƠ

Lời Mời Gọi Vĩ Đại Khác

“Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của Ta, và học theo Ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng” (Mathiơ 11:28:30).

Như chúng ta đã thấy ở phần kết luận bài giảng vĩ đại nhất của Chúa Jêsus, Ngài thường chuyển sự dạy dỗ của Ngài thành sự phán quyết nào đó bằng cách đưa ra lời mời gọi. Đây là một trong số những lời mời gọi vĩ đại nhất của Ngài, lời mời dành cho tất cả những ai đang mang gánh nặng bằng chính sức riêng của mình.

Những gánh nặng ấy sẽ trở nên nặng hơn và khiến cho họ đuối sức. Lời mời của Chúa là hãy mau đến với Đấng Christ, trao cho Ngài gánh nặng ấy, tìm cho mình sự yên nghỉ của tâm hồn thì họ sẽ thấy cuộc sống mình dễ chịu và gánh nặng được nhẹ nhàng.Lần đầu nghe có vẻ như là chúng ta chỉ cần đơn giản chạy đến với Chúa và Ngài ban sự yên nghỉ thay cho gánh nặng của chúng ta. Tuy nhiên, khi chúng ta xem xét lời mời nầy kỹ lưỡng hơn, chúng ta sẽ thấy Ngài đang mời chúng ta đến và học hỏi. Chúng ta được mời đến để học biết về gánh nặng, về tấm lòng và về ách của Ngài.Không ai từng mang gánh nặng hơn là gánh nặng mà Chúa Jêsus đã mang trên đất nầy.Vậy mà tôi lại nghe Ngài nói: “Gánh của Ta nhẹ nhàng”. Nếu chúng ta muốn tìm kiếm sự yên nghỉ cho linh hồn và để gánh nặng của mình được nhẹ nhàng, thì Chúa dạy chúng ta rằng phước cho người nhu mì, Ngài mời gọi chúng ta hãy học hỏi về tấm lòng nhu mì khiêm nhường, hạ mình của Ngài.

Sau đó Ngài mời chúng ta đến để học biết về ách của Ngài. Chúng ta được mời đến tiếp nhận những nguyên tắc thuộc linh của Chúa Jêsus Christ, và cùng mang ách với Đấng Christ
như các đồ đệ của Ngài vậy. Chìa khóa giúp chúng ta hiểu biết lời mời nầy là hãy xem xét ý nghĩa Chúa muốn nói đến khi Ngài mời chúng ta nhận lấy “ách” của Ngài trên đời sống chúng ta. Ách không phải là gánh nặng nhưng nó là công cụ để có thể giúp ta cởi bỏ gánh nặng. Hãy thử hình dung ra một chiếc xe bò chở đầy hàng hóa. Sau đó hãy tưởng tượng rằng bạn
muốn tháo con bò ra khỏi xe. Lúc ấy bạn có thể nhận thấy được mục đích của cái ách. Bất cứ một con bò nào cũng không đủ trí thông minh và biết tuân theo nguyên tắc kéo xe, nhưng nó có thể được mang ách để kéo chiếc xe ấy. Ách là một công cụ có thể khiến cho con bò làm được những điều không thể và giúp nó di chuyển được cả chiếc xe bò.

Cũng một thể ấy, sự dạy dỗ và các nguyên tắc thuộc linh khác của Chúa Jêsus chính là “cái ách” có thể làm cho chúng ta cởi bỏ được những gánh nặng trong cuộc sống. Đó là điều Chúa muốn nói khi Ngài phán hứa với chúng ta rằng sự chấp nhận ách của Ngài sẽ khiến đời sống chúng ta dễ chịu, các gánh nặng của chúng ta sẽ trở nên nhẹ nhàng bởi vì chúng ta được cùng mang ách chung với Ngài.

Lời mời vĩ đại nầy là hãy đến với Đấng Christ. Ngài không mời chúng ta đến nhà thờ, cũng không mời đến với bài học Kinh thánh, hay là đến với những nhà tài trợ tài chánh, các buổi hội họp, hoặc đến với một trong số rất nhiều những chức vụ trong Hội thánh, là tất cả những điều được cho là sẽ đưa chúng ta đến với Đấng Christ. Lời mời ở đây chính xác là hãy
đến với Chúa. Ngài đang mời chúng ta đến để thiết lập mối tương giao với Ngài. Ngài cũng mời chúng ta đến để đối mặt với cuộc sống như Ngài đã đối mặt. Nếu chúng ta nhìn thấy được cuộc sống qua các giá trị và nguyên tắc thuộc linh của Ngài thì chúng ta sẽ có lời hứa của Chúa rằng chúng ta sẽ tìm được sự yên nghỉ cho linh hồn mình, sẽ được giảm nhẹ gánh nặng và cuộc sống không còn phải lao khổ cố sức nữa nhưng được trở nên dễ chịu bởi vì chúng ta đã được mang ách trong mối tương giao với Chúa.

