[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22] [23] [24] [25] [26] [27] [28] [29] [30] [31] [32] [33] [34] [35] [36] [37] [38] [39] [40] [41] [42] [43] [44] [45] [46] [47] [48] [49] [50]
Sáng-thế Ký 1
chọn đoạn khác
1. Ban đầu Ðức Chúa Trời dựng nên trời đất.
2. Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Ðức Chúa
Trời vận hành trên mặt nước.
3. Ðức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng; thì có sự sáng.
4. Ðức Chúa Trời thấy sự sáng là tốt lành, bèn phân sáng ra cùng tối.
5. Ðức Chúa Trời đặt tên sự sáng là ngày; sự tối là đêm. Vậy, có buổi chiều và
buổi mai; ấy là ngày thứ nhứt.
6. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có một khoảng không ở giữa nước đặng phân
rẽ nước cách với nước.
7. Ngài làm nên khoảng không, phân rẽ nước ở dưới khoảng không cách với nước ở
trên khoảng không; thì có như vậy.
8. Ðức Chúa Trời đặt tên khoảng không là trời. Vậy, có buổi chiều và buổi mai;
ấy là ngày thứ nhì.
9. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Những nước ở dưới trời phải tụ lại một nơi, và
phải có chỗ khô cạn bày ra; thì có như vậy.
10. Ðức Chúa Trời đặt tên chỗ khô cạn là đất, còn nơi nước tụ lại là biển. Ðức
Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.
11. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Ðất phải sanh cây cỏ; cỏ kết hột giống, cây
trái kết quả, tùy theo loại mà có hột giống trong mình trên đất; thì có như vậy.
12. Ðất sanh cây cỏ: cỏ kết hột tùy theo loại, cây kết quả có hột trong mình,
tùy theo loại. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.
13. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ ba.
14. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có các vì sáng trong khoảng không trên
trời, đặng phân ra ngày với đêm, và dùng làm dấu để định thì tiết, ngày và năm;
15. lại dùng làm vì sáng trong khoảng không trên trời để soi xuống đất; thì có
như vậy.
16. Ðức Chúa Trời làm nên hai vì sáng lớn; vì lớn hơn để cai trị ban ngày, vì
nhỏ hơn để cai trị ban đêm; Ngài cũng làm các ngôi sao.
17. Ðức Chúa Trời đặt các vì đó trong khoảng không trên trời, đặng soi sáng đất,
18. đặng cai trị ban ngày và ban đêm, đặng phân ra sự sáng với sự tối. Ðức Chúa
Trời thấy điều đó là tốt lành.
19. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ tư.
20. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Nước phải sanh các vật sống cho nhiều, và các
loài chim phải bay trên mặt đất trong khoảng không trên trời.
21. Ðức Chúa Trời dựng nên các loài cá lớn, các vật sống hay động nhờ nước mà
sanh nhiều ra, tùy theo loại, và các loài chim hay bay, tùy theo loại. Ðức Chúa
Trời thấy điều đó là tốt lành.
22. Ðức Chúa Trời ban phước cho các loài đó mà phán rằng: Hãy sanh sản, thêm
nhiều, làm cho đầy dẫy dưới biển; còn các loài chim hãy sanh sản trên đất cho
nhiều.
23. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ năm.
24. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Ðất phải sanh các vật sống tùy theo loại, tức
súc vật, côn trùng, và thú rừng, đều tùy theo loại; thì có như vậy.
25. Ðức Chúa Trời làm nên các loài thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại,
và các côn trùng trên đất tùy theo loại, Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.
26. Ðức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo
tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn
trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất.
27. Ðức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người
giống như hình Ðức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.
28. Ðức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm
nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới
biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất.
29. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Nầy, ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hột
mọc khắp mặt đất, và các loài cây sanh quả có hột giống; ấy sẽ là đồ ăn cho các
ngươi.
30. Còn các loài thú ngoài đồng, các loài chim trên trời, và các động vật khác
trên mặt đất, phàm giống nào có sự sống thì ta ban cho mọi thứ cỏ xanh đặng dùng
làm đồ ăn; thì có như vậy.
31. Ðức Chúa Trời thấy các việc Ngài đã làm thật rất tốt lành. Vậy, có buổi
chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ sáu.
Sáng-thế Ký 2
chọn đoạn khác
1. Ấy vậy, trời đất và muôn vật đã dựng nên xong rồi.
2. Ngày thứ bảy, Ðức Chúa Trời làm xong các công việc Ngài đã làm, và ngày thứ
bảy, Ngài nghỉ các công việc Ngài đã làm.
3. Rồi, Ngài ban phước cho ngày thứ bảy, đặt là ngày thánh; vì trong ngày đó,
Ngài nghỉ các công việc đã dựng nên và đã làm xong rồi.
4. Ấy là gốc tích trời và đất khi đã dựng nên, trong lúc Giê-hô-va Ðức Chúa Trời
dựng nên trời và đất.
5. Vả, lúc đó, chưa có một cây nhỏ nào mọc ngoài đồng, và cũng chưa có một ngọn
cỏ nào mọc ngoài ruộng, vì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chưa có cho mưa xuống trên
đất, và cũng chẳng có một người nào cày cấy đất nữa.
6. Song có hơi nước dưới đất bay lên tưới khắp cùng mặt đất,
7. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào
lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.
8. Ðoạn, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Ê-đen, ở về hướng Ðông,
và đặt người mà Ngài vừa dựng nên ở đó.
9. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời khiến đất mọc lên các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn
ngon; giữa vườn lại có cây sự sống cùng cây biết điều thiện và điều ác.
10. Một con sông từ Ê-đen chảy ra đặng tưới vườn; rồi từ đó chia ra làm bốn ngả.
11. Tên ngả thứ nhứt là Bi-sôn; ngả đó chảy quanh xứ Ha-vi-la, là nơi có vàng.
12. Vàng xứ nầy rất cao; đó lại có nhũ hương và bính ngọc.
13. Tên sông thứ nhì là Ghi-hôn, chảy quanh xứ Cu-sơ.
14. Tên sông thứ ba là Hi-đê-ke, chảy về phía đông bờ cõi A-si-ri. Còn sông thứ
tư là sông Ơ-phơ-rát.
15. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Ê-đen để trồng và giữ vườn.
16. Rồi, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các
thứ cây trong vườn;
17. nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi
ăn chắc sẽ chết.
18. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta
sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó.
19. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời lấy đất nắn nên các loài thú đồng, các loài chim
trời, rồi dẫn đến trước mặt A-đam đặng thử xem người đặt tên chúng nó làm sao,
hầu cho tên nào A-đam đặt cho mỗi vật sống, đều thành tên riêng cho nó.
20. A-đam đặt tên các loài súc vật, các loài chim trời cùng các loài thú đồng;
nhưng về phần A-đam, thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết.
21. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời làm cho A-đam ngủ mê, bèn lấy một xương sường, rồi
lấp thịt thế vào.
22. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời dùng xương sường đã lấy nơi A-đam làm nên một người
nữ, đưa đến cùng A-đam.
23. A-đam nói rằng: Người nầy là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra.
Người nầy sẽ được gọi là người nữ, vì nó do nơi người nam mà có.
24. Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai
sẽ trở nên một thịt.
25. Vả, A-đam và vợ, cả hai đều trần truồng, mà chẳng hổ thẹn.
Sáng-thế Ký 3
chọn đoạn khác
1. Vả, trong các loài thú đồng mà Giê-hô-va Ðức Chúa Trời đã làm nên, có con rắn
là giống quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói cùng người nữ rằng: Mà chi! Ðức Chúa Trời há
có phán dặn các ngươi không được phép ăn trái các cây trong vườn sao?
2. Người nữ đáp rằng: Chúng ta được ăn trái các cây trong vườn,
3. song về phần trái của cây mọc giữa vườn, Ðức Chúa Trời có phán rằng: Hai
ngươi chẳng nên ăn đến và cũng chẳng nên đá-động đến, e khi hai ngươi phải chết
chăng.
4. Rắn bèn nói với người nữ rằng: Hai ngươi chẳng chết đâu;
5. nhưng Ðức Chúa Trời biết rằng hễ ngày nào hai ngươi ăn trái cây đó, mắt mình
mở ra, sẽ như Ðức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác.
6. Người nữ thấy trái của cây đó bộ ăn ngon, lại đẹp mắt và quí vì để mở trí
khôn, bèn hái ăn, rồi trao cho chồng đứng gần mình, chồng cũng ăn nữa.
7. Ðoạn, mắt hai người đều mỡ ra, biết rằng mình lỏa lồ, bèn lấy lá cây vả đóng
khố che thân.
8. Lối chiều, nghe tiếng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời đi ngang qua vườn, A-đam và vợ
ẩn mình giữa bụi cây, để tránh mặt Giê-hô-va Ðức Chúa Trời.
9. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời kêu A-đam mà phán hỏi rằng: Ngươi ở đâu?
10. A-đam thưa rằng: Tôi có nghe tiếng Chúa trong vườn, bèn sợ, bởi vì tôi lỏa
lồ, nên đi ẩn mình.
11. Ðức Chúa Trời phán hỏi: Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng mình lỏa lồ? Ngươi có
ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn đó chăng?
12. Thưa rằng: Người nữ mà Chúa đã để gần bên tôi cho tôi trái cây đó và tôi đã
ăn rồi.
13. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời phán hỏi người nữ rằng: Người có làm điều chi vậy?
Người nữ thưa rằng: Con rắn dỗ dành tôi và tôi đã ăn rồi.
14. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời bèn phán cùng rắn rằng: Vì mầy đã làm điều như vậy,
mầy sẽ bị rủa sả trong vòng các loài súc vật, các loài thú đồng, mầy sẽ bò bằng
bụng và ăn bụi đất trọn cả đời.
15. Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch
thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người.
16. Ngài phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn
thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu
hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi.
17. Ngài lại phán cùng A-đam rằng: Vì ngươi nghe theo lời vợ mà ăn trái cây ta
đã dặn không nên ăn, vậy, đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu
khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn.
18. Ðất sẽ sanh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng;
19. ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất,
là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi.
20. A-đam gọi vợ là Ê-va, vì là mẹ của cả loài người.
21. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời lấy da thú kết thành áo dài cho vợ chồng A-đam, và
mặc lấy cho.
22. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời phán rằng: Nầy, về sự phân biệt điều thiện và điều
ác, loài người đã thành một bực như chúng ta; vậy bây giờ, ta hãy coi chừng, e
loài người giơ tay khiến cũng hái trái cây sự sống mà ăn và được sống đời đời
chăng.
23. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời bèn đuổi loài người ra khỏi vườn Ê-đen đặng cày cấy
đất, là nơi có người ra.
24. Vậy, Ngài đuổi loài người ra khỏi vườn, rồi đặt tại phía đông vườn Ê-đen các
thần chê-ru-bin với gươm lưỡi chói lòa, để giữ con đường đi đến cây sự sống.
Sáng-thế Ký 4
chọn đoạn khác
1. A-đam ăn ở với Ê-va, là vợ mình; người thọ thai sanh Ca-in và nói rằng: Nhờ
Ðức Giê-hô-va giúp đỡ, tôi mới sanh được một người.
2. Ê-va lại sanh em Ca-in, là A-bên; A-bên làm nghề chăn chiên, còn Ca-in thì
nghề làm ruộng.
3. Vả, cách ít lâu, Ca-in dùng thổ sản làm của lễ dâng cho Ðức Giê-hô-va.
4. A-bên cũng dâng chiên đầu lòng trong bầy mình cùng mỡ nó. Ðức Giê-hô-va đoái
xem A-bên và nhận lễ vật của người;
5. nhưng chẳng đoái đến Ca-in và cũng chẳng nhận lễ vật của người; cho nên Ca-in
giận lắm mà gằm nét mặt.
6. Ðức Giê-hô-va phán hỏi Ca-in rằng: Cớ sao ngươi giận, và cớ sao nét mặt ngươi
gằm xuống?
7. Nếu ngươi làm lành, há chẳng ngước mặt lên sao? Còn như chẳng làm lành, thì
tội lỗi rình đợi trước cửa, thèm ngươi lắm; nhưng ngươi phải quản trị nó.
8. Ca-in thuật lại cùng A-bên là em mình. Vả, khi hai người đương ở ngoài đồng,
thì Ca-in xông đến A-bên là em mình, và giết đi.
9. Ðức Giê-hô-va hỏi Ca-in rằng: A-bên, em ngươi, ở đâu? Thưa rằng: Tôi không
biết; tôi là người giữ em tôi sao?
10. Ðức Giê-hô-va hỏi: Ngươi đã làm điều chi vậy? Tiếng của máu em ngươi từ dưới
đất kêu thấu đến ta.
11. Bây giờ, ngươi sẽ bị đất rủa sả, là đất đã hả miệng chịu hút máu của em
ngươi bởi chính tay ngươi làm đổ ra.
12. Khi ngươi trồng tỉa, đất chẳng sanh hoa lợi cho ngươi nữa; ngươi sẽ lưu lạc
và trốn tránh, trên mặt đất.
13. Ca-in thưa cùng Ðức Giê-hô-va rằng: Sự hình phạt tôi nặng quá mang không
nổi.
14. Nầy, ngày nay, Chúa đã đuổi tôi ra khỏi đất nầy, tôi sẽ lánh mặt Chúa, sẽ đi
lưu lạc trốn tránh trên đất; rồi, xảy có ai gặp tôi, họ sẽ giết đi.
15. Ðức Giê-hô-va phán rằng: Bởi cớ ấy, nếu ai giết Ca-in, thì sẽ bị báo thù bảy
lần. Ðức Giê-hô-va bèn đánh dấu trên mình Ca-in, hầu cho ai gặp Ca-in thì chẳng
giết.
16. Ca-in bèn lui ra khỏi mặt Ðức Giê-hô-va, và ở tại xứ Nốt, về phía đông của
Ê-đen.
17. Ðoạn, Ca-in ăn ở cùng vợ mình, nàng thọ thai và sanh được Hê-nóc; Ca-in xây
một cái thành đặt tên là Hê-nóc, tùy theo tên con trai mình.
18. Rồi, Hê-nóc sanh Y-rát; Y-rát sanh Mê-hu-da-ên; Mê-hu-da-ên sanh
Mê-tu-sa-ên; Mê-tu-sa-ên sanh Lê-méc.
19. Lê-méc cưới hai vợ; một người tên là A-đa, một người tên là Si-la.
20. A-đa sanh Gia-banh; Gia-banh là tổ phụ của các dân ở trại và nuôi bầy súc
vật.
21. Em người là Giu-banh, tổ phụ của những kẻ đánh đờn và thổi sáo.
22. Còn Si-la cũng sanh Tu-banh-Ca-in là người rèn đủ thứ khí giới bén bằng đồng
và bằng sắt. Em gái của Tu-banh-Ca-in là Na-a-ma.
23. Lê-méc bèn nói với hai vợ mình rằng: Hỡi A-đa và Si-la! hãy nghe tiếng ta;
Nầy, vợ Lê-méc hãy lắng tai nghe lời ta: Ừ! Ta đã giết một người, vì làm thương
ta, Và một người trẻ, vì đánh sưng bầm ta.
24. Nếu Ca-in được bảy lần báo thù, Lê-méc sẽ được bảy mươi bảy lần báo oán.
25. A-đam còn ăn ở với vợ mình; người sanh được một con trai đặt tên là Sết; vì
vợ rằng: Ðức Chúa Trời đã cho tôi một con trai khác thế cho A-bên mà đã bị Ca-in
giết rồi.
26. Sết cũng sanh được một con trai, đặt tên là Ê-nót. Từ đây, người ta bắt đầu
cầu khẩn danh Ðức Giê-hô-va.
Sáng-thế Ký 5
chọn đoạn khác
1. Ðây là sách chép dòng dõi của A-đam. Ngày mà Ðức Chúa Trời dựng nên loài
người, thì Ngài làm nên loài người giống như Ðức Chúa Trời;
2. Ngài dựng nên người nam cùng người nữ, ban phước cho họ, và trong ngày đã
dựng nên, đặt tên là người.
3. Vả, A-đam được một trăm ba mươi tuổi, sanh một con trai giống như hình tượng
mình, đặt tên là Sết.
4. Sau khi A-đam sanh Sết rồi, còn sống được tám trăm năm, sanh con trai con
gái.
5. Vậy, A-đam hưởng thọ được chín trăm ba mươi tuổi, rồi qua đời.
6. Sết được một trăm năm tuổi, sanh Ê-nót.
7. Sau khi Sết sanh Ê-nót rồi, còn sống được tám trăm bảy năm, sanh con trai con
gái.
8. Vậy, Sết hưởng thọ được chín trăm mười hai tuổi, rồi qua đời.
9. Ê-nót được chín mươi tuổi, sanh Kê-nan.
10. Sau khi sanh Kê-nan rồi, còn sống được tám trăm mười lăm năm, sanh con trai
con gái.
11. Vậy, Ê-nót hưởng thọ được chín trăm năm tuổi, rồi qua đời.
12. Kê-nan được bảy mươi tuổi, sanh Ma-ha-la-le.
13. Sau khi Kê-nan sanh Ma-ha-la-le rồi, còn sống được tám trăm bốn mươi năm,
sanh con trai con gái.
14. Vậy, Kê-nan hưởng thọ được chín trăm mười tuổi, rồi qua đời.
15. Ma-ha-la-le được sáu mươi lăm tuổi, sanh Giê-rệt.
16. Sau khi Ma-ha-la-le sanh Giê-rệt, còn sống được tám trăm ba mươi năm, sanh
con trai con gái.
17. Vậy, Ma-ha-la-le hưởng thọ được tám trăm chín mươi lăm tuổi, rồi qua đời.
18. Giê-rệt được một trăm sáu mươi hai tuổi, sanh Hê-nóc.
19. Sau khi Giê-rệt sanh Hê-nóc rồi, còn sống được tám trăm năm, sanh con trai
con gái.
20. Vậy, Giê-rệt hưởng thọ được chín trăm sáu mươi hai tuổi, rồi qua đời.
21. Hê-nóc được sáu mươi lăm tuổi, sanh Mê-tu-sê-la.
22. Sau khi Hê-nóc sanh Mê-tu-sê-la rồi, đồng đi cùng Ðức Chúa Trời trong ba
trăm năm, sanh con trai con gái.
23. Vậy Hê-nóc hưởng thọ được ba trăm sáu mươi lăm tuổi.
24. Hê-nóc đồng đi cùng Ðức Chúa Trời, rồi mất biệt, bởi vì Ðức Chúa Trời tiếp
người đi.
25. Mê-tu-sê-la được một trăm tám mươi bảy tuổi, sanh Lê-méc.
26. Sau khi Mê-tu-sê-la sanh Lê-méc rồi, còn sống được bảy trăm tám mươi hai
năm, sanh con trai con gái.
27. Vậy, Mê-tu-sê-la hưởng thọ được chín trăm sáu mươi chín tuổi, rồi qua đời.
28. Lê-méc được một trăm tám mươi hai tuổi, sanh một trai,
29. đặt tên là Nô-ê, mà nói rằng: Ðứa nầy sẽ an ủi lòng ta về công việc và về sự
nhọc nhằn mà đất bắt tay ta phải làm, là đất Ðức Giê-hô-va đã rủa sả.
30. Sau khi Lê-méc sanh Nô-ê rồi, còn sống được năm trăm chín mươi lăm năm, sanh
con trai con gái.
31. Vậy, Lê-méc hưởng thọ được bảy trăm bảy mươi bảy tuổi, rồi qua đời.
32. Còn Nô-ê, khi đến năm trăm tuổi, sanh Sem Cham và Gia-phết.
Sáng-thế Ký 6
chọn đoạn khác
1. Vả, khi loài người khởi thêm nhiều trên mặt đất, và khi loài người đã sanh
được con gái rồi,
2. các con trai của Ðức Chúa Trời thấy con gái loài người tốt đẹp, bèn cưới
người nào vừa lòng mình mà làm vợ.
3. Ðức Giê-hô-va phán rằng: Thần ta sẽ chẳng hằng ở trong loài người luôn; trong
điều lầm lạc, loài người chỉ là xác thịt; đời người sẽ là một trăm hai mươi năm
mà thôi.
4. Ðời đó và đời sau, có người cao lớn trên mặt đất, vì con trai Ðức Chúa Trời
ăn ở cùng con gái loài người mà sanh con cái; ấy những người mạnh dạn ngày xưa
là tay anh hùng có danh.
5. Ðức Giê-hô-va thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý
tưởng của lòng họ chỉ là xấu luôn;
6. thì tự trách đã dựng nên loài người trên mặt đất, và buồn rầu trong lòng.
7. Ðức Giê-hô-va phán rằng: Ta sẽ hủy diệt khỏi mặt đất loài người mà ta đã dựng
nên, từ loài người cho đến loài súc vật, loài côn trùng, loài chim trời; vì ta
tự trách đã dựng nên các loài đó.
8. Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt Ðức Giê-hô-va.
9. Nầy là dòng dõi của Nô-ê. Nô-ê trong đời mình là một người công bình và toàn
vẹn, đồng đi cùng Ðức Chúa Trời.
10. Nô-ê sanh ba con trai là Sem, Cham và Gia-phết.
11. Thế gian bấy giờ đều bại hoại trước mặt Ðức Chúa Trời và đầy dẫy sự hung ác.
12. Nầy, Ðức Chúa Trời nhìn xem thế gian, thấy điều bại hoại, vì hết thảy xác
thịt làm cho đường mình trên đất phải bại hoại.
13. Ðức Chúa Trời bèn phán cùng Nô-ê rằng: Kỳ cuối cùng của mọi xác thịt đã đưa
đến trước mặt ta; vì cớ loài người mà đất phải đầy dẫy điều hung hăng; vậy, ta
sẽ diệt-trừ họ cùng đất.
14. Ngươi hãy đóng một chiếc tàu bằng cây gô-phe, đóng có từng phòng, rồi trét
chai bề trong cùng bề ngoài.
15. Vậy, hãy làm theo thế nầy: Bề dài tàu ba trăm thước, bề ngang năm mươi
thước, bề cao ba mươi thước.
16. Trên tàu ngươi sẽ làm một cửa sổ, bề cao một thước, và chừa một cửa bên
hông; ngươi sẽ làm một từng dưới, một từng giữa và một từng trên.