Nước Thiên Đàng Trở Thành Hội thánh (Mathiơ 16:13-23)

Đây là sứ điệp rất quan trọng trong các sách Phúc âm, bởi vì đó là lần đầu Chúa Jêsus đề cập đến từ “Hội thánh”. Ngài và Giăng Báptít đã bắt đầu thi hành chức vụ bằng việc rao giảng Tin lành về Nước Đức Chúa Trời. Khi ở trên núi và trong các ẩn dụ của Ngài, Ngài đã công bố Phúc âm của nước thiên đàng, tức là Nước Trời. Trong trường hợp nầy, Chúa tuyên
bố rằng Ngài sắp sửa xây dựng Hội thánh Ngài và các cửa địa ngục không cách gì có thể cản trở được Ngài tiến hành việc ấy. Ngài cũng cho biết Ngài sẽ xây dựng Hội thánh Ngài trên sứ đồ Phierơ.

Bối cảnh của lời rao báo nầy là khi Chúa Jêsus hỏi các sứ đồ: “Vậy các ngươi nói Ta là ai?” Phierơ đáp: “Ngài là Đấng Christ!” Sự xưng nhận nầy của Phierơ rất quan trọng. Và sự đáp lại của Chúa Jêsus qua sự xưng nhận của Phierơ thậm chí còn quan trọng hơn. Để diễn giải và tóm tắt sự đáp lại đó của Chúa, chúng ta có thể nghe như thể Chúa Jêsus nói thế nầy:“Hỡi Simôn! Không phải tự ngươi nhận ra điều đó đâu! Mà là do chính Cha Ta là Đấng đã bày tỏ cho ngươi biết! Ta sẽ xây Hội thánh Ta trên một phép lạ là một con người như ngươi,Phierơ, có thể nói ra những điều kỳ diệu!– Peter, because the power within and behind My Church will be the Holy Spirit!” Người bình thường sẽ làm được những việc phi thường, vì họ được Đức Thánh Linh ở cùng. Quyền lực của địa ngục sẽ không thể nào đánh bại được Hội thánh ấy, bởi vì quyền năng ở trong và ở phía sau Hội thánh của Ta chính là Đức Thánh Linh!”

Mặc dù đây là một lối nói rất khó hình dung, nhưng chúng ta đừng nên xem đó như là sự mâu thuẩn. Chúa Jêsus đang xây dựng vương quốc hay xây dựng Hội thánh? Không phải Ngài chỉ xây một trong hai, hoặc là Vương quốc hoặc là Hội thánh, mà là Ngài đang xây dựng cả hai. Vương quốc là sự thể hiện ý muốn của Chúa trên đất đã thể hiện trên thiên đàng. Còn Hội thánh cũng sẽ giống như vậy khi thực sự là Hội thánh của Ngài, thực hiện và hoàn tất ý muốn Ngài trong thế gian.

Sứ điệp nầy cũng thật khác thường, vì khi Chúa Jêsus chia sẻ sứ mạng về sự chết của Ngài tại Giêrusalem. Phierơ đã lên tiếng can ngăn Ngài! Ngay lúc ấy Chúa Jêsus liền quay sang Phierơ, người mà mới gần đây thôi, Đức Chúa Trời muốn dùng ông như là ống dẫn để công bố Lời của Ngài, Ngài gọi ông là “Satan!” Chúa Jêsus nói cho ông biết rằng ông ta đang cản đường Chúa, đang ngăn cản ý chỉ Đức Chúa Trời, và thay vì bày tỏ ý muốn Đức Chúa Trời, thì ông lại đi theo ý của Satan!

Cuộc trao đổi đáng ngạc nhiên giữa Chúa Jêsus và Phierơ rõ ràng dạy rằng chúng ta chỉ là những con người bình thường, nhưng qua chúng ta, những điều kỳ diệu có thể được thực hiện bởi Đức Thánh Linh. Cuộc trao đổi sống động nầy còn dạy về sự đối lập đáng sợ! Chúng ta có thể làm một ống dẫn để qua đó ý chỉ của Chúa bị ngăn trở nhưng ý muốn của Satan lại được thực hiện trên đất nầy. Và cả hai khả năng đều có thể xảy ra trên cùng một người về một vấn đề nào đó chỉ trong vòng vài phút!

Chúng Ta Thường Nói Chúa Jêsus Là Ai?

Câu chuyện kể rằng Chúa Jêsus nửa đêm quay lại trước cổng của một trường thần học. Ngài bấm chuông, và khi thấy thầy hiệu trưởng ra mở cổng, Chúa Jêsus hỏi: “Ngươi hãy cho biết Ta là ai?” Vị hiệu trưởng trả lời: “Ngài là cội nguồn có liên quan đến sự tồn tại của chúng tôi. Ngài là sự cứu vớt mà tất cả chúng tôi đã xác định rõ trong các mối tương giao cá nhân!” Chúa nói: “Vậy sao?” Thật vô cùng quan trọng đối với chúng ta khi chúng ta được trả lời câu hỏi mà Chúa Jêsus đã hỏi các sứ đồ. Chúng ta cần phải biết rằng Ngài là Chúa Jêsus, là Christ, Đấng Mêsi, Đấng Cứu Chuộc và cũng chính là Chúa Cứu Thế của thế gian.