17. Còn ta đây, ta sẽ dẫn nước lụt khắp trên mặt đất, đặng diệt tuyệt các xác
thịt có sanh khí ở dưới trời; hết thảy vật chi ở trên mặt đất đều sẽ chết hết.
18. Nhưng ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, rồi ngươi và vợ, các con và các dâu của
ngươi, đều hãy vào tàu.
19. Về các loài sanh vật, ngươi hãy dẫn xuống tàu mỗi loài một cặp, có đực có
cái, có trống có mái, hầu cho ở cùng ngươi đặng giữ tròn sự sống;
20. chim tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, côn trùng tùy theo loại, mỗi thứ
hai con, sẽ đến cùng ngươi, để ngươi giữ tròn sự sống cho.
21. Lại, ngươi hãy lấy các thứ đồ ăn đem theo, đặng để dàng làm lương thực cho
ngươi và các loài đó.
22. Nô-ê làm các điều nầy y như lời Ðức Chúa Trời đã phán dặn.
Sáng-thế Ký 7
chọn đoạn khác
1. Ðức Giê-hô-va phán cùng Nô-ê rằng: Ngươi và cả nhà ngươi hãy vào tàu, vì về
đời nầy ta thấy ngươi là công bình ở trước mặt ta.
2. Trong các loài vật thanh sạch, hãy đem theo mỗi loài bảy cặp, đực và cái; còn
loài vật không thanh sạch mỗi loài một cặp, đực và cái.
3. Cũng hãy đem theo những chim trời, mỗi thứ bảy cặp, trống và mái, để giữ
giống ở trên khắp mặt đất.
4. Vì còn bảy ngày nữa, ta sẽ làm mưa xuống mặt đất, trong bốn mươi ngày và bốn
mươi đêm; ta sẽ tuyệt diệt khỏi đất hết các loài của ta đã dựng nên.
5. Ðoạn, Nô-ê làm theo mọi điều Ðức Giê-hô-va đã phán dặn mình.
6. Vả, khi lụt xảy ra, và nước tràn trên mặt đất, thì Nô-ê đã được sáu trăm
tuổi.
7. Vì cớ nước lụt, nên Nô-ê vào tàu cùng vợ, các con trai và các dâu mình;
8. loài vật thanh sạch và loài vật không thanh sạch, loài chim, loài côn trùng
trên mặt đất,
9. từng cặp, đực và cái, trống và mái, đều đến cùng Nô-ê mà vào tàu, y như lời
Ðức Chúa Trời đã phán dặn người.
10. Sau bảy ngày, nước lụt xảy có trên mặt đất.
11. Nhằm năm sáu trăm của đời Nô-ê, tháng hai, ngày mười bảy, chánh ngày đó, các
nguồn của vực lớn nổ ra, và các đập trên trời mở xuống;
12. mưa sa trên mặt đất trọn bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.
13. Lại cũng trong một ngày đó, Nô-ê với vợ, ba con trai: Sem, Cham và Gia-phết,
cùng ba dâu mình đồng vào tàu.
14. Họ và các loài, thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, côn trùng
trên mặt đất tùy theo loại, chim tùy theo loại, và hết thảy vật nào có cánh,
15. đều từng cặp theo Nô-ê vào tàu; nghĩa là mọi xác thịt nào có sanh khí,
16. một đực một cái, một trống một mái, đều đến vào tàu, y như lời Ðức Chúa Trời
đã phán dặn; đoạn, Ðức Giê-hô-va đóng cửa tàu lại.
17. Nước lụt phủ mặt đất bốn mươi ngày; nước dưng thêm nâng hỏng tàu lên khỏi
mặt đất.
18. Trên mặt đất nước lớn và dưng thêm nhiều lắm; chiếc tàu nổi trên mặt nước.
19. Nước càng dưng lên bội phần trên mặt đất, hết thảy những ngọn núi cao ở dưới
trời đều bị ngập.
20. Nước dưng lên mười lăm thước cao hơn, mấy ngọn núi đều ngập.
21. Các xác thịt hành động trên mặt đất đều chết ngột, nào chim, nào súc vật,
nào thú rừng, nào côn trùng, và mọi người.
22. Các vật có sanh khí trong lỗ mũi, các vật ở trên đất liền đều chết hết.
23. Mọi loài ở trên mặt đất đều bị hủy diệt, từ loài người cho đến loài thú,
loài côn trùng, cùng loài chim trời, chỉ còn Nô-ê và các loài ở với người trong
tàu mà thôi.
24. Nước dưng lên trên mặt đất trọn một trăm năm mươi ngày.
Sáng-thế Ký 8
chọn đoạn khác
1. Vả, Ðức Chúa Trời nhớ lại Nô-ê cùng các loài thú và súc vật ở trong tàu với
người, bèn khiến một trận gió thổi ngang qua trên đất, thì nước dừng lại.
2. Các nguồn của vực lớn và các đập trên trời lấp ngăn lại; mưa trên trời không
sa xuống nữa.
3. Nước giựt khỏi mặt đất, lần lần vừa hạ vừa giựt; trong một trăm năm mươi ngày
nước mới bớt xuống.
4. Ðến tháng bảy, ngày mười bảy, chiếc tàu tấp trên núi A-ra-rát.
5. Nước cứ lần lần hạ cho đến tháng mười; ngày mồng một tháng đó, mấy đỉnh núi
mới lộ ra.
6. Ðược bốn mươi ngày, Nô-ê mở cửa sổ mình đã làm trên tàu,
7. thả một con quạ ra; quạ liệng đi liệng lại cho đến khi nước giựt khô trên mặt
đất.
8. Người cũng thả một con bò câu ra, đặng xem thử nước hạ bớt trên mặt đất chưa.
9. Nhưng bò câu chẳng tìm được nơi nào đáp chơn xuống, bèn bay trở về trong tàu
cùng người, vì nước còn khắp cả trên mặt đất. Nô-ê giơ tay bắt lấy bò câu, đem
vào tàu lại với mình.
10. Ðoạn, người đợi bảy ngày nữa, lại thả bò câu ra khỏi tàu;
11. đến chiều bò câu về cùng người, và nầy, trong mỏ tha một lá Ô-li-ve tươi;
Nô-ê hiểu rằng nước đã giảm bớt trên mặt đất.
12. Người đợi bảy ngày nữa, thả con bò câu ra; nhưng chuyến nầy bò câu chẳng trở
về cùng người nữa.
13. Nhằm năm sáu trăm một của đời Nô-ê, ngày mồng một, tháng giêng, nước đã giựt
bày mặt đất khô; Nô-ê bèn giở mui tàu mà nhìn; nầy, mặt đất đã se.
14. Ðến tháng hai, ngày hai mươi bảy, đất đã khô rồi.
15. Ðức Chúa Trời bèn phán cùng Nô-ê rằng:
16. Hãy ra khỏi tàu, ngươi, vợ các con và các dâu ngươi.
17. Hãy thả ra với ngươi mọi vật sống của các xác thịt đã ở cùng ngươi: nào
chim, nào thú, nào côn trùng bò trên đất, hầu cho chúng nó sanh sản, và thêm
nhiều trên mặt đất.
18. Vậy, Nô-ê cùng vợ người, các con trai và các dâu người ra khỏi tàu.
19. Các thú, rắn, chim cùng mọi vật hành động trên mặt đất tùy theo giống đều ra
khỏi tàu.
20. Nô-ê lập một bàn thờ cho Ðức Giê-hô-va. Người bắt các súc vật thanh sạch,
các loài chim thanh sạch, bày của lễ thiêu dâng lên bàn thờ.
21. Ðức Giê-hô-va hưởng lấy mùi thơm và nghĩ thầm rằng: Ta chẳng vì loài người
mà rủa sả đất nữa, vì tâm tánh loài người vẫn xấu xa từ khi còn tuổi trẻ; ta
cũng sẽ chẳng hành các vật sống như ta đã làm.
22. Hễ đất còn, thì mùa gieo giống cùng mùa gặt hái, lạnh và nóng, mùa hạ cùng
mùa đông, ngày và đêm, chẳng bao giờ tuyệt được.
Sáng-thế Ký 9
chọn đoạn khác
1. Ðức Chúa Trời ban phước cho Nô-ê cùng các con trai người, mà phán rằng: Hãy
sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy trên mặt đất.
2. Các loài vật ở trên đất, các loài chim trời, và các vật hành động trên đất,
cùng các cá biển, đều sẽ kinh khủng ngươi và bị phú vào tay ngươi.
3. Phàm vật chi hành động và có sự sống thì dùng làm đồ ăn cho các ngươi. Ta cho
mọi vật đó như ta đã cho thứ cỏ xanh.
4. Song các ngươi không nên ăn thịt còn hồn sống, nghĩa là có máu.
5. Quả thật, ta sẽ đòi máu của sự sống ngươi lại, hoặc nơi các loài thú vật,
hoặc nơi tay người, hoặc nơi tay của anh em người.
6. Hễ kẻ nào làm đổ máu người, thì sẽ bị người khác làm đổ máu lại; vì Ðức Chúa
Trời làm nên người như hình của Ngài.
7. Vậy, các ngươi hãy sanh sản, thêm nhiều, và làm cho đầy dẫy trên mặt đất.
8. Ðức Chúa Trời cũng phán cùng Nô-ê và các con trai người rằng:
9. Còn phần ta đây, ta lập giao ước cùng các ngươi, cùng dòng dõi các ngươi,
10. và cùng mọi vật sống ở với ngươi, nào loài chim, nào súc vật, nào loài thú ở
trên đất, tức là các loài ở trong tàu ra, cho đến các loài vật ở trên đất.
11. Vậy, ta lập giao ước cùng các ngươi, và các loài xác thịt chẳng bao giờ lại
bị nước lụt hủy diệt, và cũng chẳng có nước lụt để hủy hoại đất nữa.
12. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Ðây là dấu chỉ về sự giao ước mà ta lập cùng
các ngươi, cùng hết thảy vật sống ở với các ngươi, trải qua các đời mãi mãi.
13. Ta đặt mống của ta trên từng mây, dùng làm dấu chỉ sự giao ước của ta với
đất.
14. Phàm lúc nào ta góp các đám mây trên mặt đất và phàm mống mọc trên từng mây,
15. thì ta sẽ nhớ lại sự giao ước của ta đã lập cùng các ngươi, và cùng các loài
xác thịt có sự sống, thì nước chẳng bao giờ lại trở nên lụt mà hủy diệt các loài
xác thịt nữa.
16. Vậy, cái mống sẽ ở trên mây, ta nhìn xem nó đặng nhớ lại sự giao ước đời đời
của Ðức Chúa Trời cùng các loài xác thịt có sự sống ở trên đất.
17. Ðức Chúa Trời lại phán cùng Nô-ê rằng: Ðó là dấu chỉ sự giao ước mà ta đã
lập giữa ta và các xác thịt ở trên mặt đất.
18. Các con trai của Nô-ê ở trong tàu ra là Sem, Cham và Gia-phết. Vả, Cham là
cha của Ca-na-an.
19. Ấy đó, là ba con trai của Nô-ê, và cũng do nơi họ mà có loài người ở khắp
trên mặt đất.
20. Vả, Nô-ê khởi cày đất và trồng nho.
21. Người uống rượu say, rồi lõa thể ở giữa trại mình.
22. Cham là cha Ca-na-an, thấy sự trần truồng của cha, thì ra ngoài thuật lại
cùng hai anh em mình.
23. Nhưng Sem và Gia-phết đều lấy áo choàng vắt trên vai mình, đi thùi lui đến
đắp khuất thân cho cha; và bởi họ xây mặt qua phía khác, nên chẳng thấy sự trần
truồng của cha chút nào.
24. Khi Nô-ê tỉnh rượu rồi, hay được điều con thứ hai đã làm cho mình,
25. bèn nói rằng: Ca-na-an đáng rủa sả! Nó sẽ làm mọi cho các tôi tớ của anh em
nó.
26. Người lại nói rằng: Ðáng ngợi khen Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Sem thay;
Ca-na-an phải làm tôi cho họ!
27. Cầu xin Ðức Chúa Trời mở rộng đất cho Gia-phết, cho người ở nơi trại của
Sem; còn Ca-na-an phải làm tôi của họ.
28. Sau khi lụt, Nô-ê còn sống ba trăm năm mươi năm.
29. Vậy, Nô-ê hưởng thọ được chín trăm năm mươi tuổi, rồi qua đời.
Sáng-thế Ký
10 chọn đoạn khác
1. Ðây là dòng dõi của Sem, Cham và Gia-phết, ba con trai của Nô-ê; sau khi lụt,
họ sanh con cái.
2. Con trai của Gia-phết là Gô-me, Ma-gốc, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc, và
Ti-ra.
3. Con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Ri-phát, và Tô-ga-ma.
4. Con trai của Gia-van là Ê-li-sa và Ta-rê-si, Kít-sim và Ðô-đa-nim.
5. Do họ mà có người ta ở tràn ra các cù lao của các dân, tùy theo xứ, tiếng
nói, chi phái và dân tộc của họ mà chia ra.
6. Con trai của Cham là Cúc, Mích-ra-im, Phút và Ca-na-an.
7. Con trai của Cúc là Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ê-ma và Sáp-tê-ca; con trai
của Ra-ê-ma là Sê-la và Ðê-đan.
8. Cúc sanh Nim-rốt, ấy là người bắt đầu làm anh hùng trên mặt đất.
9. Người là một tay thợ săn can đảm trước mặt Ðức Giê-hô-va. Bởi cớ đó, có tục
ngữ rằng: Hệt như Nim-rốt, một tay thợ săn can đảm trước mặt Ðức Giê-hô-va!
10. Nước người sơ-lập là Ba-bên, Ê-rết, A-cát và Ca-ne ở tại xứ Si-nê-a.
11. Từ xứ đó người đến xứ A-si-ri, rồi lập thành Ni-ni-ve, Rê-hô-bô-ti, Ca-lách,
12. Và thành Rê-sen, là thành rất lớn, ở giữa khoảng thành Ni-ni-ve và Ca-lách.
13. Mích-ra-im sanh họ Lu-đim, họ A-na-mim, họ Lê-ha-bim, họ Náp-tu-him,
14. họ Bát-ru-sim, họ Cách-lu-him (bởi đó sanh họ Phi-li-tin), và họ Cáp-tô-rim.
15. Ca-na-an sanh Si-đôn, là con trưởng nam, và Hếch,
16. cùng họ Giê-bu-sít, họ A-mô-rít, họ Ghi-rê-ga-sít,
17. họ Hê-vít, họ A-rê-kít, họ Si-nít,
18. họ A-va-đít, họ Xê-ma-rít, họ Ha-ma-tít. Kế đó, chi tộc Ca-na-an đi tản lạc.
19. Còn địa-phận Ca-na-an, về hướng Ghê-ra, chạy từ Si-đôn tới Ga-xa; về hướng
Sô-đôm, Gô-mô-rơ, Át-ma và Sê-bô-im, chạy đến Lê-sa.
20. Ðó là con cháu của Cham, tùy theo họ hàng, tiếng nói, xứ và dân tộc của họ.
21. Sem, tổ phụ của họ Hê-be và anh cả của Gia-phết, cũng có sanh con trai.
22. Con trai của Sem là Ê-lam, A-sự-rơ, A-bác-sát, Lút và A-ram.
23. Con trai của A-ram là U-xơ, Hu-lơ, Ghê-te và Mách.
24. Còn A-bác-sát sanh Sê-lách; Sê-lách sanh Hê-be,
25. Hê-be sanh được hai con trai; tên của một người là Bê-léc, vì đất trong đời
người đó đã chia ra; trên của người em là Giốc-tan.
26. Giốc-tan sanh A-mô-đát, Sê-lép, Ha-sa-ma-vết và Giê-rách,
27. Ha-đô-ram, U-xa, Ðiếc-la,
28. Ô-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba,
29. Ô-phia, Ha-vi-la và Giô-báp. Hết thảy các người đó là con trai của Giốc-tan.
30. Cõi đất của các người đó ở về phía Sê-pha, chạy từ Mê-sa cho đến núi Ðông
phương.
31. Ðó là con cháu của Sem, tùy theo họ hàng, tiếng nói, xứ và dân tộc của họ.
32. Ấy là các họ hàng của ba con trai Nô-ê tùy theo đời và dân tộc của họ; lại
cũng do nơi họ mà các dân chia ra trên mặt đất sau cơn nước lụt.
Sáng-thế Ký
11 chọn đoạn khác
1. Vả, cả thiên hạ đều có một giọng nói và một thứ tiếng.
2. Nhưng khi ở Ðông phương dời đi, người ta gặp một đồng bằng trong xứ Si-nê-a,
rồi ở tại đó.
3. Người nầy nói với người kia rằng: Hè! chúng ta hãy làm gạch và hầm trong lửa.
Lúc đó, gạch thế cho đá, còn chai thế cho hồ.
4. Lại nói rằng: Nào! chúng ta hãy xây một cái thành và dựng lên một cái tháp,
chót cao đến tận trời; ta hãy lo làm cho rạng danh, e khi phải tản lạc khắp trên
mặt đất.
5. Ðức Giê-hô-va bèn ngự xuống đặng xem cái thành và tháp của con cái loài người
xây nên.
6. Ðức Giê-hô-va phán rằng: Nầy, chỉ có một thứ dân, cùng đồng một thứ tiếng; và
kia kìa công việc chúng nó đương khởi làm; bây giờ chẳng còn chi ngăn chúng nó
làm các điều đã quyết định được.
7. Thôi! chúng ta, hãy xuống, làm lộn xộn tiếng nói của chúng nó, cho họ nghe
không được tiếng nói của người nầy với người kia.
8. Rồi, từ đó Ðức Giê-hô-va làm cho loài người tản ra khắp trên mặt đất, và họ
thôi công việc xây cất thành.
9. Bởi cớ đó đặt tên thành là Ba-bên, vì nơi đó Ðức Giê-hô-va làm lộn xộn tiếng
nói của cả thế gian, và từ đây Ngài làm cho loài người tản ra khắp trên mặt đất.
10. Ðây là dòng dõi của Sem: Cách hai năm, sau cơn nước lụt, Sem được một trăm
tuổi, sanh A-bác-sát.
11. Sau khi Sem sanh A-bác-sát rồi, còn sống được năm trăm năm, sanh con trai
con gái.
12. A-bác-sát được ba mươi lăm tuổi, sanh Sê-lách.
13. Sau khi A-bác-sát sanh Sê-lách rồi, còn sống được bốn trăm ba năm, sanh con
trai con gái.
14. Sê-lách được ba mươi tuổi, sanh Hê-be.
15. Sau khi Sê-lách sanh Hê-be rồi, còn sống được bốn trăm ba năm, sanh con trai
con gái.
16. Hê-be được ba mươi bốn tuổi, sanh Bê-léc.
17. Sau khi Hê-be sanh Bê-léc rồi, còn sống được bốn trăm ba mươi năm, sanh con
trai con gái.
18. Bê-léc được ba mươi tuổi, sanh Rê-hu
19. Sau khi Bê-léc sanh Rê-hu rồi, còn sống được hai trăm chín năm, sanh con
trai con gái.
20. Rê-hu được ba mươi hai tuổi, sanh Sê-rúc.
21. Sau khi Rê-hu sanh Sê-rúc rồi, còn sống được hai trăm bảy năm, sanh con trai
con gái.
22. Sê-rúc được ba mươi tuổi, sanh Na-cô.
23. Sau khi Sê-rúc sanh Na-cô rồi, còn sống được hai trăm năm, sanh con trai con
gái.
24. Na-cô được hai mươi chín tuổi, sanh Tha-rê.
25. Sau khi Na-cô sanh Tha-rê rồi, còn sống được một trăm mười chín năm, sanh
con trai con gái.
26. Còn Tha-rê được bảy mươi tuổi, sanh Áp-ram, Na-cô và Ha-ran.
27. Ðây là dòng dõi của Tha-rê: Tha-rê sanh Áp-ram, Na-cô và Ha-ran; Ha-ran sanh
Lót.
28. Ha-ran qua đời tại quê hương mình, tức là U-ru, thuộc về xứ Canh-đê, khi cha
người là Tha-rê hãy còn sống.
29. Áp-ram và Na-cô cưới vợ; vợ Áp-ram tên là Sa-rai, còn vợ Na-cô tên là
Minh-ca; Minh-ca và Dích-ca tức là con gái của Ha-ran.
30. Vả, Sa-rai son sẻ, nên người không có con.
31. Tha-rê dẫn Áp-ram, con trai mình, Lót, con trai Ha-ran, cháu mình, và
Sa-rai, vợ Áp-ram, tức dâu mình, đồng ra khỏi U-rơ, thuộc về xứ Canh-đê, đặng
qua xứ Ca-na-an. Khi đến Cha-ran thì lập gia cư tại đó.
32. Tha-rê hưởng thọ được hai trăm năm tuổi, rồi qua đời tại Cha-ran.
Sáng-thế Ký
12 chọn đoạn khác
1. Vả, Ðức Giê-hô-va có phán cùng Áp-ram rằng: Ngươi hãy ra khỏi quê hương, vòng
bà con và nhà cha ngươi, mà đi đến xứ ta sẽ chỉ cho.
2. Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi
danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước.
3. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước cho ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả
ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước.
4. Rồi Áp-ram đi, theo như lời Ðức Giê-hô-va đã phán dạy; Lót đồng đi với người.
Khi Áp-ram ra khỏi Cha-ran, tuổi người được bảy mươi lăm.
5. Áp-ram dẫn Sa-rai, vợ mình, Lót, cháu mình, cả gia tài đã thâu góp, và các
đầy tớ đã được tại Cha-ran, từ đó ra, để đi đến xứ Ca-na-an; rồi, chúng đều đến
xứ Ca-na-an.
6. Áp-ram trải qua xứ nầy, đến cây dẻ bộp của Mô-rê, tại Si-chem. Vả, lúc đó,
dân Ca-na-an ở tại xứ.
7. Ðức Giê-hô-va hiện ra cùng Áp-ram mà phán rằng: Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi
đất nầy! Rồi tại đó Áp-ram lập một bàn thờ cho Ðức Giê-hô-va, là Ðấng đã hiện
đến cùng người.