Triết Lý Về Sự Lãnh Đạo Của Chúa Jêsus (Mathiơ 23:1-12)

Phân đoạn Kinh thánh nầy trình bày triết lý về sự lãnh đạo mang tính cách mạng của Chúa Jêsus. Sự dạy dỗ nầy rất giống sự dạy dỗ trước đây của Chúa Jêsus, khi Ngài khuyên bảo các môn đồ phải phục vụ lẫn nhau, ngay cả chính Ngài cũng hòa mình phục vụ họ (Mathiơ 20:20-28). Ngài cũng bày tỏ và dạy lẽ thật giống thế nầy khi rửa chân cho các môn đồ tại phòng cao (Giăng 13:1-17), thậm chí Ngài còn bày tỏ một cách đặc biệt hơn trong trường hợp nầy khi Ngài giải thích rõ ràng rằng cơ cấu lãnh đạo của vương quốc Ngài (Hội thánh) phải được xây dựng trên nền tảng là sự phục vụ và sự khiêm nhường.

Nếu chúng ta thực hiện nghiêm túc triết lý về sự lãnh đạo nầy trong Hội thánh ngày nay, thì chúng ta sẽ thấy trong cả thế gian nầy chẳng có tổ chức nào giống như Hội thánh của chúng ta cả. Theo sự dạy dỗ nầy và sự dạy dỗ trong Mathiơ 20, chúng ta thấy Hội thánh Chúa là một cộng đồng thuộc linh độc nhất vô nhị, là tổ chức không có “địa vị cao, thấp” như các tổ chức khác trong trần gian.

Ở đây, Chúa Jêsus đưa ra ba điều cấm cụ thể. Trong khi công bố về triết lý lãnh đạo của Ngài, Ngài dùng hình ảnh các thầy thông giáo và người Pharisi để giúp các sứ đồ nghe ba điều cấm nầy. Các thầy thông giáo và người Pharisi phản bác mọi điều Chúa Jêsus tin và dạy dỗ về triết lý lãnh đạo của Ngài. Họ thích nhấn mạnh “địa vị cao, thấp” và chính họ ở vào “địa vị cao trọng”, còn những người khác thì ở “địa vị thấp hèn”. Họ thích ngồi chỗ cao nhất tại đám tiệc, thích được người ta chào hỏi nơi công cộng và gọi họ là “thầy” (Rabbi), là “giáo sư”, là “Cha”.

Sau khi dùng hình ảnh những nhà lãnh đạo tôn giáo nầy làm thí dụ, Chúa Jêsus mô tả ba điều cấm trong tổ chức cơ cấu lãnh đạo của Hội thánh. Ngài bảo chúng ta đừng để người khác gọi mình là “Thầy”, là “Chủ”– bởi vì chúng ta chỉ có duy nhất một Thầy là Đấng Christ và tất cả chúng ta đều có cùng địa vị giống nhau là anh em! Trong cùng ngữ cảnh nầy, Chúa Jêsus cũng phán dạy chúng ta không được để bất cứ ai gọi chúng ta là “Cha” hoặc “Thầy”. Có một số bản dịch gọi từ “Thầy” là “nhà lãnh đạo”. Cụ thể của sự dạy dỗ nầy cho thấy Cha bạn là Đức Chúa Trời; Giáo Sư hoặc Đấng Lãnh Đạo của bạn là Đấng Christ, còn bạn và hết thảy những người khác có cùng địa vị như nhau đều là anh em!

Chúng ta cần phải áp dụng triết lý lãnh đạo của Chúa Jêsus vào cơ cấu lãnh đạo Hội thánh chúng ta ngày nay như thế nào? Đối với tôi, tôi thấy rất khó mà hiểu “địa vị cao, thấp” được nhấn mạnh trong một số ban ngành của Hội thánh ngày nay. “Địa vị xã hội” ngoài đời thường biểu hiện bằng trang phục và những phù hiệu, biểu tượng của cấp bậc, chức vụ để nói lên rằng người nầy có địa vị tốt hơn, cao hơn, hoặc giá trị hơn người kia, và tình trạng nầy ngày nay rất phổ biến trong một số bộ phận của Hội thánh mang tính tổ chức giống như trong quân đội. Chúa Jêsus dạy rằng cơ cấu tổ chức lãnh đạo của Hội thánh thì không giống như vậy (Mathiơ 23:11-12; Gia 2:1-9).

Bài Giảng Trên Núi Ôlive (Mathiơ 24-25)

Đây là bài giảng của Chúa Jêsus, đề cập đến Sự Tái Lâm của Ngài và sự chung kết của thế giới. Tương tự bài giảng trên Phòng Cao, bài giảng nầy cũng được nhập đề bằng một cuộc đối thoại và có lẽ còn có nhiều cuộc đối thoại nữa trong bài giảng. Ngài và các sứ đồ đang đến thăm Đền thờ Salômôn, các sứ đồ có một vài ý kiến nhận xét về vẻ đẹp uy nghi của Đền thờ. Chúa Jêsus đáp lại lời họ rằng rồi đây khi thì giờ đã điểm, sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá khác trong ngôi Đền thờ vĩ đại đó. Các sứ đồ hỏi Ngài ba câu hỏi: “ Bao giờ thì những điều nầy sẽ xảy ra? Dấu hiệu nào cho biết Ngài sẽ tái lâm? Và có điềm gì báo trước sự tận thế? Khi bạn nghiên cứu bài giảng nầy của Chúa Jêsus, hãy dùng ba câu hỏi nầy của các sứ đồ và những câu trả lời của Ngài cho ba câu hỏi đó, để phát thảo nên những nét đại cương của bài giảng có ý nghĩa sâu sắc nầy cho mình.

Sự Tái Lâm của Đấng Christ không phải chỉ là một biến cố mà là một chuỗi của nhiều biến cố. Như tất cả các lời tiên tri trong Kinh thánh, điều cần nói ở đây là hãy tách rời sự kiện được tiên đoán có liên hệ với một tương lai gần khỏi các sự kiện được dự báo là sẽ xảy ra trong một tương lai xa. Bốn mươi năm sau khi bài giảng nầy được rao giảng, quân La mã đã phá hủy hoàn toàn Đền thờ. Không còn một hòn đá nào nằm trên hòn đá nào. Biến cố gây chấn động lớn đó được phát họa rõ nét trong bài giảng nầy.

“Những điều nầy” trong câu hỏi của các sứ đồ và câu trả lời của Chúa Jêsus đều liên hệ với biến cố đó. “Một người sẽ được đem đi và người kia còn ở lại” ám chỉ sự phấn khích của Hội thánh khi được sứ đồ Phaolô dạy dỗ (ITêsalônica 4:13-17). Nỗi thống khổ cùng cực nầy tương đương với những biến cố trong sách Khải huyền ở những chỗ ghi nhận sự phán xét có
các dấu ấn, loa và những chén đau đớn kinh khiếp theo lời tiên tri xảy đến (Khải huyền 6-19).
Các sứ đồ hỏi về điềm báo trước của ba biến cố nầy. Chúa Jêsus dạy rằng không ai biết được chính xác thời điểm xảy ra, nhưng chúng ta có thể nhìn thấy những dấu hiệu như thời
tiết xấu đến gần, và tiếp theo sẽ xuất hiện các dấu hiệu của sự Chúa đến và tận thế. Một trong số những dấu hiệu đó là: chiến tranh giặc giã và những lời đồn đại về chiến tranh (chúng ta gọi những lời đồn chiến tranh là “chiến tranh lạnh”). Các dân các nước sẽ dấy lên đánh nhau (chúng ta gọi những cuộc xung đột nầy là “chiến tranh thế giới”). Đói kém, động đất, sự bỏ đạo xuất hiện cũng là những dấu hiệu. Do đó chúng ta phải luôn xem xét ba biến cố nầy thật nghiêm túc.

Ngài tiên đoán rằng sự đến của Ngài sẽ rất lạ lùng, giống như tia chớp xẹt ngang bầu trời, và hơn tất cả những dấu hiệu nầy, sự đến của Ngài sẽ xảy ra vào thời điểm mà không ai nghĩ là Ngài sẽ đến. Tuy nhiên, sự thách thức của Ngài là hãy quan sát và đảm bảo rằng khi Ngài đến, Ngài sẽ thấy chúng ta là những đầy tớ ngay lành, trung tín.

Sự ứng dụng bài giảng nầy của Ngài được thể hiện qua ba ẩn dụ trong Mathiơ 25. Ẩn dụ thứ nhất ngụ ý rằng khi Chúa đến Ngài sẽ phán xét từng cái đèn dầu rỗng. Dầu là biểu tượng của Đức Thánh Linh trong Kinh thánh. Những người nữ đồng trinh ngu dại đã không chuẩn bị sẵn dầu trong đèn mình, một bức tranh mô tả hình ảnh những người trong Hội thánh không lo sửa soạn đời sống tâm linh mình khi Chúa trở lại. Thách thức của ẩn dụ thứ nhất là khi Chàng Rể (Chúa Jêsus) tái lâm, những ai cần dự phòng dầu (con cái Chúa) đến lúc đó mới chạy đi kiếm dầu cho đèn mình thì đã quá trễ.

Sự đột phá của ẩn dụ thứ hai là khi Chúa đến Ngài sẽ phán xét từng bàn tay không. Đây là ẩn dụ quen thuộc về talâng. Ngài sẽ hỏi chúng ta câu hỏi mà Đức Chúa Trời đã có lần hỏi Môise: “Trong tay ngươi cầm vật chi?” (Xuất 4: 2). Nhiều câu Kinh thánh khác cho chúng ta biết sẽ có tòa án xét xử của Đấng Christ sau khi Ngài Tái Lâm (ICôrinhtô 3:13-15;IICôrinhtô 5:10). Ẩn dụ nầy dạy rằng chúng ta hãy là những đầy tớ quản trị một cách trung tín những gì Chúa giao thác cho chúng ta.

Ẩn dụ thứ ba áp dụng cho bài giảng nầy bằng sự dạy dỗ rằng khi Chúa tái lâm, Ngài sẽ phán xét từng tấm lòng trống rỗng –là người không quan tâm cưu mang đến những kẻ đói khát, trần truồng, bệnh tật và tù tội mà Chúa Jêsus thường gọi là “anh em của Ta”, những người đang chịu khổ như là điều tất yếu để trở thành môn đồ Chúa, họ đã nếm trải những sự đó trong khi thực hiện sứ mạng trọng đại mà Chúa đã ủy thác cho Hội thánh Ngài.