8. Từ đó, người đi qua núi ở về phía đông Bê-tên, rồi đóng trại; phía tây có
Bê-tên, phía đông có A-hi. Ðoạn, người lập tại đó một bàn thờ cho Ðức Giê-hô-va
và cầu khẩn danh Ngài.
9. Kế sau, Áp-ram vừa đi vừa đóng trại lần lần đến Nam phương.
10. Bấy giờ, trong xứ bị cơn đói kém; sự đói kém ấy lớn, nên Áp-ram xuống xứ
Ê-díp-tô mà kiều ngụ.
11. Khi hầu vào đất Ê-díp-tô, Áp-ram bèn nói cùng Sa-rai, vợ mình, rằng: Nầy, ta
biết ngươi là một người đờn bà đẹp.
12. Gặp khi nào dân Ê-díp-tô thấy ngươi, họ sẽ nói rằng: Ấy là vợ hắn đó; họ sẽ
giết ta, nhưng để cho ngươi sống.
13. Ta xin hãy xưng ngươi là em gái ta, hầu cho sẽ vì ngươi mà ta được trọng đãi
và giữ toàn mạng ta.
14. Áp-ram vừa đến xứ Ê-díp-tô, dân Ê-díp-tô nhìn thấy người đờn bà đó đẹp lắm.
15. Các triều thần của Pha-ra-ôn cùng thấy người và trằm-trồ trước mặt vua; đoạn
người đờn bà bị dẫn vào cung Pha-ra-ôn.
16. Vì cớ người, nên Pha-ra-ôn hậu đãi Áp-ram, và Áp-ram được nhiều chiên, bò,
lừa đực, lừa cái, lạc đà, tôi trai và tớ gái.
17. Song vì Sa-rai, vợ Áp-ram, nên Ðức Giê-hô-va hành phạt Pha-ra-ôn cùng nhà
người bị tai họa lớn.
18. Pha-ra-ôn bèn đòi Áp-ram hỏi rằng: Ngươi đã làm chi cho ta vậy? Sao không
tâu với ta rằng là vợ ngươi?
19. Sao đã nói rằng: người đó là em gái tôi? nên nỗi ta đã lấy nàng làm vợ. Bây
giờ, vợ ngươi đây; hãy nhận lấy và đi đi.
20. Ðoạn, Pha-ra-ôn hạ lịnh cho quan quân đưa vợ chồng Áp-ram cùng hết thảy tài
vật của người đi.
Sáng-thế Ký
13 chọn đoạn khác
1. Áp-ram ở Ê-díp-tô dẫn vợ cùng các tài vật mình và Lót đồng trở lên Nam
phương.
2. Vả, Áp-ram rất giàu có súc vật, vàng và bạc.
3. người vừa đi vừa đóng trại, từ Nam phương trở về Bê-tên và A-hi,
4. là nơi đã lập một bàn thờ lúc trước. Ở đó Áp-ram cầu khẩn danh Ðức Giê-hô-va.
5. Vả, Lót cùng đi với Áp-ram, cũng có chiên, bò, và trại.
6. Xứ đó không đủ chỗ cho hai người ở chung, vì tài vật rất nhiều cho đến đỗi
không ở chung nhau được.
7. Trong khi dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít ở trong xứ, xảy có chuyện tranh
giành của bọn chăn chiên Áp-ram cùng bọn chăn chiên Lót.
8. Áp-ram nói cùng Lót rằng: Chúng ta là cốt nhục, xin ngươi cùng ta chẳng nên
cãi lẫy nhau và bọn chăn chiên ta cùng bọn chăn chiên ngươi cũng đừng tranh
giành nhau nữa.
9. Toàn xứ há chẳng ở trước mặt ngươi sao? Vậy, hãy lìa khỏi ta; nếu ngươi lấy
bên hữu, ta sẽ qua bên tả.
10. Lót bèn ngước mắt lên, thấy khắp cánh đồng bằng bên sông Giô-đanh, là nơi
(trước khi Ðức Giê-hô-va chưa phá hủy thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ) thảy đều có nước
chảy tưới khắp đến Xoa; đồng ó cũng như vườn của Ðức Giê-hô-va và như xứ
Ê-díp-tô vậy.
11. Lót bèn chọn lấy cho mình hết cánh đồng bằng bên sông Giô-đanh và đi qua
phía Ðông. Vậy, hai người chia rẽ nhau.
12. Áp-ram ở trong xứ Ca-na-an, còn Lót ở trong thành của đồng bằng và dời trại
mình đến Sô-đôm.
13. Vả, dân Sô-đôm là độc ác và kẻ phạm tội trọng cùng Ðức Giê-hô-va.
14. Sau khi Lót lìa khỏi Áp-ram rồi, Ðức Giê-hô-va phán cùng Áp-ram rằng: Hãy
nhướng mắt lên, nhìn từ chỗ ngươi cho đến phương bắc, phương nam, phương đông và
phương tây:
15. Vì cả xứ nào ngươi thấy, ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi đời đời.
16. Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi như bụi trên đất; thế thì, nếu kẻ nào đếm đặng
dòng dõi ngươi vậy.
17. Hãy đứng dậy đi khắp trong xứ, bề dài và bề ngang; vì ta sẽ ban cho ngươi xứ
nầy.
18. Ðoạn áp-ram đời trại mình đến ở nơi lùm cây dẻ bộp tại Mam-rê, thuộc về
Hếp-rôn, và lập tại đó một bàn thờ cho Ðức Giê-hô-va.
Sáng-thế Ký
14 chọn đoạn khác
1. Trong đời Am-ra-phên, vua Si-nê-a; A-ri-óc, vua Ê-la-sa; Kết-rô-Lao me, vua
Ê-lam, và Ti-đanh, vua Gô-im,
2. bốn vua hiệp lại tranh chiến cùng Bê-ra, vua Sô-đôm; Bi-rê-sa, vua Gô-mô-rơ;
Si-nê-áp, vua Át-ma; Sê-mê-bê, vua Xê-bô-im, và vua Bê-la, tức là Xoa.
3. Các vua nầy hiệp lại tại trũng Si-điêm, bây giờ là biển muối.
4. Trong mười hai năm các vua nầy đều là chư-hầu của vua Kết-rô-Lao me; nhưng
qua năm thứ mười ba, thì họ dấy loạn.
5. Nhằm năm thứ mười bốn, Kết-rô-Lao-me cùng các vua đồng minh kéo quân đến dẹp
dân Rê-pha-im ở đất Ách-tê-rót-Ca-na-im, dân Xu-xin tại đất Ham, dân Ê-mim ở
trong đồng bằng Ki-ri-a-ta-im,
6. và dân Hô-rít tại núi Sê-i-rơ, cho đến nơi Ên-Ba-ran, ở gần đồng vắng.
7. Ðoạn, các vua thâu binh trở về, đến Suối Xử đoán, tức Ca-đe, hãm đánh khắp
miền dân A-ma-léc, và dân A-mô-rít ở tại Hát-sát sôn-Tha-ma.
8. Các vua của Sô-đôm, Gô-mô-rơ, Át-ma, Xê-bô-im và vua Bê-la, tức là Xoa, bèn
xuất trận và dàn binh đóng tại trũng Si-điêm,
9. đặng chống cự cùng Kết-rô-Lao-me, vua Ê-lam; Ti-đanh, vua Gô-im; Am-ra-phên,
vua Si-nê-a, và A-ri-óc, vua Ê-la-sa; bốn vị đương địch cùng năm.
10. Vả, trong trũng Si-điêm có nhiều hố nhựa chai; vua Sô-đôm và vua Gô-mô-rơ
thua chạy, sa xuống hố, còn kẻ nào thoát được chạy trốn trên núi.
11. Bên thắng trận bèn cướp lấy hết của cải và lương thực của Sô-đôm và
Gô-mô-rơ, rồi đi.
12. Giặc cũng bắt Lót, là cháu của Áp-ram, ở tại Sô-đôm, và hết thảy gia tài
người, rồi đem đi.
13. Có một người thoát được chạy đến báo điều đó cùng Áp-ram, là người Hê-bơ-rơ.
Áp-ram ở tại lùm cây dẻ bộp của Mam-rê, là người A-mô-rít, anh của Ếch-côn và
A-ne; ba người nầy đã có kết-ước cùng Áp-ram.
14. Khi Áp-ram hay được cháu mình bị quân giặc bắt, bèn chiêu tập ba trăm mười
tám gia nhân đã tập luyện, sanh đẻ nơi nhà mình, mà đuổi theo các vua đó đến đất
Ðan.
15. Ðoạn Áp-ram chia bọn đầy tớ mình ra, thừa ban đêm xông hãm quân nghịch, đánh
đuổi theo đến đất Hô-ba ở về phía tả Ða-mách.
16. Người thâu về đủ hết các tài vật mà quân giặc đã cướp lấy; lại cũng dẫn cháu
mình, là Lót cùng gia tài người, đờn bà và dân chúng trở về.
17. Sau khi Áp-ram đánh bại Kết-rô-Lao-me và các vua đồng minh, thắng trận trở
về, thì vua Sô-đôm ra đón rước người tại trũng Sa-ve, tức là trũng Vua.
18. Mên-chi-xê-đéc, vua Sa-lem, sai đem bánh và rượu ra. Vả, vua nầy là thầy tế
lễ của Ðức Chúa Trời Chí cao,
19. chúc phước cho Áp-ram và nói rằng: Nguyện Ðức Chúa Trời Chí cao, là Ðấng
dựng nên trời và đất, ban phước cho Áp-ram!
20. Ðáng ngợi khen thay Ðức Chúa Trời Chí cao đã phó kẻ thù nghịch vào tay
ngươi! Ðoạn, Áp-ram lấy một phần mười về cả của giặc mà dâng cho vua đó.
21. Vua Sô-đôm bèn nói cùng Áp-ram rằng: Hãy giao người cho ta, còn của cải, thì
ngươi thâu lấy.
22. Áp-ram đáp lại rằng: Tôi giơ tay lên trước mặt Giê-hô-va Ðức Chúa Trời Chí
cao, Chúa Tể của trời và đất, mà thề rằng:
23. Hễ của chi thuộc về vua, dầu đến một sợi chỉ, hay là một sợi dây giày đi
nữa, tôi cũng chẳng hề lấy; e vua nói được rằng: Nhờ ta làm cho Áp-ram giàu có,
24. chỉ món chi của những người trẻ đã ăn, và phần của các người cùng đi với
tôi, là A-ne, Ếch-côn và Mam-rê; về phần họ, họ hãy lấy phần của họ đi.
Sáng-thế Ký
15 chọn đoạn khác
1. Sau các việc đó, trong sự hiện thấy có lời Ðức Giê-hô-va phán cùng Áp-ram
rằng: Hỡi Áp-ram! ngươi chớ sợ chi; ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngươi; phần
thưởng của ngươi sẽ rất lớn.
2. Áp-ram thưa rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va, Chúa sẽ cho tôi chi? Tôi sẽ chết không
con, kẻ nối nghiệp nhà tôi là Ê-li-ê-se, người Ða-mách.
3. Áp-ram lại nói rằng: Nầy, Chúa làm cho tôi tuyệt-tự; một kẻ tôi tớ sanh đẻ
tại nhà tôi sẽ làm người kế nghiệp tôi.
4. Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Áp-ram rằng: Kẻ đó chẳng phải là kẻ kế nghiệp
ngươi đâu, nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi.
5. Ðoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu
ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi
cũng sẽ như vậy.
6. Áp-ram tin Ðức Giê-hô-va, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người.
7. Ðức Giê-hô-va lại phán cùng Áp-ram rằng: Ta là Ðức Giê-hô-va, Ðấng đã dẫn
ngươi ra khỏi U-rơ, thuộc về xứ Canh-đê, để ban cho ngươi xứ nầy làm sản nghiệp.
8. Áp-ram thưa rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va, bởi cớ chi tôi biết rằng tôi sẽ được xứ
nầy làm sản nghiệp?
9. Ðức Giê-hô-va đáp rằng: Ngươi hãy bắt đem cho ta một con bò cái ba tuổi, một
con dê cái ba tuổi, một con chiên đực ba tuổi, một con cu rừng và một con bò câu
con.
10. Áp-ram bắt đủ các loài vật đó, mổ làm hai, để mỗi nửa con mỗi bên đối với
nhau, nhưng không mổ các loài chim ra làm hai.
11. Có những chim ăn mồi bay đáp trên mấy con thú chết đó, song Áp-ram đuổi nó
đi.
12. Vả, khi mặt trời vừa lặn, thì Áp-ram ngủ mê; nầy một cơn kinh hãi, tối tăm
nhập vào mình người.
13. Ðức Giê-hô-va phán cùng Áp-ram rằng: Phải biết rằng, dòng dõi ngươi sẽ ngụ
trong một xứ chẳng thuộc về chúng nó, làm tôi mọi cho dân xứ đó và bị họ hà hiếp
bốn trăm năm.
14. Nhưng, ta sẽ đoán phạt dân mà dòng dõi ngươi sẽ làm tôi mọi đó; rồi khi ra
khỏi xứ, thì sẽ được của cải rất nhiều.
15. Còn ngươi sẽ bình yên về nơi tổ phụ, hưởng lộc già sung sướng, rồi qua đời.
16. Ðến đời thứ tư, dòng dõi ngươi sẽ trở lại đây, vì tội lỗi của dân A-mô-rít
chưa được đầy dẫy.
17. Khi mặt trời đã lặn, thình lình sự tối mịt giáng xuống; kìa có một lò lớn
khói lên, và một ngọn lửa lòe ngang qua các xác thịt đã mổ,
18. Ngày đó, Ðức Giê-hô-va lập giao ước cùng Áp-ram, mà phán rằng: Ta cho dòng
dõi ngươi xứ nầy, từ sông Ê-díp-tô cho đến sông lớn kia, tức sông Ơ-phơ-rát,
19. là xứ của các dân Kê-nít, Kê-nê-sít, Cát-mô-nít
20. Hê-tít, Phê-rê-sít, Rê-pha-im,
21. A-mô-nít, Ca-na-an, Ghi-ê-ga-sít và Giê-bu-sít.
Sáng-thế Ký
16 chọn đoạn khác
1. Vả, Sa-rai, vợ của Áp-ram, vẫn không sanh con; nàng có một con đòi Ê-díp-tô,
tên là A-ga.
2. Sa-rai nói cùng Áp-ram rằng: Nầy, Ðức Giê-hô-va đã làm cho tôi son sẻ, vậy
xin ông hãy lại ăn ở cùng con đòi tôi, có lẽ tôi sẽ nhờ nó mà có con chăng.
Áp-ram bèn nghe theo lời của Sa-rai.
3. Sau khi Áp-ram đã trú ngụ mười năm tại xứ Ca-na-an, Sa-rai, vợ người, bắt
A-ga, là con đòi Ê-díp-tô mình, đưa cho chồng làm hầu.
4. Người lại cùng con đòi, thì nàng thọ thai. Khi con đòi thấy mình thọ thai,
thì khinh bỉ bà chủ mình.
5. Sa-rai nói cùng Áp-ram rằng: Ðiều sỉ nhục mà tôi bị đây đổ lại trên ông. Tôi
đã phú con đòi tôi vào lòng ông, mà từ khi nó thấy mình thọ thai, thì lại khinh
tôi. Cầu Ðức Giê-hô-va xét đoán giữa tôi với ông.
6. Áp-ram đáp cùng Sa-rai rằng: Nầy, con đòi đó ở trong tay ngươi, phân xử thể
nào, mặc ý ngươi cho vừa dạ. Ðoạn Sa-rai hành hạ A-ga, thì nàng trốn đi khỏi mặt
người.
7. Nhưng thiên sứ của Ðức Giê-hô-va thấy nàng ở trong đồng vắng gần bên suối
nước, nơi mé đường đi và Su-rơ,
8. thì hỏi rằng: Hỡi A-ga, đòi của Sa-rai, ngươi ở đâu đến, và sẽ đi đâu? Nàng
thưa rằng: Tôi lánh xa mặt Sa-rai, chủ tôi.
9. Thiên sứ của Ðức Giê-hô-va dạy nàng rằng: Ngươi hãy trở về chủ ngươi, và chịu
lụy dưới tay người.
10. Thiên sứ của Ðức Giê-hô-va lại phán rằng: Ta sẽ thêm dòng dõi ngươi nhiều,
đông đảo đến đỗi người ta đếm không đặng nữa.
11. Lại phán rằng: Nầy, ngươi đương có thai, sẽ sanh một trai, đặt tên là
Ích-ma-ên; vì Ðức Giê-hô-va có nghe sự sầu khổ của ngươi.
12. Ðứa trẻ đó sẽ như một con lừa rừng; tay nó sẽ địch cùng mọi người, và tay
mọi người sẽ địch lại nó. Nó sẽ ở về phía đông đối mặt cùng hết thảy anh em
mình.
13. Nàng gọi Ðức Giê-hô-va mà đã phán cùng mình, danh là "Ðức Chúa Trời hay đoái
xem," vì nàng nói rằng: Chính tại đây, tôi há chẳng có thấy được Ðắng đoái xem
tôi sao?
14. Bởi cớ ấy, người ta gọi cái giếng nầy ở về giữa khoảng của Ca-đe và Bê-re,
là giếng La-chai-Roi.
15. Rồi nàng A-ga sanh được một con trai; Áp-ram đặt tên đứa trai đó là
Ích-ma-ên.
16. Vả lại, khi A-ga sanh Ích-ma-ên cho Áp-ram, thì Áp-ram đã được tám mươi sáu
tuổi.
Sáng-thế Ký
17 chọn đoạn khác
1. Khi Áp-ram được chín mươi chín tuổi, thì Ðức Giê-hô-va hiện đến cùng người và
phán rằng: Ta là Ðức Chúa Trời toàn năng; ngươi hãy đi ở trước mặt ta làm một
người trọn vẹn.
2. Ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, làm cho dòng dõi ngươi thêm nhiều quá-bội.
3. Áp-ram bèn sấp mình xuống đất; Ðức Chúa Trời phán cùng người rằng:
4. Nầy, phần ta đây, ta đã lập giao ước cùng ngươi; vậy ngươi sẽ trở nên tổ phụ
của nhiều dân tộc.
5. Thiên hạ chẳng còn gọi ngươi là Áp-ram nữa, nhưng tên ngươi là Áp-ra-ham, vì
ta đặt ngươi làm tổ phụ của nhiều dân tộc.
6. Ta sẽ làm cho ngươi sanh sản rất nhiều, làm cho ngươi thành nhiều nước; và
các vua sẽ do nơi ngươi mà ra.
7. Ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, và cùng hậu tự ngươi trải qua các đời; ấy là
giao ước đời đời, hầu cho ta làm Ðức Chúa Trời của ngươi và của dòng dõi ngươi.
8. Ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi xứ mà ngươi đương kiều ngụ, tức toàn xứ
Ca-na-an, làm cơ nghiệp đời đời. Vậy, ta sẽ làm Ðức Chúa Trời của họ.
9. Ðoạn, Ðức Chúa Trời phán cùng Áp-ra-ham rằng: Phần ngươi cùng dòng dõi ngươi,
từ đời nọ sang đời kia, sẽ giữ sự giao ước của ta.
10. Mỗi người nam trong vòng các ngươi phải chịu phép cắt bì; ấy là giao ước mà
các ngươi phải giữ, tức giao ước lập giữa ta và các ngươi, cùng dòng dõi sau
ngươi.
11. Các ngươi phải chịu cắt bì; phép đó sẽ là dấu hiệu của sự giao ước giữa ta
cùng các ngươi.
12. Trải qua các đời, mỗi người nam trong vòng các ngươi, hoặc sanh đẻ tại nhà,
hoặc đem tiền ra mua nơi người ngoại bang, chẳng thuộc về dòng giống ngươi, hễ
lên được tám ngày rồi, đều phải chịu phép cắt bì.
13. Chớ khá bỏ làm phép cắt bì cho ai sanh tại trong nhà ngươi, hay đem tiền ra
mua về; sự giao ước của ta sẽ lập đời đời trong xác thịt của các ngươi vậy.
14. Một người nam nào không chịu phép cắt bì nơi xác thịt mình, sẽ bị truất ra
khỏi ngoài dân sự mình; người đó là kẻ bội lời giao ước ta.
15. Ðức Chúa Trời phán cùng Áp-ra-ham rằng: còn Sa-rai, vợ ngươi, chớ gọi là
Sa-rai nữa; nhưng Sa-ra là tên người đó.
16. Ta sẽ ban phước cho nàng, lại do nơi nàng ta sẽ cho ngươi một con trai, Ta
sẽ ban phước cho nàng, nàng sẽ làm mẹ các dân tộc; những vua của các dân tộc sẽ
do nơi nàng mà ra.
17. Áp-ra-ham bèn sấp mình xuống đất, cười và nói thầm rằng: Hồ dễ người đã trăm
tuổi rồi, mà sanh con được chăng? Còn Sa-ra, tuổi đã chín mươi, sẽ sanh sản được
sao?
18. Áp-ra-ham thưa cùng Ðức Chúa Trời rằng: Chớ chi Ích-ma-ên vẫn được sống
trước mặt Ngài!
19. Ðức Chúa Trời bèn phán rằng: Thật vậy, Sa-ra vợ ngươi, sẽ sanh một con trai,
rồi ngươi đặt tên là Y-sác. Ta sẽ lập giao ước cùng nó, để làm giao ước đời đời
cho dòng dõi của nó.
20. Ta cũng nhậm lời ngươi xin cho Ích-ma-ên. Nầy, ta ban phước cho người, sẽ
làm cho người sanh sản và thêm nhiều quá-bội; người sẽ là tổ phụ của mười hai vị
công-hầu, và ta làm cho người thành một dân lớn.
21. Nhưng ta sẽ lập giao ước ta cùng Y-sác, độ khoảng nầy năm tới Sa-ra phải
sanh cho ngươi.
22. Khi Ðức Chúa Trời đã phán xong, thì Ngài từ Áp-ra-ham ngự lên.
23. Chánh ngày đó, Áp-ra-ham bắt Ích-ma-ên, con trai mình, và hết thảy các người
nam trong nhà, hoặc sanh tại đó, hoặc đem tiền ra mua về, mà làm phép cắt bì
cho, y như lời Ðức Chúa Trời đã phải dặn.