Chương 11: CƠN KHỦNG HOẢNG CỰC ĐỘ CỦA CHÚA JÊSUS (Mathiơ 26-28)

Khi ba chương nầy ký thuật sự chết và sự sống lại của Chúa Jêsus Christ, chúng nhận được một vài sự dạy dỗ và những hình ảnh làm gương rất quan trọng của Chúa Jêsus. Ngay trong bối cảnh đó, Chúa Jêsus chuyển từ hình thức thờ phượng cơ bản của người Do Thái trong Lễ Vượt Qua sang hình thức thờ phượng nền tảng của Hội thánh được gọi là “Lễ Ban Thánh Thể”, “Bữa Tiệc Của Chúa”, hoặc “Tiệc Thánh”. Cũng chính trong cơn khủng hoảng cực độ của Chúa, chúng ta nghe Ngài cầu nguyện, lời cầu nguyện của Ngài trong Vườn Ghếtsêmanê được gọi là “Lời Cầu Nguyện Của Chúa”.

Sau khi phục sinh, Chúa Jêsus ban cho các sứ đồ và nhiều môn đồ Đại Mạng Lịnh của Ngài. Do đó, khi chúng ta đọc những chương mô tả thời điểm khủng hoảng cực độ của Chúa,chúng ta nhớ xem xét thật kỹ hình thức thờ phượng nền tảng của Hội thánh, lời cầu nguyện mẫu và Đại Mạng Lịnh của Ngài.

Bữa Tiệc Của Chúa (Mathiơ 26:17-35)

Khi người chồng và cũng là người cha trong gia đình phải đi xa một thời gian dài, lâu lâu ông đi chụp ảnh gởi về cho gia đình. Bức hình nầy rất quan trọng đối với gia đình ấy trong lúc họ sống xa nhau. Khi ông trở về nhà, cả gia đình lại cùng nhau sống trong sự yêu thương như trước, và họ không còn cần đến bức ảnh đó nữa.Ở một góc độ nào đó thì câu chuyện nầy có ý nghĩa giống với điều Chúa Jêsus đã làm khi Ngài đặt sự thờ phượng nầy theo hình thức gia đình như vậy. Ngài biết Ngài sắp phải đi xa. Do đó, Ngài đã để lại cho Hội thánh Ngài “bức ảnh” của chính Ngài, và Ngài phán bảo chúng ta: “Trong lúc Ta đi xa, Ta muốn các ngươi luôn nhớ đến Ta bằng cách nhìn vào tấm ảnh nầy”. Khi Ngài trở lại, chúng ta sẽ không còn cần đến bức ảnh ấy nữa, đây là cách mà Ngài đã chọn để chúng ta nhớ đến Ngài.

Khi Chúa Jêsus gặp gỡ các sứ đồ của Ngài tại phòng cao, Ngài biết trong số họ, có một vài người luôn nhớ đến Ngài qua những bức ảnh bằng lời mà họ đã ghi lại, đó là bốn sách Phúc âm. Từ tất cả những việc mà Ngài biết họ sẽ lưu lại để ghi nhớ mãi về Ngài – việc kêu kẻ chết sống lại, chữa lành nhiều tật bịnh, khiến bão tố yên lặng, yêu thương tội nhân, dạy dỗ và lập chức sứ đồ – Ngài ban cho họ những bức ảnh đó của Ngài và bảo: “Hãy làm điều nầy để nhớ Ta! vì khi các ngươi ăn bánh và uống chén nầy thì các ngươi hãy nhớ đến sự chết của Ta đã vì các ngươi cho đến lúc Ta trở lại” (Mathiơ 26:26-29; ICôrinhtô 11:26). Bữa Tiệc của Chúa là “bức ảnh” về chính Ngài mà Ngài đã ban cho Hội thánh, và đây là lời dạy dỗ duy nhất về sự thờ phượng mà Chúa Jêsus đã ban cho Hội thánh Ngài!

Lời Cầu Nguyện Của Chúa (Mathiơ 26:38-39)

Vì Chúa Jêsus chưa bao giờ cầu nguyện giống như lời cầu mà Ngài đã dạy cho các môn đồ, cho nên lời cầu nguyện nầy được gọi là “Lời Cầu Nguyện Của Chúa”, và nó được xem là lời cầu nguyện mẫu cho tất cả chúng ta. Câu chìa khóa của lời cầu nầy là: “Song, không theo ý muốn Con, mà theo ý muốn Cha”. Lẽ thật nầy cũng là trọng tâm trong Lời Cầu Nguyện Của Các Sứ Đồ. Lời Cầu Nguyện của Chúa còn dạy chúng ta rằng đó là lời cầu xin cơ bản về mối liên hệ giữa ý muốn của kẻ tin và ý muốn của Chúa – kinh nghiệm sự hiện diện của Ngài rằng hãy liên kết chúng ta với ý muốn Ngài và những kết quả trong việc chúng ta được kêu gọi theo ý Ngài (Rôma 8:26-28).