24. Vả, khi Áp-ra-ham chịu phép cắt bì, thì đã được chín mươi chín tuổi;
25. còn Ích-ma-ên, con người, khi chịu phép cắt bì, thì được mười ba tuổi.
26. Cũng trong một ngày đó, Áp-ra-ham và Ích-ma-ên chịu phép cắt bì,
27. và mọi người nam trong nhà, hoặc sanh tại đó, hoặc đem tiền ra mua nơi người
ngoại bang, đồng chịu phép cắt bì với người.
Sáng-thế Ký
18 chọn đoạn khác
1. Ðức Giê-hô-va hiện ra cùng Áp-ra-ham nơi lùm cây dẻ bộp của Mam-rê, đương khi
ngồi nơi cửa trại lúc trời nắng ban ngày.
2. Áp-ra-ham nhướng mắt lên, thấy ba người đứng trước mặt. Vừa khi thấy, bèn bắt
từ cửa trại chạy đến trước mặt ba người đó, sấp mình xuống đất,
3. và thưa rằng: Lạy Chúa, nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin hãy ghé lại nhà
kẻ tôi tớ Chúa, đừng bỏ đi luôn.
4. Xin các đấng hãy cho phép người ta lấy chút nước rửa chơn các đấng, và xin
hãy nằm nghỉ mát dưới cội cây nầy.
5. Tôi sẽ đi đem một miếng bánh cho các đấng ăn vững lòng, rồi sẽ dời gót lên
đường; vì cớ ấy, nên mới quá bộ lại nhà kẻ tôi tớ các đấng vậy. Các đấng phán
rằng: Hãy cứ việc làm như ngươi đã nói.
6. Ðoạn, Áp-ra-ham lật đật vào trại đến cùng Sa-ra mà rằng: Hãy mau mau lấy ba
đấu bột lọc nhồi đi, rồi làm bánh nhỏ.
7. Áp-ra-ham bèn chạy lại bầy, bắt một con bò con ngon, giao cho đầy tớ mau mau
nấu dọn;
8. rồi lấy mỡ-sữa và sữa cùng con bò con đã nấu xong, dọn ngay trước mặt các
đấng; còn người thì đứng hầu trước mặt, dưới cội cây. Vậy các đấng đó bèn ăn.
9. Các đấng hỏi Áp-ra-ham rằng: Sa-ra, vợ ngươi, ở đâu? Ðáp rằng: Kìa, nàng ở
trong trại kia.
10. Một đấng nói rằng: Trong độ một năm nữa, ta sẽ trở lại đây với ngươi không
sai, và chừng đó, Sa-ra, vợ ngươi, sẽ có một con trai. Sa-ra ở nơi cửa trại sau
lưng đấng đó, nghe các lời nầy.
11. Vả, Áp-ra-ham cùng Sa-ra đã già, tuổi tác đã cao; Sa-ra không còn chi nữa
như thế thường người đờn bà.
12. Sa-ra cười thầm mà rằng: Già như tôi thế nầy, dễ còn được điều vui đó sao?
Còn chúa tôi cũng đã già rồi!
13. Ðức Giê-hô-va phán hỏi Áp-ra-ham rằng: Cớ sao Sa-ra cười như vậy mà rằng: Có
quả thật rằng tôi già đến thế nầy lại còn sanh sản chăng?
14. Há điều chi Ðức Giê-hô-va làm không được chăng? Ðến kỳ đã định, trong một
năm nữa, ta sẽ trở lại cùng ngươi, và Sa-ra sẽ có một con trai.
15. Vì Sa-ra sợ, nên chối mà thưa rằng: Tôi có cười đâu! Nhưng Ngài phán rằng:
Thật ngươi có cười đó!
16. Các đấng đều đứng dậy mà đi, ngó về phía, Sô-đôm. Áp-ra-ham cũng theo để
tiễn bước các đấng.
17. Ðức Giê-hô-va phán rằng: Lẽ nào ta giấu Áp-ra-ham điều chi ta sẽ làm sao?
18. vì Áp-ra-ham chắc sẽ được trở nên một dân lớn và cường thạnh; các dân tộc
trên thế gian đều sẽ nhờ người mà được phước.
19. Ta đã chọn người đặng người khiến dạy các con cùng nội nhà người giữ theo
đạo Ðức Giê-hô-va, làm các điều công bình và ngay thẳng; thế thì, Ðức Giê-hô-va
sẽ làm cho ứng nghiệm lời Ngài đã hứa cùng Áp-ra-ham.
20. Ðức Giê-hô-va phán rằng: Tiếng kêu oan về Sô-đôm và Gô-mô-rơ thật là quá,
tội lỗi các thành đó thật là trọng.
21. Ta muốn ngự xuống, để xem xét chúng nó ăn ở có thật như tiếng đã kêu thấu
đến ta chăng; nếu chẳng thật, thì ta sẽ biết.
22. Vậy, thì đấng bèn từ đó đi qua hướng Sô-đôm; nhưng Áp-ra-ham hãy còn đứng
chầu trước mặt Ðức Giê-hô-va.
23. Áp-ra-ham lại gần và thưa rằng: Chúa sẽ diệt người công bình luôn với người
độc ác sao?
24. Ngộ trong thành có năm mươi người công bình, Chúa cũng sẽ diệt họ hết sao?
Há chẳng tha thứ cho thành đó vì cớ năm mươi người công bình ở trong sao?
25. Không lẽ nào Chúa làm điều như vậy, diệt người công bình luôn với kẻ độc ác;
đến đỗi kể người công bình cũng như người độc ác. Không, Chúa chẳng làm điều như
vậy bao giờ! Ðấng đoán xét toàn thế gian, há lại không làm sự công bình sao?
26. Ðức Giê-hô-va phán rằng: Nếu ta tìm được trong Sô-đôm năm mươi người công
bình, vì tình thương bấy nhiêu người đó ta sẽ tha hết cả thành.
27. Áp-ra-ham lại thưa rằng: mặc dầu tôi đây vốn là tro bụi, song tôi cũng dám
cả gan thưa lại cùng Chúa.
28. Hãy trong năm mươi người công bình rủi thiếu hết năm; vì cớ năm người thiếu
Chúa sẽ diệt hết cả thành chăng? Ngài trả lời rằng: Nếu ta tìm được có bốn mươi
lăm người, ta chẳng diệt thành đâu.
29. Áp-ra-ham cứ thưa rằng: Ngộ trong thành chỉ có bốn mươi người công bình, thì
sẽ ra sao? Ngài phán rằng: Ta sẽ chẳng diệt đâu, vì tình thương bốn mươi nầy.
30. Áp-ra-ham cứ tiếp: Tôi xin Chúa đừng giận, thì tôi sẽ thưa: Ngộ trong đó chỉ
có ba mươi người, thì sẽ ra sao? Ngài phán: Nếu ta tìm trong đó có ba mươi
người, thì ta chẳng diệt đâu.
31. Áp-ra-ham thưa rằng: Tôi đây cũng cả gan thưa cùng Chúa: Nếu chỉ có hai mươi
người, thì lại làm sao? Ngài rằng: Vì tình thương hai mươi người đó, ta sẽ chẳng
diệt thành đâu.
32. Áp-ra-ham lại thưa: Xin Chúa đừng giận, để cho tôi thưa chỉ một lần nầy nữa:
Ngộ chỉ có mười người, thì nghĩ làm sao? Ngài phán rằng: Ta cũng sẽ chẳng diệt
thành đâu, vì tình thương mười người đó.
33. Khi Ðức Giê-hô-va phán xong cùng Áp-ra-ham, thì Ngài ngự đi; còn Áp-ra-ham
trở về trại mình.
Sáng-thế Ký
19 chọn đoạn khác
1. Lối chiều, hai thiên sứ đến Sô-đôm; lúc đó, Lót đương ngồi tại cửa thành. Khi
Lót thấy hai thiên sứ đến, đứng dậy mà đón rước và sấp mình xuống đất.
2. Người thưa rằng: Nầy, lạy hai chúa, xin hãy đến ở nhà của kẻ tôi tớ, và hãy
nghỉ đêm tại đó. Hai chúa hãy rửa chơn, rồi sáng mai thức dậy lên đường. Hai
thiên sứ phán rằng: Không, đêm nầy ta sẽ ở ngoài đường.
3. Nhưng Lót cố mời cho đến đỗi hai thiên sứ phải đi lại vào nhà mình. Người
dâng một bữa tiệc, làm bánh không men, và hai thiên sứ bèn dùng tiệc.
4. Hai thiên sứ chưa đi nằm, mà các người nam ở Sô-đôm, từ trẻ đến già, tức cả
dân, đều chạy đến bao chung quanh nhà.
5. Bọn đó gọi Lót mà hỏi rằng: Những khác đã vào nhà ngươi buổi chiều tối nay ở
đâu? Hãy dẫn họ ra đây, hầu cho chúng ta được biết.
6. Lót bèn ra đến cùng dân chúng ở ngoài cửa, rồi đóng cửa lại,
7. và nói cùng họ rằng: Nầy, tôi xin anh em đừng làm điều ác đó!
8. Ðây, tôi sẵn có hai con gái chưa chồng, tôi sẽ đưa chúng nó cho anh em, rồi
mặc tình anh em tính làm sao tùy ý; miễn đừng làm cho hại cho hai người kia; vì
cớ đó, nên họ đến núp bóng mái nhà tôi.
9. Bọn dân chúng nói rằng: Ngươi hãy tránh chỗ khác! Lại tiếp rằng: Người nầy
đến đây như kẻ kiều ngụ, lại muốn đoán xét nữa sao! Vậy, thôi! chúng ta sẽ đãi
ngươi bạc-tệ hơn hai khách kia. Ðoạn, họ lấn ép Lót mạnh quá, và tràn đến đặng
phá cửa.
10. Nhưng hai thiên sứ giơ tay ra, đem Lót vào nhà, và đóng cửa lại,
11. đoạn, hành phạt bọn dân chúng ở ngoài cửa, từ trẻ đến già, đều quáng lòa
mắt, cho đến đỗi tìm cửa mệt mà không được.
12. Hai thiên sứ bèn hỏi Lót rằng: Ngươi còn có ai tại đây nữa chăng? Rể, con
trai, con gái và ai trong thành thuộc về ngươi, hãy đem ra khỏi hết đi!
13. Chúng ta sẽ hủy diệt chỗ nầy, vì tiếng kêu oan về dân thành nầy đã thấu lên
đến Ðức Giê-hô-va, nên Ngài sai chúng ta xuống mà hủy diệt.
14. Lót bèn đi ra và nói cùng rể đã cưới con gái mình rằng: Hãy chổi dậy, đi ra
khỏi chốn nầy, vì Ðức Giê-hô-va sẽ hủy diệt thành. Nhưng các chàng rể tưởng
người nói chơi.
15. Ðến sáng, hai thiên sứ hối Lót và phán rằng: Hãy thức dậy, dẫn vợ và hai con
gái ngươi đương ở đây ra, e khi ngươi cũng chết lây về việc hình phạt của thành
nữa chăng.
16. Nhưng Lót lần lữa; vì cớ Ðức Giê-hô-va thương xót Lót, nên hai thiên sứ nắm
lấy tai kéo người, vợ cùng hai con gái người, và dẫn ra khỏi thành.
17. Vả, khi hai thiên sứ dẫn họ ra khỏi rồi, một trong hai vì nói rằng: Hãy chạy
trốn cứu lấy mạng, đừng ngó lại sau và cũng đừng dừng bước lại nơi nào ngoài
đồng bằng; hãy chạy trốn lên núi, kẻo phải bỏ mình chăng.
18. Lót đáp lại rằng: Lạy Chúa, không được!
19. Nầy, tôi tớ đã được ơn trước mặt Chúa; Chúa đã tỏ lòng nhơn từ rất lớn cùng
tôi mà cứu tròn sự sống tôi. Nhưng tôi chạy trốn lên núi không kịp trước khi tai
nạn đến, thì tôi phải chết.
20. Kìa, thành kia đã nhỏ, lại cũng gần đặng tôi có thế ẩn mình. Ôi! chớ chi
Chúa cho tôi ẩn đó đặng cứu tròn sự sống tôi. Thành nầy há chẳng phải nhỏ sao?
21. Thiên sứ phán rằng: Ðây, ta ban ơn nầy cho ngươi nữa, sẽ không hủy diệt
thành của ngươi đã nói đó đâu.
22. Mau mau hãy lại ẩn đó, vì ta không làm chi được khi ngươi chưa vào đến nơi.
Bởi cớ ấy, nên người ta gọi tên thành nầy là Xoa.
23. Khi mặt trời mọc lên khỏi đất, thì Lót vào đến thành Xoa.
24. Ðoạn, Ðức Giê-hô-va giáng mưa diêm sanh và lửa từ nơi Ngài trên trời sa
xuống Sô-đôm và Gô-mô-rơ,
25. hủy diệt hai thành nầy, cả đồng bằng, hết thảy dân sự cùng các cây cỏ ở nơi
đất đó.
26. Nhưng vợ của Lót quay ngó lại đặng sau mình, nên hóa ra một tượng muối.
27. Áp-ra-ham dậy sớm, đi đến nơi mà người đã đứng chầu Ðức Giê-hô-va,
28. ngó về hướng Sô-đôm và Gô-mô-rơ, cùng khắp xứ ở đồng bằng, thì thấy từ dưới
đất bay lên một luồng khói, như khói của một lò lửa lớn.
29. Vả, khi Ðức Chúa Trời hủy diệt các thành nơi đồng bằng, tức là thành Lót ở,
thì nhớ đến Áp-ra-ham, cứu Lót ra khỏi chốn phá tan đó.
30. Lót ở Xoa thì sợ hãi, nên cùng hai con gái mình bỏ đó mà lên núi, ở trong
một hang đá kia.
31. Cô lớn nói cùng em mình rằng: Cha ta đã già, mà không còn ai trên mặt đất
đến sánh duyên cùng ta theo như thế thường thiên hạ.
32. Hè! chúng ta hãy phục rượu cho cha, và lại nằm cùng người, để lưu truyền
dòng giống cha lại.
33. Ðêm đó, hai nàng phục rượu cho cha mình; nàng lớn đến nằm cùng cha; nhưng
người chẳng hay lúc nào nàng nằm, lúc nào nàng dậy hết.
34. Qua ngày mai, chị nói cùng em rằng: Nầy, đêm hôm qua ta đã nằm cùng cha rồi;
hôm nay chúng ta hãy phục rượu cho cha nữa, rồi em hãy lại nằm cùng người, để
lưu truyền dòng giống cha lại.
35. Ðêm đó, hai nàng lại phục rượu cho cha mình nữa, rồi nàng nhỏ thức dậy lại
nằm cùng cha; nhưng người chẳng hay lúc nào nàng nằm, lúc nào nàng dậy hết.
36. Vậy, hai con gái của Lót do nơi cha mình mà thọ thai.
37. Nàng lớn sanh được một con trai, đặt tên là Mô-áp; ấy là tổ phụ của dân
Mô-áp đến bây giờ.
38. Người em cũng sanh đặng một con trai, đặt trên là Bên-Am-mi; ấy là tổ phụ
của dân Am-môn đến bây giờ.
Sáng-thế Ký
20 chọn đoạn khác
1. Áp-ra-ham từ đó đi đến miền Nam, kiều ngụ tại Ghê-ra, ở về giữa khoảng Ca-đe
và Su-rơ.
2. Áp-ra-ham nói về Sa-ra, vợ mình rằng: Nó là em gái tôi. A-bi-mê-léc, vua
Ghê-ra sai người bắt Sa-ra.
3. Nhưng trong cơn chiêm bao ban đêm, Ðức Chúa Trời hiện đến cùng vua
A-bi-mê-léc mà phán rằng: Nầy, ngươi sẽ chết bởi cớ người đờn bà mà ngươi đã bắt
đến; vì nàng có chồng rồi.
4. Vả, vua A-bi-mê-léc chưa đến gần người đó, nên thưa rằng: Lạy Chúa, Chúa há
sẽ hủy diệt cả một dân công bình chăng?
5. Người đó há chẳng nói với tôi rằng: ấy là em gái tôi chăng? và chánh người nữ
há chẳng nói rằng: ấy là anh tôi sao? Tôi làm sự nầy bởi lòng ngay thẳng và tay
thanh khiết của tôi.
6. Trong cơn chiêm bao, Ðức Chúa Trời phán nữa rằng: Ta cũng biết ngươi vì lòng
ngay thẳng mà làm điều đó; bởi cớ ấy, ta mới ngăn trở ngươi phạm tội cùng ta, và
không cho động đến người đó.
7. Bây giờ, hãy giao đờn bà đó lại cho chồng nó, vì chồng nó là một đấng tiên
tri, sẽ cầu nguyện cho ngươi, thì ngươi mới được sống. Còn như không giao lại,
thì phải biết rằng ngươi và hết thảy ai thuộc về ngươi quả hẳn sẽ chết.
8. Vua A-bi-mê-léc dậy sớm, đòi các tôi tớ mình đến, thuật lại hết mọi lời, thì
họ lấy làm kinh ngạc.
9. Rồi, A-bi-mê-léc đòi Áp-ra-ham mà nói rằng: Ngươi đã làm gì cho ta vậy? Ta có
làm điều chi mất lòng chăng mà ngươi làm cho ta và cả nước phải bị một việc phạm
tội lớn dường nầy? Ðối cùng ta, ngươi đã làm những việc không nên làm đó.
10. Vua A-bi-mê-léc lại nói cùng Áp-ra-ham rằng: Ngươi có ý gì mà làm như vậy?
11. Áp-ra-ham đáp: Tôi tự nghĩ rằng: Trong xứ nầy thật không có ai kính sợ Ðức
Chúa Trời, thì họ sẽ vì cớ vợ tôi mà giết tôi chăng.
12. Nhưng nó cũng thật là em gái tôi, em một cha khác mẹ; và tôi cưới nó làm vợ.
13. Khi Ðức Chúa Trời làm cho tôi phải lưu lạc xa nhà cha, thì tôi có nói với
nàng rằng: Nầy là ơn của ngươi sẽ làm cho ta: Hễ chỗ nào chúng ta sẽ đi đến, hãy
nói về ta: Ấy là anh tôi.
14. Ðoạn, vua A-bi-mê-léc đem chiên và bò, tôi trai cùng tớ gái cho Áp-ra-ham,
và trả Sa-ra vợ người lại, mà phán rằng:
15. Nầy, xứ ta sẵn dành cho ngươi; ngươi thích đâu thì ở đó.
16. Rồi vua phán cùng Sa-ra rằng: Ðây, ta ban cho anh ngươi một ngàn miếng bạc;
số tiền đó dùng cho ngươi như một bức màn che trước mắt về mọi việc đã xảy ra
cùng ngươi; và mọi người đều sẽ cho ngươi là công bình.
17. Áp-ra-ham cầu xin Ðức Chúa Trời, thì Ngài chữa bịnh cho vua A-bi-mê-léc, vợ
cùng các con đòi người; vậy, họ đều có con.
18. Vả, lúc trước, vì vụ Sa-ra, vợ Áp-ra-ham, nên Ðức Giê-hô-va làm cho cả nhà
A-bi-mê-léc đều son sẻ.
Sáng-thế Ký
21 chọn đoạn khác
1. Ðức Giê-hô-va đến viếng Sa-ra, theo như lời Ngài đã phán, và làm cho nàng như
lời Ngài đã nói.
2. Sa-ra thọ thai, sanh một con trai cho Áp-ra-ham trong khi tuổi đã già, đúng
kỳ Ðức Chúa Trời đã định.
3. Áp-ra-ham đặt tên đứa trai mà Sa-ra đã sanh cho mình là Y-sác.
4. Ðúng tám ngày, Áp-ra-ham làm phép cắt bì cho Y-sác theo như lời Ðức Chúa Trời
đã phán dặn.
5. Vả, khi Y-sác ra đời, thì Áp-ra-ham đã được một trăm tuổi.
6. Sa-ra nói rằng: Ðức Chúa Trời làm cho tôi một việc vui cười; hết thảy ai hay
được cũng sẽ vui cười về sự của tôi.
7. Lại nói rằng: Há ai dám nói với Áp-ra-ham rằng Sa-ra sẽ cho con bú ư? vì tôi
đã sanh một đứa trai trong lúc người già yếu rồi.
8. Ðứa trẻ lớn lên, thì thôi bú. Chánh ngày Y-sác thôi bú, Áp-ra-ham bày một
tiệc lớn ăn mừng.
9. Sa-ra thấy đứa trai của A-ga, người Ê-díp-tô, đã sanh cho Áp-ra-ham, cười
cợt,
10. thì người nói với Áp-ra-ham rằng: Hãy đuổi con đòi với con nó đi đi, vì đứa
trai của con đòi nầy sẽ chẳng được kế nghiệp cùng con trai tôi là Y-sác đâu.
11. Lời nầy lấy làm buồn lòng Áp-ra-ham lắm, vì cớ con trai mình.
12. Nhưng Ðức Chúa Trời phán cùng Áp-ra-ham rằng: Ngươi chớ buồn bực vì con trai
và con đòi ngươi. Sa-ra nói thể nào, hãy nghe theo tiếng người nói; vì do nơi
Y-sác sẽ sanh ra dòng dõi lưu danh ngươi.
13. Ta cũng sẽ làm cho đứa trai của con đòi trở nên một dân, vì nó cũng do một
nơi ngươi mà ra.
14. Áp-ra-ham dậy sớm, lấy bánh và một bầu nước, đưa cho A-ga; để các món đó
trên vai nàng, và giao đứa trai cho nàng, rồi đuổi đi. Nàng ra đi, đi dông dài
trong đồng vắng Bê-e-Sê-ba.
15. Khi nước trong bầu đã hết, nàng để đứa trẻ dưới một cội cây nhỏ kia,
16. đi ngồi đối diện cách xa xa dài chừng một khoảng tên bắn; vì nói rằng: Ôi!
tôi nỡ nào thấy đứa trẻ phải chết! Nàng ngồi đối diện đó, cất tiếng la khóc.
17. Ðức Chúa Trời nghe tiếng đứa trẻ khóc, thì thiên sứ của Ðức Chúa Trời từ
trên trời kêu nàng A-ga mà phán rằng: Hỡi A-ga! Ngươi có điều gì vậy? Chớ sợ
chi, vì Ðức Chúa Trời đã nghe tiếng đứa trẻ ở đâu đó rồi.