Phần đầu lời cầu nguyện nầy của Chúa Jêsus cũng mang tính dạy dỗ và là lời cầu xin mẫu mực: “Cha ơi! Nếu có thể được, xin Cha cất chén nầy khỏi Con!” Là con cái Chúa, chúng ta có quyền cầu nguyện tương tự như vậy. Nếu bạn được cho biết bản thân bạn, hoặc những ai đó mà bạn yêu mến đang có một khối u ác tính trong người, thì bạn hoàn toàn có quyền và có trách nhiệm cầu xin theo cách nầy. Đồng thời, bạn cũng có quyền nài xin sự chữa lành. Tuy nhiên, để cầu nguyện được như Chúa Jêsus đã cầu với lời cầu nguyện mẫu nầy, bạn phải kết thúc lời cầu đó bằng lời như một bản dịch: “Nhưng không phải những gì con muốn, mà là những gì Cha muốn”.

Nhiều người cho rằng khi chúng ta dùng lời: “nếu đó là ý Chúa” để cầu xin sự chữa lành thì chứng tỏ chúng ta thiếu đức tin. Tôi không hiểu được tại sao người ta lại có thể nói như vậy trong khi chính Con của Đức Chúa Trời đã cầu nguyện theo cách đó giữa lúc Ngài trải qua cơn khủng hoảng cực độ. Nếu Ngài không cầu nguyện theo cách liên quan đến thập tự giá thì chắc chắn sẽ không đem đến sự cứu rỗi cho bất kỳ ai trong chúng ta! Tất cả những người được cứu thảy đều mãi biết ơn và đó là kết quả của lời cầu nguyện mẫu của Chúa Jêsus,rằng phải có sự liên kết giữa ý muốn của Đức Chúa Cha và ý muốn của Đức Chúa Con thì mới đem lại kết quả là sự cứu rỗi cho chúng ta vậy!

Sự Chết Của Chúa Jêsus (Mathiơ 27:11-34)

Khi ba sách Phúc âm đầu thực sự mô tả lại sự chết của Chúa Jêsus, chúng đã gợi trí tò mò và lôi cuốn người đọc về những điều chúng không nói đến. Chúng không cho chúng ta biết những chi tiết kinh khủng của sự đóng đinh Chúa trên thập tự giá. Chúng mô tả vụ việc ghê rợn đó chỉ vẻn vẹn qua câu nầy: “Họ đã đóng đinh Ngài!” Nếu chúng ta muốn tìm hiểu thấu đáo ý nghĩa sự chết của Chúa Jêsus thì chúng ta phải xem xét câu mô tả trên theo từng từ vựng một.

“Họ Đã Đóng Đinh Ngài!”

Sự đóng đinh trên thập tự giá là hình thức thi hành án tử hình một cách độc ác tàn khốc, phổ biến công khai của người La Mã. Phải mất từ năm ngày đến một tuần để cho nạn nhân bị
đóng đinh chết hẳn. Công dân La Mã có thể không bị đóng đinh bởi vì hình thức tử hình đó là một sự tra tấn khủng khiếp. Nó được xem là sự trừng phạt phi nhân tính, và vì các nạn nhân bị đóng đinh trần truồng, cho nên nó còn là sự xấu hổ và nhục nhã (Mathiơ 27:35; Philíp 2:8).

Theo cách nói của Kinh thánh, điều quan trọng của việc Chúa chết là nó đã ứng nghiệm lời tiên tri. Những lời tiên tri trong Êsai 52 và trong Thithiên 22 có nói một vài chi tiết về sự chết của Chúa Jêsus Christ, chúng đã được ứng nghiệm khi Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự. Tuy nhiên, theo phân đoạn Kinh thánh được đề cập ở trên, và theo nhiều phân đoạn khác,thì đó là sự khổ nạn thuộc linh và sự đau đớn thể xác lẫn đau thương tâm hồn của Đấng Christ để hoàn thành sự cứu rỗi cho chúng ta. Khi Ngài trở nên khốn khổ vì cớ chúng ta, Ngài đã kêu lên: “Đức Chúa Trời của Con ôi! Đức Chúa Trời của Con ôi! Sao Ngài lìa bỏ Con?” Theo các nhà tiên tri và các sứ đồ, khi sự thống khổ tâm linh diễn ra trong tâm hồn Chúa Cứu Thế, thì sự trừng phạt vốn dành cho chúng ta lại đang được chất trên Ngài. Và như vậy, Ngài đã hoàn thành sự cứu rỗi của chúng ta. Đó là lý do tại sao Ngài kêu lớn tiếng: “Mọi việc đã được trọn!” và “Cha ơi! Con xin giao linh hồn Con vào trong tay Cha!” Khi Ngài chịu khổ nạn xong, Ngài đã ấn chứng cho sự tha tội chúng ta bằng huyết báu của Ngài (Êsai 53;IICôrinhtô 5:21; IPhierơ 2:21-25; Giăng 19:30; Luca 23:46). Đó là ý nghĩa quan trọng của sự kiện người ta đã đóng đinh Ngài.

“Họ Đã Đóng Đinh Ngài!”