18. Hãy đứng dậy đỡ lấy đứa trẻ và giơ tay nắm nó, vì ta sẽ làm cho nó nên một
dân lớn.
19. Ðoạn, Ðức Chúa Trời mở mắt nàng ra; nàng bèn thấy một cái giếng nước, và đi
lại múc đầy bầu cho đứa trẻ uống.
20. Ðức Chúa Trời vùa giúp đứa trẻ; nó lớn lên, ở trong đồng vắng, có tài bắn
cung.
21. Nó ở tại trong đồng vắng Pha-ran; mẹ cưới cho nó một người vợ quê ở xứ
Ê-díp-tô.
22. Về thuở đó, vua A-bi-mê-léc và Phi-côn, quan tổng binh mình, nói cùng
Áp-ra-ham rằng: Ðức Chúa Trời vùa giúp ngươi trong mọi việc ngươi làm.
23. Vậy bây giờ, hãy chỉ danh Ðức Chúa Trời mà thề rằng: Ngươi sẽ chẳng gạt ta,
con ta cùng dòng giống ta. Nhưng ngươi sẽ đãi ta và xứ ngươi đương trú ngụ, một
lòng tử tế như ta đã đãi ngươi vậy.
24. Áp-ra-ham đáp rằng: Tôi xin thề.
25. Áp-ra-ham phàn nàn cùng vua A-bi-mê-léc về vụ một giếng kia bị đầy tớ người
chiếm đoạt.
26. Vua A-bi-mê-léc bèn nói rằng: Ta chẳng hay ai đã làm nên nông nỗi đó; chính
ngươi chẳng cho ta hay trước; ngày nay ta mới rõ đây mà thôi.
27. Ðoạn, Áp-ra-ham bắt chiên và bò, dâng cho vua A-bi-mê-léc; rồi hai người kết
ước cùng nhau.
28. Áp-ra-ham lựa để riêng ra bảy con chiên tơ trong bầy;
29. thì vua A-bi-mê-léc hỏi rằng: Làm chi để bảy con chiên tơ đó riêng ra vậy?
30. Ðáp rằng: Xin vua hãy nhận lấy bảy con chiên tơ nầy mà chánh tay tôi dâng
cho, đặng làm chứng rằng tôi đã đào cái giếng nầy.
31. Bởi cớ ấy, nên họ đặt tên chỗ nầy là Bê-e-Sê-ba; vì tại đó hai người đều đã
thề nguyện cùng nhau.
32. Vậy, hai người kết ước cùng nhau tại Bê-e-Sê-ba. Ðoạn vua A-bi-mê-léc cùng
quan tổng binh Phi-côn đứng dậy, trở về xứ Phi-li-tin.
33. Áp-ra-ham trồng một cây me tại Bê-e-Sê-ba, và ở đó người cầu khẩn danh Ðức
Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời hằng-hữu.
34. Áp-ra-ham trú ngụ lâu ngày tại xứ Phi-li-tin.
Sáng-thế Ký
22 chọn đoạn khác
1. Khi mọi việc kia đã xong, thì Ðức Chúa Trời thử Áp-ra-ham; Ngài phán rằng:
Hỡi Áp-ra-ham! Người thưa rằng: Có tôi đây.
2. Ðức Chúa Trời phán rằng: Hãy bắt đứa con một ngươi yêu dấu, là Y-sác, và đi
đến xứ Mô-ri-a, nơi đó dâng đứa con làm của lễ thiêu ở trên một hòn núi kia mà
ta sẽ chỉ cho.
3. Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem hai đầy tớ và con mình, là Y-sác, cùng đi;
người cũng chặt củi để dùng về của lễ thiêu, rồi đi đến nơi mà Ðức Chúa Trời đã
truyền dạy.
4. Qua đến ngày thứ ba, Áp-ra-ham nhướng mắt lên thấy nơi đó ở lối đằng xa,
5. thì nói cùng hai kẻ đầy tớ rằng: Hãy ở lại đây với con lừa; ta cùng đứa trẻ
sẽ đi đến chốn kia đặng thờ phượng, rồi sẽ trở lại với hai ngươi.
6. Áp-ra-ham lấy củi về của lễ thiêu, chất trên Y-sác, con mình; rồi người cầm
lửa và dao trong tay, và cả hai cha con đồng đi.
7. Y-sác bèn nói cùng Áp-ra-ham, cha mình rằng: Hỡi Cha! Người đáp: Con ơi! cha
đây. Y-sác nói: Củi đây, lửa đây, nhưng chiên con đâu có đặng làm của lễ thiêu?
8. Áp-ra-ham rằng: Con ơi! chính Ðức Chúa Trời sẽ sắm sẵn lấy chiên con đặng
dùng làm của lễ thiêu; rồi cả hai cha con cứ đồng đi.
9. Họ đến chốn Ðức Chúa Trời đã phán dạy; tại đó, Áp-ra-ham lập bàn thờ, chất
củi lên, trói Y-sác con mình lại, để lên đống củi trên bàn thờ.
10. Áp-ra-ham bèn giơ tay ra cầm lấy giao đặng giết con mình.
11. Thiên sứ của Ðức Giê-hô-va từ trên trời kêu xuống mà rằng: Hỡi Áp-ra-ham,
Áp-ra-ham! Người thưa rằng: Có tôi đây.
12. Thiên sứ phán rằng: Ðừng tra tay vào mình con trẻ và chớ làm chi hại đến nó;
vì bây giờ ta biết rằng ngươi thật kính sợ Ðức Chúa Trời, bởi cớ không tiếc với
ta con ngươi, tức con một ngươi.
13. Áp-ra-ham nhướng mắt lên, xem thấy sau lưng một con chiên đực, sừng mắc
trong bụi cây, bèn bắt con chiên đực đó dâng làm của lễ thiêu thay cho con mình.
14. Áp-ra-ham gọi chỗ đó là Giê-hô-va Di-rê. Bởi cớ ấy, ngày nay có tục ngữ
rằng: Trên núi của Ðức Giê-hô-va sẽ có sắm sẵn.
15. Thiên sứ của Ðức Giê-hô-va từ trên trời kêu Áp-ra-ham lần thứ nhì mà rằng:
16. Ðức Giê-hô-va phán rằng: Vì ngươi đã làm điều đó, không tiếc con ngươi, tức
con một ngươi, thì ta lấy chánh mình ta mà thề rằng:
17. sẽ ban phước cho ngươi, thêm dòng dõi ngươi nhiều như sao trên trời, đông
như cát bờ biển, và dòng dõi đó sẽ chiếm được cửa thành quân nghịch.
18. Bởi vì ngươi đã vâng theo lời dặn ta, nên các dân thế gian đều sẽ nhờ dòng
dõi ngươi mà được phước.
19. Ðoạn Áp-ra-ham trở về nơi hai người đầy tớ; họ đứng dậy, đồng nhau đi về
Bê-e-Sê-ba. Áp-ra-ham cứ ở tại Bê-e-Sê-ba.
20. Sau các việc đó, người ta thuật lại với Áp-ra-ham tin nầy rằng: Nầy, nàng
Minh-ca cũng sanh con cho em ngươi, là Na-cô.
21. Con trưởng nam là Út-xơ, em trai là Bu-xơ, Kê-mu-ên, cha của A-ram;
22. Kê-sết, Ha-xô, Phin-đát, Dít-láp và Bê-tu-ên;
23. Bê-tu-ên là người sanh Rê-be-ca. Minh-ca sanh tám người con trai đó cho
Na-cô, em của Áp-ra-ham.
24. Còn người vợ nhỏ, tên là Rê-u-ma, cũng sanh con, là Tê-ba, Ga-ham, Ta-hách
và Ma-a-ca.
Sáng-thế Ký
23 chọn đoạn khác
1. Sa-ra hưởng thọ được một trăm hai mươi bảy tuổi. Ấy là bao nhiêu năm của đời
Sa-ra.
2. Sa-ra qua đời tại Ki-ri-át-A-ra-ba, tức là Hếp-rôn, thuộc về xứ Ca-na-an.
Áp-ra-ham đến chịu tang cho Sa-ra và than khóc người.
3. Ðoạn, Áp-ra-ham đứng dậy trước người chết mình và nói cùng dân họ Hếch rằng:
4. Ta là một khách kiều ngụ trong vòng các ngươi; xin hãy cho một nơi mộ địa
trong xứ các ngươi, để chôn người thác của ta.
5. Dân họ Hếch đáp rằng:
6. Lạy chúa, xin hãy nghe chúng tôi: giữa chúng tôi, chúa tức là một quân trưởng
của Ðức Chúa Trời; hãy chôn người chết của chúa nơi mộ địa nào tốt hơn hết của
chúng tôi. Trong bọn chúng tôi chẳng có ai tiếc mộ địa mình, đặng chôn người
chết của chúa đâu.
7. Áp-ra-ham bèn đứng dậy, sấp mình xuống trước mặt các dân của xứ, tức dân họ
Hếch,
8. mà nói rằng: Nếu các ngươi bằng lòng cho chôn người chết ta, thì hãy nghe
lời, và cầu xin Ép-rôn, con của Xô-ha giùm ta,
9. đặng người nhượng cho ta hang đá Mặc-bê-la, ở về tận đầu đồng người, để lại
cho đúng giá, hầu cho ta được trong vòng các ngươi một nơi mộ địa.
10. Vả, Ép-rôn, người Hê-tít, đương ngồi trong bọn dân họ Hếch, đáp lại cùng
Áp-ra-ham trước mặt dân họ Hếch vẫn nghe và trước mặt mọi người đến nơi cửa
thành, mà rằng:
11. Không, thưa chúa, hãy nghe lời tôi: Hiện trước mặt dân tôi, tôi xin dâng cho
chúa cánh đồng, và cũng dâng luôn cái hang đá ở trong đó nữa; hãy chôn người
chết của chúa đi.
12. Áp-ra-ham sấp mình xuống trước mặt dân của xứ,
13. và nói lại cùng Ép-rôn hiện trước mặt dân của xứ đương nghe, mà rằng: Xin
hãy nghe, ta trả giá tiền cái đồng, hãy nhận lấy đi, thì ta mới chôn người chết
ta,
14. Ép-rôn đáp rằng:
15. Thưa chúa, hãy nghe lời tôi: một miếng đất giá đáng bốn trăm siếc-lơ bạc, mà
tôi cùng chúa, thì có giá chi đâu? Xin hãy chôn người chết của chúa đi.
16. Áp-ra-ham nghe theo lời Ép-rôn, trước mặt dân họ Hếch cân bốn trăm siếc-lơ
bạc cho người, là bạc thông dụng nơi các tay buôn bán.
17. Vậy, cái đồng của Ép-rôn, tại Mặc-bê-la, nằm ngang Mam-rê, nghĩa là cái đồng
ruộng hang đá, các cây cối ở trong và chung quanh theo giới hạn đồng,
18. đều trước mặt có các dân họ Hếch cùng mọi người đến cửa thành, nhận chắc cho
Áp-ra-ham làm sản nghiệp.
19. Sau các việc đó, Áp-ra-ham chôn Sa-ra, vợ mình, trong hang đá của đồng
Mặc-bê-la, nằm ngang MNam-rê tại Hếp-rôn, thuộc về xứ Ca-na-an.
20. Ðồng và hang đá đều có các người họ Hếch nhận chắc, để lại cho Áp-ra-ham
dùng làm mộ địa.
Sáng-thế Ký
24 chọn đoạn khác
1. Vả, Áp-ra-ham đã già, tuổi đã cao; trong mọi việc Ðức Giê-hô-va đã ban phước
cho người.
2. Áp-ra-ham nói cùng người đầy tớ ở lâu hơn hết trong nhà mình, có quyền quản
trị các gia tài, mà rằng: Xin hãy đặt tay lên đùi ta,
3. và ta sẽ biểu ngươi chỉ Ðức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của trời và đất, mà
thề rằng: ngươi không cưới một cô nào trong bọn con gái của dân Ca-na-an, tức
giữa dân ấy ta trú ngụ, làm vợ cho con trai ta.
4. Nhưng hãy đi về quê hương ta, trong vòng bà con ta, cưới một người vợ cho
Y-sác, con trai ta.
5. Người đầy tớ thưa rằng: Có lẽ người con gái không khứng theo tôi về xứ nầy;
vậy, có phải tôi dẫn con trai ông đến xứ mà ông đã ra đi khỏi chăng?
6. Áp-ra-ham nói rằng: Hãy cẩn thận, đừng dẫn con ta về xứ đó!
7. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời trên trời, là Ðấng đã đem ta ra khỏi nhà cha ta và xứ
sở ta, có phán và thề rằng: Ta sẽ cho dòng dõi ngươi xứ nầy! Chánh Ngài sẽ sai
thiên sứ đi trước ngươi, và nơi đó ngươi hãy cưới một vợ cho con trai ta.
8. Nếu người con gái không khứng theo, thì ngươi sẽ khỏi mắc lời của ta biểu
ngươi thề; mà dẫu thế nào đi nữa, chớ đem con ta về chốn đó.
9. Ðoạn, người đầy tớ để tay lên đùi Áp-ra-ham chủ mình, và thề sẽ làm theo như
lời người đã dặn biểu.
10. Ðoạn, người đầy tớ bắt mười con lạc đà trong bầy của chủ mình, đem theo đủ
các tài vật của chủ đã giao, rồi đứng dậy đi qua xứ Mê-sô-bô-ta-mi, đến thành
của Na-cô.
11. Người cho lạc đà nằm quì gối xuống nghỉ ở ngoài thành, gần bên một giếng
kia, vào buổi chiều, đến giờ của những con gái ra đi xách nước.
12. Người nói rằng: Hỡi Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi ơi! xin
ngày nay cho tôi gặp điều mà tôi tìm kiếm, và hãy làm ơn cho chủ Áp-ra-ham tôi!
13. Nầy, tôi đứng gần bên giếng nầy, các con gái của dân trong thành sẽ ra đi
xách nước,
14. xin cho người gái trẻ nào mà tôi nói như vầy: "Xin nàng hãy nghiêng bình,
cho tôi uống nhờ hớp nước," mà nàng trả lời rằng: "Hãy uống đi, rồi tôi sẽ cho
các lạc đà ngươi uống nữa," là chánh người mà Chúa đã định cho Y-sác, kẻ tôi tớ
người; và nhờ đó tôi sẽ biết rằng Chúa đã làm ơn cho chủ tôi vậy.
15. Người đầy tớ chưa dứt lời, nầy, nàng Rê-be-ca vác bình trên vai đi ra. Nàng
là con gái của Bê-tu-ên, Bê-tu-ên là con trai của Minh-ca, vợ Na-cô, em trai của
Áp-ra-ham.
16. Người gái trẻ đó thật rất đẹp, còn đồng trinh, chưa gả cho ai. Nàng xuống
giếng nhận đầy bình nước, rồi trở lên.
17. Ðầy tớ bèn chạy lại trước mặt nàng và nói rằng: Xin hãy cho tôi uống một hớp
nước trong bình.
18. Nàng đáp rằng: Thưa chúa, hãy uống đi; rồi nàng lật đật đỡ bình xuống tay và
cho người uống.
19. Khi đỡ cho người uống xong rồi, nàng lại tiếp rằng: Tôi cũng sẽ xách cho mấy
con lạc đà chúa uống nữa, chừng nào uống đã thì thôi.
20. Nàng lật đật đổ nước bình ra máng, chạy xuống giếng xách nước thêm nữa cho
hết thảy các con lạc đà uống.
21. Còn người ngồi làm thinh mà nhìn nàng, để cho biết Ðức Giê-hô-va làm thành
công việc mình đi đây hay chăng.
22. Khi lạc đà vừa thôi uống, người đầy tớ bèn lấy một khoanh vàng nặng được nửa
siếc-lơ và đôi xuyến nặng được mười siếc-lơ,
23. mà nói rằng: Nàng là con ai? xin nói cho tôi biết. Trong nhà cha nàng có chỗ
nào cho tôi ở nghỉ ban đêm chăng?
24. Nàng đáp rằng: Tôi là con gái của Bê-tu-ên, cháu nội của Minh-ca và Na-cô.
25. Rồi lại nói: Nhà chúng tôi có nhiều rơm và cỏ, và cũng có chỗ để cho ở nghỉ
nữa.
26. Người bèn cúi đầu và sấp mình xuống trước mặt Ðức Giê-hô-va,
27. mà nói rằng: Ðáng ngợi khen thay Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của chủ
Áp-ra-ham tôi! Ngài chẳng ngớt thương xót và thành thực đối cùng chủ tôi! Khi
đương đi, Ðức Giê-hô-va dẫn dắt tôi đến nhà anh em của chủ tôi vậy.
28. Người gái trẻ đó chạy về, thuật chuyện nầy lại cho nội nhà mẹ mình.
29. Vả, nàng Rê-be-ca có một anh, tên là La-ban. La-ban chạy đến người đầy tớ đó
ở gần bên giếng.
30. Vừa thấy khoanh vàng và đôi xuyến nơi tay em gái mình, và đã nghe chuyện
Rê-be-ca thuật lại rằng: Người nầy nói vậy! thì đi đến người, đương đứng gần bên
mấy con lạc đà, ở nơi giếng nước,
31. mà thưa rằng: Hởi người đã được Ðức Giê-hô-va ban phước! Xin mời vào. Sao
đứng ngoài nầy vậy? Tôi đã sửa soạn nhà và dọn-dẹp một nơi cho mấy con lạc đà
rồi.
32. Người đầy tớ bèn vào nhà; La-ban cổi yên cho lạc đà, đem cỏ cùng rơm cho các
thú đó; rồi lấy nước đặng rửa chơn cho người đầy tớ và mấy kẻ đi theo.
33. Ðoạn, người nhà bày bữa và mời ăn; nhưng người đầy tớ nói: Không, tôi không
ăn đâu, nếu chưa nói được những điều tôi cần phải nói. La-ban đáp rằng: Hãy nói
đi!
34. Người bèn nói rằng: Tôi là đầy tớ của Áp-ra-ham.
35. Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho chủ tôi bội phần, trở nên thạnh vượng; Ngài
cho chủ tôi chiên, bò, bạc, vàng, tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa.
36. Vả, Sa-ra, vợ chủ tôi, trở về già, có sanh một con trai cho người; người đã
giao gia tài mình lại hết cho con trai đó.
37. Chủ tôi lại có bắt tôi thề rằng: Ngươi chớ cưới cho con trai ta một người vợ
nào trong bọn con gái của dân Ca-na-an, là xứ ta đương trú ngụ;
38. nhưng hãy về nhà cha ta, trong vòng bà con ta, mà cưới cho nó một người vợ
tại đó.
39. Tôi nói cùng chủ tôi rằng: Có lẽ người con gái không khứng theo tôi về.
40. Chủ đáp rằng: Ðức Giê-hô-va là Ðấng ta phục sự sẽ sai thiên sứ theo ngươi,
làm cho thành công việc ngươi đi; và ngươi sẽ cưới cho con trai ta một người vợ
trong vòng bà con ta, tại nhà cha ta.
41. Vậy, nếu khi ngươi đi về bà con ta, mà họ không khứng gả cho, thì ngươi sẽ
được gỡ lời thề nặng của ngươi đã thề cùng ta đó.
42. Ngày nay, khi đi đến giếng kia, tôi có cầu rằng: Lạy Ðức Giê-hô-va, Ðức Chúa
Trời của chủ Áp-ra-ham tôi! Xin đoái đến mà giúp công việc của tôi đi đây cho
được thành!
43. Nầy, tôi ngồi gần bên giếng nầy: cầu xin hễ người gái trẻ nào sẽ ra xách
nước mà tôi nói cùng nàng rằng: Xin cho tôi uống một hớp nước trong bình;
44. mà sẽ trả lời rằng: Hãy uống đi, trước tôi sẽ xách cho các lạc đà ngươi uống
nữa, xin cho người gái trẻ đó là vợ mà Ðức Giê-hô-va đã định cho con trai của
chủ tôi!
45. Chưa dứt lời thầm nguyện, bỗng đâu nàng Rê-be-ca vác bình trên vai đi ra,
xuống giếng xách nước. Tôi nói với nàng rằng: Xin cho tôi uống hớp nước.
46. Nàng lật đật hạ bình trên vai xuống mà nói rằng: Hãy uống đi, rồi tôi sẽ cho
các lạc đà ngươi uống nữa; vậy tôi có uống và nàng cũng có cho các lạc đà uống
nữa.
47. Tôi bèn hỏi nàng rằng: Nàng là con gái ai? Nàng đáp: Tôi là con gái của
Bê-tu-ên, cháu nội của Na-cô và Minh-ca. Tôi liền đeo cái khoanh nơi lỗ mũi và
đôi xuyến vào tay nàng.
48. Ðoạn, tôi cúi đầu và sấp mình xuống trước mặt Ðức Giê-hô-va, ngợi khen
Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của chủ Áp-ra-ham tôi, mà đã dẫn tôi vào đường chánh
đáng, để chọn được cho con trai người con gái của em chủ tôi.
49. Vậy, bây giờ, nếu các ông muốn lấy lòng tử tế và trung tín đối cùng chủ tôi,
xin hãy tỏ điều đó cho, dầu không, xin cũng nói cho biết, hầu cho tôi sẽ xây về
bên hữu hay là về bên tả.
50. La-ban và Bê-tu-ên đáp rằng: Ðiều đó do nơi Ðức Giê-hô-va mà ra, chúng tôi
đâu nói được cùng ngươi rằng quấy hay rằng phải.
51. Kìa, Rê-be-ca đương ở trước mặt ngươi, hãy dẫn nó đi, để nó được làm vợ của
con trai chủ ngươi, theo như lời Ðức Giê-hô-va phán định.
52. Ðầy tớ của Áp-ra-ham vừa nghe lời hai người nói xong, liền sấp mình xuống
đất trước mặt Ðức Giê-hô-va.
53. Người lấy đồ trang sức bằng bạc, vàng, và áo xống trao cho Rê-be-ca; rồi
cùng lấy các vật quí dâng cho anh và mẹ nàng.
54. Ðoạn người đầy tớ cùng các người đi theo ngồi ăn uống; rồi ngủ tại đó. Qua
ngày sau, khi họ đã thức dậy, người đầy tớ nói rằng: Xin hãy cho tôi trở về chủ.