Bây giờ chúng ta hãy đến gần ý nghĩa lẽ thật về sự chết của Đấng Christ hơn khi chúng ta chú ý đến từ cuối cùng trong câu trên. Người La Mã đã đóng đinh hàng ngàn hàng vạn người là những kẻ bị treo lên trên cây thập tự rất lâu, và họ đã phải nếm chịu sự đau đớn thể xác cùng cực hơn Chúa Jêsus nhiều. Tuy nhiên, sự chịu đựng đau thương thống thiết của hàng ngàn người đó , thậm chí họ là những người đã chịu chết vì Đấng Christ và vì đức tin họ đặt nơi Ngài, thì họ cũng không thể mở đầu công việc chuộc tội cho nhân loại. Chúng ta hãy chú ý đến một thực tế rằng ở đây không chỉ có mỗi vấn đề là việc chịu đau đớn thể xác của Chúa Jêsus mà thôi là điều có ý nghĩa quan trọng về sự chết của Ngài. Suy cho cùng, đó còn là vấn đề Ai đã chịu đau đớn cùng cực trên thập hình đó để tạo nên cuộc hành quyết Đấng bằng cách đóng đinh Ngài là nền tảng của sự cứu rỗi chúng ta.

Khi Ngài chết trên thập tự giá, nếu Ngài không phải là Con của Đức Chúa Trời lúc đó, thì sự chết của Ngài có lẽ chẳng làm được gì đối với tội lỗi của chúng ta vào 2000 năm sau đó. Ấy chính là ý nghĩa đặc biệt về sự kiện người ta đã đóng đinh Ngài! (Mathiơ 27: 22-23; ICôrinhtô 1:23-2:2).

Họ Đã Đóng Đinh Ngài!

Cuối cùng, nếu chúng ta chú ý đến từ vựng đầu trong câu trên, thì chúng ta sẽ nêu lên một câu hỏi về cơn khủng hoảng cực độc của Đấng Christ. Ai đã giết Đức Chúa Jêsus Christ?Câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi đó thường là người La Mã đã giết Ngài. Tuy nhiên, mặc dù có một tên lính La Mã đã đóng đinh vào bàn tay bàn chân Ngài và đâm ngọn giáo vô hông Ngài, nhưng nếu chúng ta đọc Kinh thánh thật kỹ, chúng ta sẽ thấy chính người Do Thái đã bắt Chúa Jêsus đóng đinh vào thập tự giá (Mathiơ 27:25).

Lời giải đáp theo Kinh thánh cho câu hỏi nầy là Đức Chúa Trời là Đấng đã đóng đinh Con Ngài vì cớ tội lỗi của toàn nhân loại! Chúng ta hãy xem một vài thí dụ nầy: trong Êsai 53 là khúc sách nói tiên tri về Đấng Mêsi vĩ đại, chúng ta đọc: “Đức Giê-hô-va lấy làm vừa ý mà làm tổn thương người, và khiến gặp sự đau đớn “ (Êsai 53:10). Trong Kinh thánh Tân ước cũng có một câu tương tự: “Đưc Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đưùc Chúa Trời “ (IICơrinhtơ 5:21).Chúng ta cần nhớ điều nầy khi chúng ta xem xét sự kiện “Họ đã đóng đinh Ngài!”.

Sự Phục Sinh Của Chúa Jêsus (Mathiơ 28:1-15)

Sự sống lại của Chúa Jêsus Christ có thể được chứng minh bởi sự làm chứng của các sứ đồ và các môn đệ Ngài. Chúng ta không nên có sự ác cảm đối với Phierơ, bởi vì lúc Chúa Jêsus bị bắt, chúng ta đọc thấy : “Khi ấy, heát thảy moân đoà bỏ Ngài mà troán đi “ (Mathiơ 26:56). Lúc Chúa Jêsus đối mặt với cơn khủng hoảng cực độ trong cuộc đời Ngài, Ngài cũng chẳng có lấy một đồ đệ nào bên cạnh cả. Toàn thể hội viên của Hội thánh Chúa lúc ấy chỉ là con số không!

Điều gì đã khiến cho Hội thánh Ngài “hồi tỉnh lại” một cách mạnh mẽ như vậy? Đó chính là vì sự phục sinh của Đấng Christ. Đây phần nào là do Ngài đã nói cho họ biết, và họ cũng nghe Ngài nói cho người khác nghe nữa, rằng Ngài sẽ chứng minh thần tánh của Ngài và làm cho những lời Ngài từng tuyên bố về Ngài trở nên có hiệu lực sau khi Ngài chịu chết, và bằng sự sống lại của Ngài từ kẻ chết. Chúng ta đọc: “Vậy, sau khi Ngài được từ kẻ chết sống lại rồi, môn đồ gẫm Ngài có nói lời đó, thì tin KinhThánh (phần Cựu ước) và lời Đức Chúa Jêsus đã phán ” (Giăng 2:22).

Trong bài giảng vĩ đại của Phierơ về Ngày Lễ Tuần, ông chỉ ra rằng Kinh thánh Cựu ước đã có nói trước về sự phục sinh và sự chết của Chúa Jêsus Christ (Công vụ 2; 30-32; Thi thiên 16). Phierơ cũng chỉ dạy rõ ràng rằng tất cả mọi dấu kỳ phép lạ xảy ra trong Ngày Lễ Ngũ Tuần đều là công việc của Đấng Christ hằng sống đã sống lại (Công vụ 2:33). Chính sự phục sinh của Chúa Jêsus Christ đã chứng minh rằng Ngài chết để đền tội thay cho chúng ta và để ban sự trông cậy đời đời cho Hội thánh Ngài hôm nay (ICôrinhtô 15).