55. Nhưng anh và mẹ nàng rằng: Hãy cho người gái trẻ ở lại cùng chúng tôi ít
ngày nữa, độ chừng mười bữa, rồi nó sẽ đi.
56. Ðầy tớ đáp rằng: Xin chớ cầm tôi trễ lại, vì Ðức Giê-hô-va có làm việc đi
đường tôi được thành. Hãy cho tôi đi, trở về nhà chủ tôi.
57. Họ đáp rằng: Chúng ta hãy gọi người gái trẻ đó và hỏi ý nó ra sao;
58. bèn kêu Rê-be-ca và nói rằng: Con muốn đi cùng người nầy chăng? Nàng rằng:
Tôi muốn đi.
59. Ðoạn, họ cho Rê-be-ca, em gái mình, và người vú của nàng, đi về theo người
đầy tớ của Áp-ra-ham và các kẻ đi theo.
60. Họ chúc phước cho Rê-be-ca mà rằng: Hỡi em gái chúng ta! Chúc cho em được
trở nên mẹ của ức triệu người, và cho dòng dõi em được chiếm lấy cửa thành của
quân nghịch.
61. Rê-be-ca và các đòi nàng đứng dậy, lên cỡi lạc đà, đi theo người đầy tớ đó.
Vậy, người đầy tớ dẫn Rê-be-ca đi.
62. Bấy giờ Y-sác ở tại nam phương từ giếng La-chai-Roi trở về;
63. lối chiều, người đi ra ngoài đồng đặng suy ngẫm; nhướng mắt lên, kìa ngó
thấy lạc đà đâu đi đến.
64. Nàng Rê-be-ca cũng nhướng mắt lên, bèn chợt thấy Y-sác; liền nhảy xuống lạc
đà,
65. và hỏi đầy tớ rằng: Người ở đằng trước mặt tôi đi lại trong đồng đó là ai:
Ðầy tớ thưa rằng: Ấy là chủ tôi đó. Nàng bèn lấy lúp che mặt lại.
66. Rồi, đầy tớ thuật cho Y-sác nghe hết các việc mà mình đã làm;
67. Y-sác bèn dẫn Rê-be-ca vào trại của Sa-ra, mẹ mình, cưới làm vợ, và yêu mến
nàng. Vậy, Y-sác được giải phiền sau khi mẹ mình qua đời.
Sáng-thế Ký
25 chọn đoạn khác
1. Áp-ra-ham cưới một người vợ khác, tên là Kê-tu-ra.
2. Người sanh cho Áp-ra-ham Xim-ram, Giốc-chan, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác và
Su-ách.
3. Giốc-chan sanh Sê-ba và Ðê-đan; con cháu của Ðê-đan là họ A-chu-rim, họ
Lê-tu-chim và họ Lê-um-mim.
4. Con trai của Ma-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nóc, A-bi-đa và Ên-đa. Các người
trên đây đều là dòng dõi của Kê-tu-ra.
5. Áp-ra-ham cho Y-sác hết thảy gia tài mình; còn cho các con dòng thứ những
tiền của;
6. rồi, khi còn sống, người sai họ qua đông phương mà ở, cách xa con dòng chánh,
là Y-sác.
7. Áp-ra-ham hưởng thọ được một trăm bảy mươi lăm tuổi;
8. người tuổi cao tác lớn và đã thỏa về đời mình, tắt hơi, được qui về nơi tổ
tông.
9. Hai con trai người, Y-sác và Ích-ma-ên, chôn người trong hang đá Mặc-bê-la
tại nơi đồng của Ép-rôn, con trai Sô-ha, người Hê-tít, nằm ngang Mam-rê.
10. Ấy là cái đồng mà lúc trước Áp-ra-ham mua lại của dân họ Hếch; nơi đó họ
chôn Áp-ra-ham cùng Sa-ra, vợ người.
11. Sau khi Áp-ra-ham qua đời, Ðức Giê-hô-va ban phước cho Y-sác con trai người.
Y-sác ở gần bên cái giếng La-chai-Roi.
12. Ðây là dòng dõi của Ích-ma-ên, con trai của Áp-ra-ham, do nơi nàng A-ga,
người Ê-díp-tô, con đòi của Sa-ra, đã sanh.
13. Và đây là trên các con trai của Ích-ma-ên, sắp thứ tự theo ngày ra đời: Con
trưởng nam của Ích-ma-ên là Nê-ba-giốt; kế sau Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-sam,
14. Mích-ma, Ðu-ma, Ma-sa,
15. Ha-đa, Thê-ma, Giê-thu, Na-phích, và Kết-ma.
16. Ðó là các con trai của Ích-ma-ên và tên của họ tùy theo làng và nơi đóng
trại mà đặt. Ấy là mười hai vị công hầu trong dân tộc của họ.
17. Ích-ma-ên hưởng thọ được một trăm ba mươi bảy tuổi, rồi tắt hơi mà qua đời,
được qui về nơi tổ tông.
18. Dòng dõi người ở trước mặt anh em mình, từ Ha-vi-la cho đến Xu-xơ, đối ngang
Ê-díp-tô, chạy qua A-si-ri.
19. Ðây là dòng dõi của Y-sác, con trai Áp-ra-ham. Áp-ra-ham sanh Y-sác.
20. Vả, khi Y-sác được bốn mươi tuổi, thì cưới Rê-be-ca, con gái của Bê-tu-ên và
em gái của La-ban, đều là dân A-ram, ở tại xứ Pha-đan-A-ram.
21. Y-sác khẩn cầu Ðức Giê-hô-va cho vợ mình, vì nàng son sẻ. Ðức Giê-hô-va cảm
động lời khẩn cầu đó, nên cho Rê-be-ca thọ thai.
22. Nhưng vì thai đôi làm cho đụng nhau trong bụng, thì nàng nói rằng: Nếu quả
thật vậy, cớ sao đều nầy xảy đến làm chi? Ðoạn nàng đi hỏi Ðức Giê-hô-va.
23. Ðức Giê-hô-va phán rằng: Hai nước hiện ở trong bụng ngươi, và hai thứ dân sẽ
do lòng ngươi mà ra; dân nầy mạnh hơn dân kia, và đứa lớn phải phục đứa nhỏ.
24. Ðến ngày nàng phải sanh nở, nầy hai đứa sanh đôi trong bụng nàng ra.
25. Ðứa ra trước đỏ hồng, lông cùng mình như một áo tơi lông; đặt tên là Ê-sau.
26. Kế em nó lại ra sau, tay nắm lấy gót Ê-sau; nên đặt tên là Gia-cốp. Khi sanh
hai đứa con nầy thì Y-sác đã được sáu mươi tuổi.
27. Khi hai đứa trai nầy lớn lên, thì Ê-sau trở nên một thợ săn giỏi, thường
giong ruổi nơi đồng ruộng; còn Gia-cốp là người hiền lành cứ ở lại trại.
28. Y-sác yêu Ê-sau, vì người có tánh ưa ăn thịt rừng; nhưng Rê-be-ca lại yêu
Gia-cốp.
29. Một ngày kia, Gia-cốp đương nấu canh, Ê-sau ở ngoài đồng về lấy làm mệt mỏi
lắm;
30. liền nói cùng Gia-cốp rằng: Em hãy cho anh ăn canh gì đỏ đó với, vì anh mệt
mỏi lắm. Bởi cớ ấy, người ta gọi Ê-sau là Ê-đôm.
31. Gia-cốp đáp rằng: Nay anh hãy bán quyền trưởng nam cho tôi đi.
32. Ê-sau đáp rằng: Nầy, anh gần thác, quyền trưởng nam để cho anh dùng làm chi?
33. Gia-cốp đáp lại rằng: Anh hãy thề trước đi. Người bèn thề; vậy, người bán
quyền trưởng nam cho Gia-cốp.
34. Rồi, Gia-cốp cho Ê-sau ăn bánh và canh phạn đậu; ăn uống xong, người bèn
đứng dậy đi. Vậy, Ê-sau khinh quyền trưởng nam là thế.
Sáng-thế Ký
26 chọn đoạn khác
1. Trừ cơn đói kém thứ nhứt trong đời Áp-ra-ham, bấy giờ tại xứ lại có một lần
nữa. Y-sác bèn đi đến A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin, tại Ghê-ra.
2. Ðức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Chớ xuống xứ Ê-díp-tô; hãy ở
lại xứ mà ta sẽ chỉ cho.
3. Hãy ngụ trong xứ nầy, ta sẽ ở cùng ngươi và ban phước cho ngươi; vì ta sẽ cho
ngươi cùng dòng dõi ngươi các xứ nầy và ta sẽ làm thành lời ta đã thề cùng
Áp-ra-ham, cha ngươi.
4. Ta sẽ thêm dòng dõi ngươi nhiều như sao trên trời, sẽ cho họ các xứ nầy; hết
thảy dân thế gian đều sẽ nhờ dòng dõi ngươi mà được phước;
5. vì Áp-ra-ham đã vâng lời ta và đã giữ điều ta phán dạy, lịnh, luật và lệ của
ta.
6. Vậy, Y-sác ở tại Ghê-ra.
7. Bởi nàng Rê-be-ca sắc-sảo dung nhan, nên khi dân xứ đó hỏi thăm vợ người, thì
người đáp rằng: "Ấy là em gái tôi," e khi nói: "Ấy là vợ tôi," thì họ sẽ giết
mình chăng.
8. Vả, người ngụ tại xứ đó cũng đã lâu; một ngày kia A-bi-mê-léc, vua
Phi-li-tin, ngó ngang qua cửa sổ, thấy Y-sác đương giỡn chơi cùng Rê-be-ca, vợ
người,
9. bèn đòi Y-sác mà rằng: Quả thật là vợ ngươi đó; sao có nói: Ấy là em gái tôi?
Y-sác đáp rằng: Vì tôi có thầm nói: Chớ khá vì nàng mà tôi phải bỏ mình.
10. A-bi-mê-léc hỏi: Ngươi làm chi cho chúng ta vậy? Ngộ có một người dân đến
nằm cùng vợ ngươi, ngươi làm cho chúng ta phải phạm tội!
11. A-bi-mê-léc bèn truyền lịnh cho cả dân chúng rằng: Kẻ nào động đến người
nầy, hay là vợ người nầy, thì sẽ bị xử tử.
12. Y-sác gieo hột giống trong xứ đó; năm ấy gặt được bội trăm phần; vì Ðức
Giê-hô-va đã ban phước cho.
13. Người nên thạnh vượng, của cải càng ngày càng thêm cho đến đỗi người trở nên
rất lớn.
14. Người có nhiều bầy chiên, bầy bò và tôi tớ rất đông; bởi cớ ấy, dân
Phi-li-tin đem lòng ganh ghẻ.
15. Mấy cái giếng lúc trước đầy tớ của Áp-ra-ham, cha người, đã đào, bây giờ đều
bị dân Phi-li-tin lấp đất lại hết.
16. A-bi-mê-léc nói cùng Y-sác rằng: Hãy ra khỏi nơi ta, vì ngươi thạnh vượng
hơn chúng ta bội phần.
17. Vậy, Y-sác bỏ chốn nầy đi đến đóng trại tại trũng Ghê-ra và ở đó.
18. Y-sác bèn đào lại mấy cái giếng người ta đã đào trong đời Áp-ra-ham, cha
mình, mà bị dân Phi-li-tin lấp đất lại khi Áp-ra-ham qua đời, và đặt tên mấy
giếng đó như tên của cha mình đã đặt.
19. Các đầy tớ của Y-sác còn đào thêm giếng nơi trũng, gặp được một giếng nước
mạch.
20. Nhưng bọn chăn chiên Ghê-ra tranh giành cùng bọn chăn chiên của Y-sác, mà
rằng: Người đó của chúng ta; nên người đặt tên giếng nầy là Ê-sét. Vì bọn chăn
chiên đó có tranh giành cùng mình.
21. Kế ấy, các đầy tớ đào một giếng khác, thì bị tranh giành nhau nữa; người đặt
tên giếng nầy là Sít-na.
22. Ðoạn, người bỏ chỗ đó đi đào một giếng khác; về giếng nầy, họ không tranh
giành nhau, nên người đặt tên là Rê-hô-bốt, mà rằng: Bây giờ Ðức Giê-hô-va đã để
cho chúng ta được rộng rãi, và ta sẽ đặng thịnh vượng trong xứ.
23. Y-sác ở đó đi, dời lên Bê-e-Sê-ba.
24. Ðêm đó Ðức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Ta là Ðức Chúa Trời
của Áp-ra-ham, cha ngươi; chớ sợ chi, ta ở cùng ngươi, sẽ ban phước cho và thêm
dòng dõi ngươi, vì cớ Áp-ra-ham là tôi tớ ta.
25. Y-sác lập một bàn thờ, cầu khẩn danh Ðức Giê-hô-va và đóng trại tại đó.
Ðoạn, các đầy tớ người đào một cái giếng tại nơi ấy.
26. Vua A-bi-mê-léc ở Ghê-ra đi đến viếng Y-sác, có A-hu-sát, bạn mình, và
Phi-côn, quan tổng binh mình, đi theo.
27. Y-sác bèn hỏi rằng: Các người ghét tôi, đã đuổi tôi ra khỏi nơi mình, sao
còn đi đến tôi mà chi?
28. Chúng đáp rằng: Chúng tôi đã thấy rõ ràng Ðức Giê-hô-va phù hộ người, nên
nói với nhau rằng: Phải có một lời thề giữa chúng tôi và người, để chúng ta kết
giao ước với người.
29. Hãy thề rằng: Người chẳng bao giờ làm hại chúng tôi, như chúng tôi đã không
động đến người, chỉ hậu đãi người và cho đi bình yên. Bây giờ người được Ðức
Giê-hô-va ban phước cho.
30. Y-sác bày một bữa tiệc, các người đồng ăn uống.
31. Qua ngày sau, chúng đậy sớm, lập lời thề với nhau. Rồi, Y-sác đưa các người
đó đi về bình yên.
32. Cùng trong ngày đó, các đầy tớ của Y-sác đến đem tin cho người hay về giếng
họ đã đào, rằng: Chúng tôi đã thấy có nước.
33. Người bèn đặt tên cái giếng đó là Si-ba. Vì cớ đó nên tên thành ấy là
Bê-e-Sê-ba cho đến ngày nay.
34. Khi Ê-sau được bốn mươi tuổi, cưới Giu-đít, con gái của Bê-e-ri, người
Hê-tít; và Bách-mát, con gái của Ê-lôn, cũng người Hê-tít.
35. Hai dâu đó là một sự cay đắng lòng cho Y-sác và Rê-be-ca.
Sáng-thế Ký
27 chọn đoạn khác
1. Bởi Y-sác đã già, mắt làng chẳng thấy được nữa, bèn gọi Ê-sau, con trưởng
nam, mà rằng: Hỡi con! Ê-sau thưa rằng: Có con đây.
2. Người bèn nói rằng: Nầy, cha đã già rồi, chẳng biết ngày nào phải chết;
3. vậy bây giờ, cha xin con hãy lấy khí giới, ống tên và cung con, ra đồng săn
thịt rừng cho cha,
4. dọn một món ngon tùy theo cha sở thích; rồi dâng lên cho cha ăn, đặng linh
hồn cha chúc phước cho con trước khi chết.
5. Vả, đương khi Y-sác nói cùng Ê-sau con trai mình, thì Rê-be-ca có nghe. Ê-sau
bèn ra đồng săn thịt rừng đặng đem về cho cha.
6. Rê-be-ca nói cùng Gia-cốp, con trai mình, rằng: Nầy, mẹ có nghe cha nói cùng
Ê-sau, anh con, và dặn rằng:
7. Hãy đem thịt rừng về cho cha, dọn một món ngon cha ăn; đặng trước khi qua
đời, cha sẽ chúc phước cho con trước mặt Ðức Giê-hô-va.
8. Vậy, con ơi! bây giờ, hãy nghe mẹ và làm theo lời mẹ biểu:
9. Hãy ra ngoài bầy, bắt hai dê con tốt, rồi mẹ sẽ dọn cho cha con một món ngon,
tùy theo người sở thích;
10. con sẽ đem cho cha ăn, đặng người chúc phước con trước khi qua đời.
11. Gia-cốp thưa lại cùng mẹ rằng: Thưa mẹ, Ê-sau, anh con, có lông, còn con lại
không.
12. Có lẽ cha sẽ rờ mình chăng, coi con như kẻ phỉnh gạt, thì con chắc lấy cho
mình sự rủa sả, chớ chẳng phải sự chúc phước đâu.
13. Mẹ đáp rằng: Con ơi! xin sự rủa sả đó để cho mẹ chịu; hãy cứ nghe lời mẹ, ra
bắt hai dê con.
14. Vậy, Gia-cốp đi bắt hai dê con, đem lại cho mẹ, làm món ngon, tùy theo cha
sở thích.
15. Ðoạn Rê-be-ca lấy quần áo tốt nhứt của Ê-sau, con trưởng nam, sẵn để trong
nhà, mà mặc vào cho Gia-cốp, con út mình;
16. rồi người lấy da dê con bao hai tay và cổ, vì tay và cổ Gia-cốp không có
lông.
17. Rê-be-ca bèn để món ngon và bánh của mình đã dọn vào tay con út mình.
18. Gia-cốp bưng đến cha mình và nói rằng: Thưa cha! Y-sác đáp: Có cha đây; con
là đứa nào đó?
19. Gia-cốp thưa: Tôi là Ê-sau, con trưởng nam của cha; con đã làm theo lời cha
dặn biểu; xin cha dậy, ngồi ăn lấy thịt săn của con, đặng linh hồn cha sẽ chúc
phước cho con.
20. Y-sác hỏi rằng: Sao con đi săn được mau thế? Thưa rằng: Ấy nhờ Giê-hô-va Ðức
Chúa Trời của cha xui tôi gặp mau vậy.
21. Y-sác nói cùng Gia-cốp rằng: Hỡi con! hãy lại gần đặng cha rờ thử xem có
phải là Ê-sau, con của cha chăng?
22. Gia-cốp bèn lại gần Y-sác; người rờ và nói rằng: Tiếng nói thì của Gia-cốp,
còn hai tay lại của Ê-sau.
23. Người chẳng nhận biết đặng vì hai tay cũng có lông như của anh, là Ê-sau.
Vậy Y-sác chúc phước cho.
24. Người lại hỏi rằng: Ấy con thật là Ê-sau, con trai ta, phải chăng? Gia-cốp
thưa: Phải, con đây.
25. Y-sác bèn nói: Hãy dọn cho cha ăn lấy thịt săn của con, đặng linh hồn cha
chúc phước cho con. Gia-cốp dọn cho người ăn, cũng có đem rượu cho người uống
nữa.
26. Rồi Y-sác cha người nói rằng: Hỡi con! hãy lại gần và hôn cha.
27. Gia-cốp bèn lại gần và hôn người. Y-sác đánh mùi thơm của áo con, liền chúc
phước cho, và nói rằng: Nầy, mùi hương của con ta Khác nào mùi hương của cánh
đồng mà Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho.
28. Cầu xin Ðức Chúa Trời cho con sương móc trên trời xuống, Ðược màu mỡ của
đất, và dư dật lúa mì cùng rượu.
29. Muôn dân phải phục con, Các nước phải quì lạy trước mặt con! Hãy được quyền
chủ các anh em, Các con trai của mẹ con phải quì lạy trước mặt con! Ai rủa sả
con sẽ bị rủa sả lại, Ai cầu phước cho con, sẽ được ban phước lại!
30. Vừa khi Y-sác chúc phước cho Gia-cốp xuống, và vừa khi Gia-cốp lùi ra khỏi
nơi cha mình, thì Ê-sau, anh người, đi săn trở về.
31. Người cũng dọn một món ngon, dâng lên cho cha và thưa rằng: Xin dậy, ngồi ăn
thịt săn của con trai cha, đặng linh hồn cha chúc phước cho con.
32. Y-sác, cha người, hỏi: Con là đứa nào? Thưa rằng: Tôi là Ê-sau, con trưởng
nam của cha.
33. Y-sác lấy làm cảm động qua đỗi mà nói rằng: Vậy, còn đứa nào đã săn thịt
rừng, và đã dâng lên cho cha đó? Trước khi con về, cha đã ăn hết rồi, và chúc
phước cho nó; nó lại sẽ được ban phước vậy.
34. Vừa nghe dứt lời cha, thì Ê-sau la lên một tiếng rất lớn, và rất thảm thiết
mà thưa cùng cha rằng: Cha ơi! xin hãy chúc phước cho con luôn nữa!
35. Nhưng Y-sác lại đáp: Em con đã dùng mưu kế đến cướp sự chúc phước của con
rồi.
36. Ê-sau liền nói rằng: Có phải vì người ta gọi nó là Gia-cốp mà đó hai lần
chiếm lấy vị tôi rồi chăng? Nó đã chiếm quyền trưởng nam tôi, và lại bây giờ còn
chiếm sự phước lành của tôi nữa. Tiếp rằng: Cha chẳng có dành sự chúc phước chi
cho tôi sao?
37. Y-sác đáp rằng: Nầy, cho đã lập nó lên làm chủ con, và đã cho các anh em làm
tôi nó; và đã dự bị lúa mì và rượu cho nó. Vậy, cha sẽ làm chi cho con đây?
38. Ê-sau thưa rằng: Cha ơi! cha chỉ có sự chúc phước đó thôi sao? Hãy chúc
phước cho con với, cha! Rồi Ê-sau cất tiếng lên khóc.
39. Y-sác cha người, đáp rằng: Nầy, nơi con ở sẽ thiếu màu mỡ của đất, Cùng
sương-móc trên trời sa xuống.
40. Con sẽ nhờ gươm mới được sống. Và làm tôi tớ cho em con. Song khi con lưu
lạc rày đó mai đây, Sẽ bẻ cái ách của em trên cổ con vậy.
41. Ê-sau trở lòng ghét Gia-cốp vì cớ cha mình chúc phước cho người, bèn nói
thầm trong lòng rằng: Ngày tang của cha đã hầu gần; vậy, ta sẽ giết Gia-cốp, em
ta, đi.