Đại Mạng Lịnh (Mathiơ 28:18-20)

Như tôi đã có một vài lần nhận xét, Chúa Jêsus có chiến lược rao giảng Tin Lành toàn cầu thông qua các sứ đồ và các môn đồ của Ngài. Phần kết thúc của Phúc âm Mathiơ đã ghi nhận điều đó rất rõ ràng. Chúa Jêsus đã lập chức các sứ đồ, hướng dẫn họ và huấn luyện họ. Bây giờ Ngài trao cho họ bài diễn văn trong buổi lễ phát bằng và cho phép họ tốt nghiệp ra trường từ khóa học cơ bản thời hạn ba năm của Ngài khi Ngài chọn và lập họ làm môn đồ cho Ngài vì cớ sự sống của từng người tại mỗi quốc gia trên thế giới nầy.

Đại Mạng Lịnh có chứa đựng một mệnh lệnh được bổ nghĩa bởi ba động tính từ. Mệnh lệnh đó là: “Hãy môn đồ hóa muôn dân”. Các động tính từ của nó là: ra đi, làm phép Báptêm,và dạy dỗ. Rằng: “Khi các ngươi ra đi, làm phép Báptêm cho người ta và dạy dỗ họ thì có nghĩa là các ngươi đã thực hiện việc môn đồ hóa muôn dân vậy” sẽ là sự diễn giải chính xác của Mạng Lịnh nầy. Mục tiêu của chúng ta khi ra đi loan báo Phúc âm cho thế gian biết là không phải để nói với họ như vầy: “Đây là điều chẳng quan trọng gì. Bạn có thể nhận được sự cứu rỗi bằng cách tin, sau đó bạn hãy sống đời sống theo ý mình”. Trọng trách của chúng ta là thực hiện việc môn đồ hóa muôn dân cho Chúa Jêsus Christ.

Tiến sĩ Robert S.Glover, một giáo sĩ lão thành tài ba, có viết rằng: “Đại Mạng Lịnh đó là ‘Hiến Chương của Hội thánh’. Giống như bất kỳ mọi tổ chức nào khác, Hội thánh Chúa cũng phải thực hiện những điều khỏan mà hiến chương quy định, nếu không thì Hội thánh sẽ phải bị ngưng trệ, tê liệt”.

Các học giả cho chúng ta biết bốn sách Phúc âm chứa đến 500 sự dạy dỗ của Chúa Jêsus. Tôi chỉ vừa chia sẻ một vài sự dạy dỗ của Ngài trong bài giới thiệu các sách Phúc âm và Nhìn Chung Về Mathiơ. Khi chúng ta xem xét Đại Mạng Lịnh nầy thật kỹ lưỡng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng việc môn đồ hóa muôn dân bao hàm cả sự dạy dỗ những người đã được môn đồ hóa đó mọi điều mà Chúa Jêsus đã dạy dỗ các môn đồ Ngài.

Khi Hội thánh trở thành phương tiện truyền bá Phúc âm, thì nó không chỉ thực hiện công việc môn đồ hóa muôn dân mà thôi, nhưng nó còn làm công việc dạy dỗ họ nữa. Đó chính là Đại Mạng Lịnh đã khai sinh ra Hội thánh. Đây cũng chính là Mạng Lịnh khiến cho Ngày Lễ Ngũ Tuần trở nên cần thiết, bởi vì mục đích của Lễ Ngũ Tuần là trao quyền hành hợp pháp cho Hội thánh để làm ứng nghiệm những điều khỏan trong hiến chương của Hội thánh. Hội thánh là tổ chức duy nhất trên thế giới tồn tại vì cớ lợi ích của những người không phải là thành viên của Hội.

Trong tập sách kế tiếp, chúng ta sẽ tiếp tục khảo cứu những sách Phúc âm và tôi tin rằng bạn cũng sẽ tiếp tục học hỏi ở những sách tiểu sử tuyệt diệu của Chúa Cứu Thế Jêsus. Để kết luận, tôi muốn hỏi một vài câu hỏi sau: “Bạn có định tìm hiểu về Chúa Jêsus là Chúa Cứu Thế, Đấng Mêsi, và cũng là Đấng Đã Được Hứa Ban hay không? Bạn có tin rằng sự chết của Chúa Jêsus đã làm giá chuộc tội cho bạn hay không? Bạn có quyết định sẽ trở thành môn đồ của Đấng Christ không? Bạn sẽ làm gì với những gì bạn vừa học hỏi?

Lời cầu nguyện của tôi là nguyện Trường Cao Đẳng Thánh Kinh của chúng tôi sẽ tiếp tục giúp đỡ bạn bước theo Lời Chúa và cầu xin Lời Ngài sẽ thấm sâu trong bạn.

Nguồn tài liệu: HỘI HỢP TÁC TRUYỀN GIÁO QUỐC TẾ TRƯỜNG CAO ĐẲNG THÁNH KINH