42. Họ đem lời Ê-sau, con lớn, thuật lại cùng Rê-be-ca, thì người sai gọi
Gia-cốp, con út mình, mà nói rằng: Nầy, Ê-sau, anh con, toan giết con để báo
thù.
43. Vậy, bây giờ, hỡi con, hãy nghe lời mẹ, đứng dậy, chạy trốn qua nhà La-ban,
cậu con, tại Cha-ran,
44. và hãy ở cùng người ít lâu, cho đến lúc nào cơn giận của anh con qua hết.
45. Khi cơn giận anh con bỏ qua rồi, và nó quên việc con đã gây nên với nó, thì
mẹ sẽ biểu con về. Có lẽ đâu mẹ phải chịu mất cả hai đứa trong một ngày ư?
46. Rê-be-ca nói cùng Y-sác rằng: Tôi đã chán, không muốn sống nữa, vì cớ mấy
con gái họ Hếch. Nếu Gia-cốp cưới một trong mấy con gái họ Hếch mà làm vợ, tức
một người con gái trong xứ như các dân đó; thôi, tôi còn sống mà chi?
Sáng-thế Ký
28 chọn đoạn khác
1. Y-sác bèn gọi Gia-cốp, chúc phước cho và dặn rằng: Con chớ chọn một người vợ
nào hết trong bọn con gái Ca-na-an.
2. Hãy đứng dậy, đi qua xứ Pha-đan-A-ram, tại nhà Bê-tu-ên, ông ngoại con, và
cưới ở đó một người vợ trong các con gái của La-ban, là cậu con.
3. Cầu xin Ðức Chúa Trời toàn năng ban phước cho con, làm con sanh sản, thêm
nhiều và trở nên một đám dân đông.
4. Cầu xin Ngài ban cho con và dòng dõi con phước lành của Áp-ra-ham, hầu cho xứ
con đã kiều ngụ sẽ làm sản nghiệp cho con, tức xứ Ngài đã ban cho Áp-ra-ham!
5. Rồi Y-sác sai Gia-cốp đi qua xứ Pha-đan-A-ram, đến nhà La-ban, con trai
Bê-tu-ên, vốn người A-ram, lại là anh của Rê-bê-ca, mẹ của Gia-cốp và Ê-sau.
6. Ê-sau thấy Y-sác đã chúc phước cho Gia-cốp, và sai đi qua xứ Pha-đan-A-ram
đặng cưới vợ; và trong lúc đương chúc phước có dặn rằng: Chớ cưới vợ trong bọn
con gái Ca-na-an;
7. lại đã thấy Gia-cốp vâng lời cha me đi qua xứ Pha-đan-A-ram đó,
8. thì biết rằng bọn con gái Ca-na-an không vừa ý Y-sác, cha mình;
9. nên người bèn đi đến nhà Ích-ma-ên (ngoài hai người vợ đã có rồi) cưới thêm
nàng Ma-ba-lát, con gái của Ích-ma-ên, cháu nội của Áp-ra-ham và em của
Nê-ba-giốt.
10. Gia-cốp từ Bê-e-Sê-ba đi đến Cha-ran,
11. tới một chỗ kia, mặt trời đã khuất, thì qua đêm tại đó. Người lấy một hòn đá
làm gối đầu, và nằm ngủ tại đó;
12. bèn chiêm bao thấy một cái thang bắc từ dưới đất, đầu đến tận trời, các
thiên sứ của Ðức Chúa Trời đi lên xuống trên thang đó.
13. Nầy, Ðức Giê-hô-va ngự trên đầu thang mà phán rằng: Ta là Ðức Chúa Trời của
Áp-ra-ham, tổ phụ ngươi, cùng là Ðức Chúa Trời của Y-sác. Ta sẽ cho ngươi và
dòng dõi ngươi đất mà ngươi đương nằm ngủ đây.
14. Dòng dõi ngươi sẽ đông như cát bụi trên mặt đất, tràn ra đến đông tây nam
bắc, và các chi họ thế gian sẽ nhờ ngươi và dòng dõi ngươi mà được phước.
15. Nầy, ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu, sẽ theo gìn giữ đó, và đem ngươi về xứ
nầy; vì ta không bao giờ bỏ ngươi cho đến khi ta làm xong những điều ta đã hứa
cùng ngươi.
16. Gia-cốp thức giấc, nói rằng: Thật Ðức Giê-hô-va hiện có trong nơi đây mà tôi
không biết!
17. Người bắt sợ và nói rằng: Chốn nầy đáng kinh khủng thay thật là đền Ðức Chúa
Trời, thật là cửa của trời!
18. Người dậy sớm, lấy hòn đá của mình dùng gối đầu, dựng đứng lên làm cây trụ,
đổ dầu lên trên chót trụ đó;
19. rồi đặt tên chốn nầy là Bê-tên; còn nguyên khi trước tên thành là Lu-xơ.
20. Gia-cốp bèn khấn vái rằng: Nếu Ðức Chúa Trời ở cùng tôi, gìn giữ tôi trong
lúc đi đường, cho bánh ăn, áo mặc,
21. và nếu tôi trở về bình an đến nhà cha tôi, thì Ðức Giê-hô-va sẽ là Ðức Chúa
Trời tôi.
22. Hòn đá đã dùng làm trụ đây sẽ là đền Ðức Chúa Trời, Và tôi sẽ nộp lại cho
Ngài một phần mười mọi của cải mà Ngài sẽ cho tôi.
Sáng-thế Ký
29 chọn đoạn khác
1. Ðoạn, Gia-cốp lên đường, đi đến xứ của dân Ðông phương.
2. Người nhìn xem, thấy một cái giếng trong đồng ruộng, gần đó có ba bầy chiên
nằm nghỉ, vì nơi nầy là chốn người ta cho các bầy chiên uống nước. Hòn đá đậy
trên miệng giếng rất lớn.
3. Các bầy chiên đều hiệp lại đó, rồi họ lăn hòn đá trên miệng giếng ra, cho các
bầy uống nước; đoạn, lăn đá lại chỗ cũ, đậy trên miệng giếng.
4. Gia-cốp hỏi mấy tay chăn chiên rằng: Hỡi các anh! các anh ở đâu đây? Bọn đó
đáp rằng: Chúng tôi ở Cha-ran đến.
5. Người hỏi: Các anh có biết La-ban, con trai Na-cô, chăng? Ðáp rằng: Chúng tôi
biết.
6. Lại hỏi: Người đó được mạnh giỏi chăng? Ðáp rằng: Người vẫn được mạnh giỏi,
và nầy, Ra-chên, con gái người, dương đi đến cùng bầy chiên kia.
7. Ngươi nói: Nầy, trời hãy còn sớm, chưa phải là giờ nhóm hiệp các súc vật;
vậy, các anh hãy cho bầy chiên uống nước, rồi thả đi ăn lại đi.
8. Ðáp rằng: Chúng tôi làm như vậy chẳng được; phải đợi các bầy hiệp lại đủ hết
rồi, bấy giờ mới lăn hòn đá trên miệng giếng ra, cho bầy uống nước được.
9. Vả, đương lúc người còn nói chuyện cùng bọn đó, thì Ra-chên dắt bầy chiên của
cha nàng đến, vi nàng vốn là người chăn chiên.
10. Khi vừa thấy Ra-chên, con gài La-ban, cậu mình, thì người liền lại gần lăn
hòn đá ra khỏi miệng giếng, cho bầy chiên của La-ban, cậu mình, uống nước.
11. Gia-cốp hôn Ra-chên, cất tiếng lên khóc;
12. rồi nói cho nàng biết rằng mình là bà con với cha nàng, tức con trai của
Rê-bê-ca. Nàng bèn chạy về thuật lại cho cha hay.
13. Vừa khi nghe nói Gia-cốp, con trai của em gái mình, thì La-ban chạy đến
trước mặt người, ôm choàng lấy mà hôn, rồi mới vào nhà. Gia-cốp thuật lại cho
La-ban nghe các việc đã xảy qua.
14. La-ban bèn đáp rằng: Thật vậy, cháu là cốt nhục của cậu; rồi Gia-cốp ở một
tháng cùng cậu.
15. Ðoạn, La-ban nói cùng Gia-cốp rằng: vì cớ cháu là bà con của cậu, cháu giúp
công không cho cậu thôi sao? Tiền công bao nhiêu hãy nói cho cậu biết.
16. Vả, La-ban có hai con gái, con lớn tên là Lê-a; con nhỏ tên là Ra-chên.
17. Mắt Lê-a yếu, còn Ra-chên hình dung đẹp đẽ, vẻ mặt tốt tươi.
18. Gia-cốp yêu Ra-chên nên nói rằng: Vì nàng Ra-chên, con út cậu, tôi sẽ giúp
việc trong bảy năm.
19. La-ban trả lời rằng: Thà cậu gả nó cho cháu hơn là gả cho một người khác;
hãy ở với cậu.
20. Vậy, Gia-cốp vì Ra-chên, phải giúp việc trong bảy năm: nhưng bởi yêu nàng,
nên coi bảy năm bằng chừng đôi ba bữa.
21. Kế đó, Gia-cốp nói cùng La-ban rằng: Hạn tôi đã mãn rồi; đâu! xin cậu hãy
giao vợ tôi lại đặng tôi đến gần cùng nàng.
22. La-ban bèn mời các người trong xóm, bày một bữa tiệc;
23. đến chiều tối, bắt Lê-a, con gái mình, đưa cho Gia-cốp, rồi chàng đến cùng
nàng.
24. La-ban lại cắt con đòi Xinh-ba theo hầu Lê-a, con gái mình.
25. Sáng bữa sau, mới biết là nàng Lê-a, thì Gia-cốp hỏi La-ban rằng: Cậu đã đãi
tôi cách chi vậy? Có phải vì Ra-chên mà tôi mới giúp việc cho nhà cậu chăng? Sao
cậu lừa-gạt tôi?
26. La-ban đáp rằng: Phong tục ở đây chẳng phải được gả em út trước, rồi chị cả
sau.
27. Hãy ở với đứa nầy trọn một tuần đi, rồi ta sẽ gả luôn đứa kia cho; về đứa
kia cháu phải giúp công cho cậu thêm bảy năm nữa.
28. Gia-cốp theo lời, ở cùng Lê-a trọn một tuần, rồi La-ban gả Ra-chên con gái
mình, cho chàng,
29. và cắt con đòi Bi-la theo hầu Ra-chên con gái mình.
30. Gia-cốp đi lại cùng Ra-chên, thương yêu nàng hơn Lê-a. Vậy, người ở giúp
việc nhà La-ban thêm bảy năm nữa.
31. Ðức Giê-hô-va thấy Lê-a bị ghét, bèn cho nàng sanh sản; còn Ra-chên lại son
sẻ.
32. Lê-a thọ thai, sanh một con trai, đặt tên Ru-bên; vì nói rằng: Ðức Giê-hô-va
đã thấy sự cực khổ tôi; bây giờ chồng sẽ yêu mến tôi.
33. Nàng thọ thai nữa và sanh một con trai, đặt tên Si-mê-ôn; vì nói rằng. Ðức
Giê-hô-va có nghe biết tôi bị ghét, nên cho thêm đứa này.
34. Nàng thọ thai nữa và sanh một con trai; nàng rằng: Lần nầy chồng sẽ dính díu
cùng tôi, vì tôi đã sanh cho người ba con trai; bởi cớ đó, đặt tên là Lê-vi.
35. Nàng thọ thai nữa, sanh một con trai, và nói rằng: Lần nầy tôi ngợi khen Ðức
Giê-hô-va; vì cớ ấy, đặt tên là Giu-da. Ðoạn, nàng thôi thai nghén.
Sáng-thế Ký
30 chọn đoạn khác
1. Ra-chên thấy mình chẳng sanh con cho Gia-cốp, thì đem lòng ghen ghét chị, nói
cùng Gia-cốp rằng: Hãy cho tôi có con, bằng không, tôi chết.
2. Gia-cốp nổi giận cùng Ra-chên mà rằng: Há ta được thay quyền Ðức Giê-hô-va,
mà không cho ngươi sanh sản sao?
3. Ra-chên rằng: Nầy con đòi Bi-la của tôi, hãy lại cùng nó, hầu cho nó sanh đẻ
thay cho tôi, đặng phần tôi bởi nó cũng có con nữa.
4. Vậy, Ra-chên đưa Bi-la làm hầu Gia-cốp, và người đi lại cùng nàng.
5. Bi-la thọ thai, sanh một con trai cho Gia-cốp.
6. Ra-chên rằng: Ðức Chúa Trời đã xét tôi công bình, nhậm lời tôi, nên cho tôi
một con trai; vì cớ ấy, nàng đặt tên đứa trai đó là Ðan.
7. Bi-la, con đòi của Ra-chên, thọ thai nữa, và sanh một con trai thứ nhì cho
Gia-cốp.
8. Ra-chên rằng: Tôi đã hết sức chống cự với chị tôi, và tôi được thắng; vì cớ
ấy, nàng đặt tên đứa trai nầy là Nép-ta-li.
9. Lê-a thấy mình thôi sanh sản, bèn bắt Xinh-ba, con đòi mình, làm hầu cho
Gia-cốp.
10. Xinh-ba, con đòi của Lê-a, sanh một con trai cho Gia-cốp.
11. Lê-a rằng: Phước biết dường bao! rồi đặt tên đứa trai đó là Gát.
12. Xinh ba, con đòi của Lê-a, sanh một con trai thứ nhì cho Gia-cốp;
13. thì Lê-a rằng: Tôi lấy làm vui mừng dường bao! vì các con gái sẽ xưng ta
được phước; nàng bèn đặt tên đứa trai đó là A-se.
14. Nhằm mùa gặt lúa mì, Ru-bên đi ra đồng gặp được những trái phong già, đem về
dâng cho Lê-a, mẹ mình. Ra-chên bèn nói cùng Lê-a rằng: Xin chị hãy cho tôi
những trái phong già của con chị đó.
15. Ðáp rằng: Cướp chồng tao há là một việc nhỏ sao, nên mầy còn muốn lấy trái
phong già của con trai tao nữa? Ra-chên rằng: Ừ thôi! chồng ta hãy ở cùng chị
tối đêm nay, đổi cho trái phong già của con chị đó.
16. Ðến chiều, Gia-cốp ở ngoài đồng về, thì Lê-a đến trước mặt người mà nói
rằng: Chàng hãy lại cùng tôi, vì tôi đã dùng trái phong già của con tôi chịu
thuê được chàng; vậy, đêm đó người lại nằm cùng nàng.
17. Ðức Chúa Trời nhậm lời Lê-a, nàng thọ thai và sanh cho Gia-cốp một con trai
thứ năm.
18. Nàng rằng: Ðức Chúa Trời đã đền công tôi, vì cớ tôi đã trao con đòi cho
chồng; vậy, nàng đặt tên đứa con trai đó là Y-sa-ca.
19. Lê-a thọ thai nữa, sanh một con trai thứ sáu cho Gia-cốp,
20. bèn nói rằng: Ðức Chúa Trời ban cho tôi một vật quí báu; lần nầy chồng sẽ ở
cùng tôi, vì đã sanh cho người sáu con trai rồi. Nàng đặt tên đứa con trai nầy
là Sa-bu-lôn.
21. Kế đó, nàng sanh một con gái, đặt tên là Ði-na.
22. Ðức Chúa Trời nhớ lại Ra-chên, bèn nhậm lời và cho nàng sanh sản.
23. Nàng thọ thai, sanh một con trai, mà rằng: Ðức Chúa Trời đã rửa sự xấu hổ
cho tôi rồi;
24. bèn đặt tên đứa trai đó là Giô-sép; lại nói rằng: Cầu xin Ðức Giê-hô-va thêm
cho một con trai nữa!
25. Khi Ra-chên đã sanh Giô-sép thì Gia-cốp thưa cùng La-ban rằng: Xin cậu cho
tôi thôi, đặng trở về quê hương tôi;
26. xin giao vợ và con lại cho tôi, mà tôi đã đặng vì cớ giúp cậu, để tôi đi;
bởi cậu cũng biết rằng tôi đã giúp công việc cho cậu thể nào.
27. La-ban đáp rằng: Ước gì cậu được nhờ ơn cháu! Cậu cũng đoán rõ ràng Ðức
Giê-hô-va đã vì cháu mà ban phước cho cậu vậy.
28. Lại nói rằng: Cháu hãy định công giá cháu đi, rồi cậu sẽ trả cho!
29. Gia-cốp đáp: Cậu biết tôi giúp đỡ cậu thể nào, và về tay tôi bầy súc vật cậu
được ra sao.
30. Trước khi tôi đến, súc vật của cậu thật ít, nhưng từ khi tôi đến ở, thì thêm
nhiều quá bội. Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho cậu từ khi tôi bước chơn vào nhà
nầy; bây giờ biết chừng nào tôi sẽ được lo việc nhà tôi?
31. La-ban rằng: Cậu sẽ cho cháu cái gì bây giờ? Ðáp rằng: Sẽ chẳng cho tôi chi
cả. Nếu thuận theo lời nầy, thì tôi sẽ cho ăn và chăn bầy súc vật cậu nữa:
32. Ngày nay tôi sẽ đi kiểm soát các bầy chiên và bầy dê của cậu; trong bầy
chiên bầy dê, hễ con nào có rằn, có đốm, cùng chiên sắc đen, thì tôi sẽ để riêng
ra; ấy sẽ là phần công giá của tôi đó.
33. Một mai cậu đi xem xét công giá tôi, thì lòng ngay thẳng tôi sẽ làm chứng
trước mặt cậu. Hễ ở về phần bên tôi, các con dê nào không có rằn và đốm, các
chiên con nào không có sắc đen, thì sẽ cho là ăn cắp.
34. La-ban đáp: Ừ thôi! được như lời cháu nói.
35. Chánh ngày đó, La-ban liền để riêng các dê đực có sọc, có đốm, các dê cái đó
rằn, có đốm, các vật nào có đém trắng và các chiên con có sắc đen, giao cho mấy
con trai mình;
36. rồi để Gia-cốp cùng mình ở cách xa nhau chừng ba ngày đường; Gia-cốp bèn
chăn bầy súc vật của La-ban chỉ còn lại.
37. Ðoạn, Gia-cốp lấy nhành bạch dương, nhành bồ đào và nhành bá-tiên tươi, lột
vỏ để bày lằn da trắng ở trong ra.
38. Người để những nhành đã lột vỏ trong máng trước mặt con chiên, là nơi các
thú đó đến uống; khi đến uống nước thì con chiên có giao hiệp nhau.
39. Các con chiên ngó thấy những nhành đó mà giao hiệp nhau thì sanh chiên con
có sọc, có rằn và có đốm.
40. Gia-cốp để riêng chiên con ra, rồi để chiên cái trong bầy của La-ban trước
mặt các con có sọc và có sắc đen; nhưng bầy mình thì riêng ra, không để gần bầy
của La-ban.
41. Vả, mọi lần các con chiên mạnh mập giao hiệp, thì Gia-cốp để các nhành đó
dưới mắt trong máng uống nước, đặng chúng nó đối nhành mà giao hiệp cùng nhau.
42. Nhưng khi nào con chiên gầy ốm, thì người không để nhành như vậy; thế thì,
các chiên con gầy ốm để về phần La-ban, còn chiên con mạnh mập lại về phần
Gia-cốp.
43. Vậy, người trở nên rất giàu, có nhiều bầy súc vật, tôi trai, tớ gái, lạc đà
và lừa.
Sáng-thế Ký
31 chọn đoạn khác
1. Gia-cốp được nghe lời các con La-ban nói rằng: Gia-cốp đã lấy hết gia tài cha
ta, và vì nhờ của cha ta, nên mới được giàu có dường ấy.
2. Gia-cốp cũng để ý coi nét mặt cậu, nhận biết rằng người chẳng đối ở với mình
như trước nữa.
3. Ðức Giê-hô-va phán cùng Gia-cốp rằng: Hãy trở về xứ của tổ phụ ngươi, chốn bà
con ngươi, ta sẽ phù hộ ngươi.
4. Gia-cốp bèn sai người gọi Ra-chên và Lê-a đến nơi cầm bầy súc vật của mình
ngoài đồng,
5. và nói cùng họ rằng: Ta thấy sắc mặt cha hai ngươi đối cùng ta chẳng còn như
trước nữa, nhưng nhờ Ðức Chúa Trời của cha ta phù hộ ta.
6. Chánh hai ngươi cũng biết rằng ta đã giúp cha hai ngươi hết sức,
7. còn cha hai ngươi lại khinh bạc và mười lần thay đổi công giá ta; nhưng Ðức
Chúa Trời không cho phép người làm hại ta chút nào.
8. Khi người dạy rằng: Các con chiên có đốm dùng làm công giá ngươi, quả các con
chiên đều sanh con ra có sọc.
9. Thế thì, Ðức Chúa Trời đã bắt súc vật của cha hai ngươi cho ta đó!
10. Ðương trong lúc chiên giao hiệp nhau, ta nhướng mắt lên, chiêm bao thấy các
chiên đực đương giao hiệp cùng chiên cái đều có sọc, có rằn và có đốm.
11. Thiên sứ Ðức Chúa Trời phán cùng ta trong mộng rằng: Hỡi Gia-cốp! Ta bèn
thưa: Có tôi đây.
12. Thiên sứ rằng: Hỡi nhướng mắt lên mà nhìn: hết thảy chiên đực đương giao
hiệp cùng chiên cái đều có sọc, có rằn và có đốm; vì ta đã thấy cách La-ban ăn ở
cùng ngươi rồi.
13. Ta đây là Ðức Chúa Trời của Bê-tên, tức nơi ngươi đã thoa dầu đầu cây trụ và
đã khấn vái ta. Bây giờ, hãy đứng dậy, ra khỏi xứ bầy và trở về xứ của bà con
ngươi.
14. Ra-chên và Lê-a đáp cùng người mà rằng: Chúng tôi còn một phần chi hay là cơ
nghiệp chi nơi nhà cha chúng tôi chăng?
15. Vì người đã gả bán chúng tôi và ăn xài hết tiền bạc bán nữa, há người chẳng
đãi chúng tôi như người dưng ư?
16. Các tài vật mà Ðức Chúa Trời đoạt nơi tay cha chúng tôi tức là của chúng tôi
và của con cái chúng tôi. Vậy bây giờ, chàng hãy làm theo mọi lời Ðức Chúa Trời
đã phải dạy.
17. Gia-cốp bèn đứng dậy, đỡ vợ và con lên lưng lạc đà,
18. dẫn hết thảy súc vật và của cải mình, tức súc vật mình đã gây dựng ở
Pha-đan-A-ram, đặng trở về cùng Y-sác, cha mình, ở Ca-na-an.
19. Trong lúc La-ban mắc đi hớt lông chiên người, thì Ra-chên ăn cắp các pho
tượng thờ trong nhà của cha mình.
20. Gia-cốp gạt La-ban, vì không nói rằng, mình muốn đi trốn.
21. Vậy, người đứng dậy, đem theo hết thảy tài vật mình, trốn đi ngang qua sông,
thẳng tuốt về núi Ga-la-át.
22. Ðến ngày thứ ba, người ta học lại cùng La-ban rằng Gia-cốp đã trốn đi rồi.
23. Người bèn đem các anh em mình đuổi theo Gia-cốp trong bảy ngày đường, và
theo kịp tại núi Ga-la-át.
24. Nhưng trong cơn chiêm bao lúc ban đêm, Ðức Chúa Trời đến cùng La-ban, người
A-ram, mà phán rằng: Dầu lành dầu dữ, thế nào ngươi khá giữ mình đừng nói chi
cùng Gia-cốp hết.
25. Vậy, La-ban theo kịp Gia-cốp. Vả, Gia-cốp đương đóng trại trên núi; La-ban
và các anh em người cũng đóng trại trên núi Ga-la-át.
26. La-ban nói cùng Gia-cốp rằng: Cháu đã làm chi vậy? Cháu đã gạt cậu và dẫn
mấy đứa gái cậu như phu tù giặc.
27. Sao trốn nhẹm, gạt và không cho cậu hay trước? Có lẽ cậu đưa đi rất vui vẻ,
tiếng hát, tiếng đờn và tiếng trống phụ đưa.
28. Cháu làm cách dại dột vậy, không để cho cậu hôn con trai và con gái cậu.
29. Tay cậu có đủ quyền làm hại cháu; nhưng Ðức Chúa Trời của cha cháu đã mách
bảo cùng cậu tối hôm qua rằng: Dầu lành dầu dữ, ngươi khá giữ mình đừng nói chi
cùng Gia-cốp hết.
30. Bây giờ, vì lòng cháu mong mỏi về nhà cha cháu, nên đã ra đi; nhưng cớ sao
cháu lại ăn cắp các pho tượng cậu?
31. Gia-cốp đáp rằng: Vì cớ tôi e cậu bắt hai người con gái lại chăng.
32. Nhưng tìm nơi ai được các pho tượng của cậu, thì ai đó sẽ bị chết đi! Tại
trước mặt các anh em chúng ta, cậu hãy kiểm soát các món nơi tôi đi, và hãy lấy
vật chi thuộc về cậu. Vả, Gia-cốp vốn không hay rằng Ra-chên đã trộm mấy pho
tượng đó.
33. Vậy, La-ban vào trại Gia-cốp, trại Lê-a, trại hai người đòi, chẳng tìm được
chi cả. Ðoạn, ở trại Lê-a bước ra đi vào trại Ra-chên.
34. Vả, Ra-chên có lấy mấy pho tượng đó, giấu dưới bành lạc đà, rồi ngồi lên
trên. La-ban soát lục khắp trại chẳng gặp pho tượng.
35. Nàng bèn thưa cùng cha rằng: Vì trong mình con có việc riêng của đờn bà, nên
đứng dậy rước chẳng được; xin chúa chớ giận con chi hết. Người kiếm, nhưng chẳng
thấy pho tượng đâu hết.
36. Gia-cốp bèn nổi giận rầy lộn cùng La-ban, mà rằng: Tôi có án gì, tội gì, mà
cậu hằm hằm đuổi theo như vậy!
37. Cậu đã soát lục các đồ hành lý tôi, có kiếm được món chi thuộc về nhà cậu
chăng? Hãy đem món đó ra trước mặt anh em tôi cùng anh em cậu, đặng họ xét đoán
đôi ta.
38. Kìa, đã hai mươi năm tôi ăn ở nơi nhà cậu, chiên cùng dê cậu nào có sảo
thai, và tôi chẳng hề ăn thịt chiên đực của bầy cậu bao giờ;
39. cũng chẳng hề đem về cho cậu một con nào bị xé; bằng có, chính tôi chịu đền
đó thôi. Cậu cớ đòi luôn những con bị ăn cắp ban ngày và ăn trộm ban đêm.
40. Ban ngày tôi chịu nắng nồng, ban đêm chịu lạnh lùng, ngủ nào có an giấc được
đâu.
41. Ðó trong hai mươi năm tôi ở tại nhà cậu là thế; trong mười bốn năm giúp
việc, để được hai con gái cậu, và sáu năm đặng lãnh lấy bầy súc vật của cậu, mà
cậu lại còn thay đổi mười lần công giá tôi.
42. Nếu Ðức Chúa Trời của cha tôi, Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, là Ðấng mà Y-sác
kính sợ, không phù hộ tôi, chắc bây giờ cậu đuổi tôi ra tay không, Ðức Chúa Trời
đã xem thấy nỗi đau-khổ tôi cùng công việc hai tay tôi làm, nên đêm qua Ngài đã
xét công bình rồi đó.
43. La-ban đáp cùng Gia-cốp mà rằng: Các đứa gái nầy là con của cậu; các đứa trẻ
nầy là trẻ của cậu; các bầy súc vật tức là bầy súc vật của cậu, và các vật chi
cháu thấy được tức là của cậu hết; ngày nay cậu sẽ làm chi được cùng các con gái
hai là các cháu cậu đó?
44. Vậy bây giờ, hè! chúng ta kết-ước cùng nhau, để dùng làm chứng cho cậu và
cháu.
45. Gia-cốp lấy một hòn đá, dựng đứng lên làm trụ;
46. và nói cùng các anh em mình rằng: Hãy lượm góp đá lại. Chúng bèn góp đá lại,
chất thành một đống, rồi ngồi lên trên ăn bữa.
47. La-ban đặt trên đống đá đó là Y-ê-ga Sa-ha-du-ta; còn Gia-cốp kêu là Ga-lét.
48. La-ban nói rằng: Ðống đá nầy ngày nay làm chứng cho cậu và cháu đó. Cho nên
chúng gọi là Ga-lét.
49. Mà cũng gọi là Mích-ba, vì La-ban có nói thêm rằng: Khi chúng ta phân cách
nhau, cầu xin Ðức Giê-hô-va coi sóc cậu và cháu.
50. Nếu cháu hành hạ các con gái cậu, nếu cưới vợ khác nữa, thì hãy giữ mình!
Chẳng phải người thường soi xét ta đâu, bèn là Ðức Chúa Trời làm chứng cho chúng
ta vậy.
51. La-ban lại nói cùng Gia-cốp rằng: Nầy đống đá, nầy cây trụ mình cậu đã dựng
lên giữa cậu và cháu đây.
52. Ðống đá nầy và cây trụ nầy làm chứng rằng cậu chẳng qua khỏi đây, đi đến nơi
cháu, và cháu cũng chẳng vượt khỏi đây, đi đến nơi cậu, trong khi có ý muốn làm
hại nhau.
53. Cầu xin Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Ðức Chúa Trời của Na-cô, Ðức Chúa Trời
của cha các người đó đoán xét cho chúng ta! Gia-cốp chỉ Ðấng của Y-sác, cha
mình, kính sợ mà thề.
54. Ðoạn, người dâng một của lễ tại trên núi, và mời các anh em mình dùng bánh.
Vậy, chúng dùng bánh, rồi ở ban đêm trên núi.
55. La-ban dậy sớm, hôn các con trai và các con gái mình, và chúc phước cho, rồi
đi trở về nhà mình.
Sáng-thế Ký
32 chọn đoạn khác
1. Gia-cốp cứ đi đường, có thiên sứ Ðức Chúa Trời gặp người.
2. Khi Gia-cốp thấy các vị nầy, nói rằng: Ấy là trại quân của Ðức Chúa Trời! Nên
người đặt tên chỗ đó là Ma-ha-na-im.
3. Gia-cốp sai sứ giả đến trước cùng Ê-sau, anh mình, trong xứ Sê-i-rơ thuộc về
địa-phận Ê-đôm;
4. người bèn dặn rằng: Các ngươi hãy thưa cùng Ê-sau, chúa ta như vầy: Gia-cốp,
kẻ tôi tớ chúa, có nói như vầy rằng: Tôi đã ngụ tại nhà La-ban đến ngày nay;
5. có bò, lừa, chiên, tôi trai, tớ gái; vậy, xin sai đi nói cho chúa hay trước,
hầu cho nhờ được ơn trước mặt chúa tôi.
6. Các sứ giả trở về nói cùng Gia-cốp rằng: Chúng tôi đã đi đến Ê-sau, anh của
chủ; nầy người đương đem bốn trăm người đến để rước chủ.
7. Gia-cốp rất sợ hãi và sầu não, bèn chia các dân đi theo, cùng các bầy chiên,
bò, lạc đà ra làm hai đội, mà rằng:
8. Nếu Ê-sau đến hãm đánh một trong hai đội, thì đội còn lại sẽ thoát được.
9. Ðoạn, Gia-cốp cầu rằng: Hỡi Ðức Chúa Trời của tổ phụ Áp-ra-ham tôi! Ðức Chúa
Trời của cha Y-sác tôi, tức là Ðức Giê-hô-va! Ngài có phán dạy tôi rằng: Hãy trở
về xứ ngươi và nơi bà con ngươi, rồi ta sẽ làm ơn cho ngươi!
10. Tôi lấy làm hèn mọn không đáng chịu các ân huệ và các điều thành thực mà
Ngài đã làm cho kẻ tôi tớ Ngài; vì lúc trước khi qua sông Giô-đanh chỉ có cây
gậy tôi, mà ngày nay tôi lại trở nên hai đội quân nầy.
11. Vậy, cầu xin Ðức Chúa Trời giải cứu tôi khỏi tay Ê-sau, anh tôi, vì e người
đến đánh tôi và đánh luôn mẹ với con nữa.
12. Vả, Ngài có nói rằng: Quả thật vậy, ta sẽ làm ơn cho ngươi, và làm cho dòng
dõi ngươi đông như cát bãi biển, người ta sẽ không biết sao đếm được, vì đông
đúc quá.
13. Người ở ban đêm tại đó, lấy các vật có hiện trong tay để làm một của lễ dâng
cho Ê-sau, anh mình,
14. là hai trăm dê cái và hai chục dê đực; hai trăm chiên cái và hai chục chiên
đực;
15. ba chục lạc đà cái có con đương bú, bốn chục bò cái và mười bò đực; hai chục
con lừa cái và mười lừa con.
16. Rồi, giao mỗi bầy riêng ra nơi tay đầy tớ mình và dặn rằng: Các ngươi hãy đi
trước ta và dẫn bầy nầy cách một khoảng đến bầy kia.
17. Người dặn tên dẫn bầy đi trước hết như vầy: Khi Ê-sau, sanh ta, gặp và hỏi
ngươi rằng: Ngươi ở với ai, đi đâu, và bầy súc vật trước mặt ngươi đó thuộc về
ai?
18. thì hãy thưa rằng: Của Gia-cốp, kẻ tôi tớ chúa; ấy là một lễ gởi dâng cho
Ê-sau, chúa tôi; và nầy, chánh mình người đương theo sau.
19. Gia-cốp cũng dặn y lời cho tên dẫn bầy thứ nhì, thứ ba và hết thảy người
theo coi chừng các bầy, và lại nói: Khi gặp Ê-sau, các ngươi hãy nhớ lời đó,
20. và nói như vầy: Nầy, Gia-cốp, kẻ tôi tớ chúa, đương theo sau chúng tôi. Vì
người thầm nghĩ rằng: Mình đem lễ nầy dâng trước cho Ê-sau nguôi giận đã, rồi
mình sẽ giáp mặt sau; có lẽ người tiếp rước mình một cách thuận hiệp đó.
21. Vậy, lễ nầy đem đi trước, còn người, đêm đó ở lại trại.
22. Ban đêm, người thức dậy, dẫn hai vợ, hai tên đòi và mười một đứa con mình đi
qua rạch Gia-bốc.
23. Người đem họ qua rạch, và hết thảy của cải mình qua nữa.
24. Vả, một mình Gia-cốp ở lại; thì có một người vật lộn với mình được rạng
đông.
25. Khi người đó thấy mình không thắng nổi, bèn đánh vào xương hông Gia-cốp;
xương hông liền trặt trong khi vật lộn.
26. Người đó bèn nói: Trời đã rạng đông rồi; thôi để cho ta đi; nhưng Gia-cốp
đáp rằng: Tôi chẳng cho người đi đâu, nếu người không ban phước cho tôi.
27. Người đó hỏi: Tên ngươi là chi? Ðáp rằng: Tên tôi là Gia-cốp.
28. Người lại nói: Tên ngươi sẽ chẳng làm Gia-cốp nữa, nhưng tên là Y-sơ-ra-ên,
vì ngươi đã có vật lộn cùng Ðức Chúa Trời và người ta; ngươi đều được thắng.
29. Gia-cốp hỏi: Xin cho tôi biết tên người. Ðáp rằng: Làm sao ngươi hỏi tên ta?
Rồi người nầy ban phước cho Gia-cốp tại đó.
30. Gia-cốp đặt tên chỗ đó là Phê-ni-ên, và nói rằng: Tôi đã thấy Ðức Chúa Trời
đối mặt cùng tôi và linh hồn tôi được giải cứu.
31. Khi qua nơi Phi-ni-ên, thấy mặt trời mọc rồi; và người đi giẹo cẳng.
32. Bởi cớ đó, cho đến ngày nay dân Y-sơ-ra-ên chẳng bao giờ ăn gân bắp vế của
lối xương hông; vì người đó có đánh vào xương hông Gia-cốp, nơi gân của bắp vế.
Sáng-thế Ký
33 chọn đoạn khác
1. Gia-cốp nhướng mắt lên và nhìn, kìa, Ê-sau dẫn bốn trăm người đi đến. Người
bèn chia các con cho Lê-a, Ra-chên, và cho hai tên đòi;
2. sắp hai tên đòi và con cái họ ở trước; kế đến Lê-a và con cái nàng; Ra-chên
cùng Giô-sép ở sau chót.
3. Còn người, thì đi trước họ và sấp mình xuống đất bảy lần cho đến khi tới gần
anh mình.
4. Nhưng Ê-sau chạy đến trước mặt người, ôm choàng cổ mà hôn, rồi hai anh em đều
khóc.
5. Ðoạn, Ê-sau nhướng mắt lên thấy mấy người đờn bà và con cái, thì hỏi rằng:
Các người mà em có đó là ai? Ðáp rằng: Ấy là con cái mà Ðức Chúa Trời đã cho kẻ
tôi tớ anh.
6. Hai tên đòi và con cái họ lại gần người, sấp mình xuống.
7. Lê-a và các con cái nàng cũng lại gần, sấp mình xuống; đoạn, Ra-chên và
Giô-sép lại gần, và sấp mình xuống.
8. Ê-sau hỏi: Toán quân anh đã gặp đi trước đó, em tính làm chi? Ðáp rằng: Ấy để
nhờ được ơn trước mặt chúa tôi.
9. Ê-sau nói: Hỡi em! anh đã được đủ rồi; vậy, hãy lấy lại vật chi của em đi.
10. Thưa rằng: Xin anh, không. Nếu em được ơn trước mặt anh, hãy nhậm lấy lễ vật
bởi tay em làm ra đi; vì em thấy được mặt anh khác nào người ta thấy được mặt
Ðức Chúa Trời, và anh đã đẹp lòng tiếp rước em.
11. Xin anh hãy nhậm lấy lễ vật em đã dâng cho anh, vì Ðức Chúa Trời cho em đầy
dẫy ân huệ, và em có đủ hết. Người nài xin Ê-sau quá đến đỗi phải chịu nhậm lấy.
12. Ê-sau nói: Hè, ta hãy lên đường! Anh sẽ đi trước em.
13. Gia-cốp đáp: Chúa biết rằng các đứa trả yếu lắm, và em lại mắc coi chừng
chiên và bò cái đương có con bú; nếu ép đi mau chỉ trong một ngày, chắc cả bầy
phải chết hết.
14. Xin chúa hãy đi trước kẻ tôi tớ chúa, còn tôi sẽ đi tới chậm chậm theo bước
một của súc vật đi trước và của các trẻ, cho đến chừng nào tới nhà chúa tại xứ
Sê-i-rơ.
15. Ê-sau nói: Vậy, anh xin để lại cùng em một vài người tùy tùng của anh.
Gia-cốp đáp rằng: Chi vậy? miễn em được nhờ ơn trước mặt chúa thôi!
16. Nội ngày đó, Ê-sau bắt đường trở về Sê-i-rơ.
17. Gia-cốp đi đến Su-cốt; bèn cất một nhà cho mình ở, và mấy cái lều cho súc
vật; cho nên họ đặt tên chốn nầy là Su-cốt.
18. Gia-cốp ở xứ Pha-ran-A-ram đến thành Si-chem thuộc về xứ Ca-na-an, được bình
an. Người đóng tại trước thành,
19. bèn mua miếng đất chỗ người đóng trại, giá một trăm miếng bạc của con Hê-mô,
cha Si-chem.
20. Nơi đó người lập một bàn thờ, đặt tên là En-Ên-ô-hê-Y-sơ-ra-ên.
Sáng-thế Ký
34 chọn đoạn khác
1. Nàng Ði-na, con gái của Lê-a sanh cho Gia-cốp, đi ra thăm bọn con gái của xứ
đó.
2. Si-chem, con trai Hê-mô, người Hê-vít, hoàng tử xứ đó, thấy nàng, thì cướp
đi, nằm với nàng và làm điếm nhục nàng.
3. Tâm hồn chàng vấn-vít cùng Ði-na, con gái Gia-cốp, thương mến con gái tơ đó,
lấy lời ngon ngọt nói cùng nàng.
4. Si-chem nói cùng Hê-mô, cha mình, rằng: Hãy cho tôi con gái nầy làm vợ.
5. Vả, Gia-cốp hay được rằng chàng làm hư danh giá Ði-na, con gái mình, nhưng
các con trai mình mắc ở ngoài đồng cùng súc vật, nên người làm thinh đến khi họ
trở về.
6. Lúc đó, Hê-mê, cha Si-chem, đến cùng Gia-cốp đặng nói chuyện cùng người.
7. Các con trai Gia-cốp ở ngoài đồng trở về, vừa hay được việc ấy, bèn nổi nóng
và giận lắm, vì việc ô danh mà Si-chem đã xui cho họ Y-sơ-ra-ên, nằm cùng con
gái của Gia-cốp, là việc chẳng bao giờ nên làm.
8. Hê-mô nói cùng họ rằng: Tâm hồn Si-chem, con trai tôi, đã dan-díu cùng con
gái các ông; xin hãy gả nàng cho nó làm vợ.
9. Hãy kết sui-gia cùng nhau; các ông gả con gái cho chúng tôi, rồi cưới các con
gái chúng tôi lại.
10. Hãy ở cùng chúng tôi; xứ sẵn dành cho các ông; hãy ở, buôn bán và dựng cơ
nghiệp tại đó.
11. Si-chem thưa cùng cha và các anh em của người con gái rằng: Xin cho tôi được
ơn trước mặt các ông, và điều chi các ông nói, tôi xin nạp cho.
12. Xin hãy đòi một lễ cưới cho lớn, sính nghi cho cao, tôi xin nạp theo y lời
các ông nói; nhưng hãy gả con gái đó cho tôi làm vợ.
13. Các con trai Gia-cốp đáp lại cùng Si-chem và Hê-mô, cha chàng, cùng dùng mưu
nói chuyện với họ, vì Si-chem đã làm mất danh giá của Ði-na, em gái mình.
14. Các người ấy nói rằng: Gả em gái chúng tôi cho ai chẳng chịu phép cắt bì, ấy
là một việc chúng tôi làm không được, vì sẽ là một nỗi nhuốc nha cho chúng tôi
vậy.
15. Chúng tôi sẽ nhậm lời các ông được, là khi nào các ông trở nên giống như
chúng tôi, tức là mọi người nam chịu phép cắt bì;
16. vậy, chúng tôi sẽ gả con gái chúng tôi cho các ông, và sẽ cưới con gái các
ông lại; đoạn ta sẽ ở chung nhau, thành ra một dân mà thôi.
17. Còn nếu không khứng nghe theo lời, và không chịu phép cắt bì, thì chúng tôi
bắt con gái lại và đi ở nơi khác.
18. Bao nhiêu lời họ nói làm cho đẹp dạ Hê-mô và Si-chem, con trai người.
19. Chàng trẻ tuổi đó không ngần ngại các việc họ đã định, vì con gái của
Gia-cốp đẹp lòng chàng. Vả, chàng đây là một người quí trọng hơn mọi người trong
nhà cha mình.
20. Vậy, Hê-mô và Si-chem, con trai người, đi đến cửa thành mình, nói cùng dân
trong thành như vầy:
21. Các người đó ăn ở hòa thuận giữa vòng chúng ta; vậy cho họ ở trong xứ đặng
buôn bán. Nầy, xứ cũng rộng cho họ ở; chúng ta sẽ cưới con gái họ làm vợ, và gả
các con gái chúng ta lại.
22. Nhưng họ bằng lòng ở cùng chúng ta đặng thành một dân, miễn khi nào các
người nam trong bọn mình phải chịu phép cắt bì chính như mọi người nam của họ
vậy.
23. Thế thì, há rằng các súc vật, các tài sản và các bầy của họ sẽ chẳng thuộc
về chúng ta sao? thôi, ta hãy nhận theo họ điều đó đi, để họ ở chung cùng chúng
ta.
24. Mọi người đi ra cửa thành mình đều nghe theo lời Hê-mô và Si-chem, con trai
người, và hết thảy người nam đi ra cửa thành mình đều chịu phép cắt bì.
25. Ðến ngày thứ ba, khi mọi người đương đau đớn, thì hai con trai Gia-cốp, là
Si-mê-ôn và Lê-vi, anh nàng Ði-na, cầm mỗi người một thanh gươm, thừa khi ai nấy
yên ổn, xông vào thành giết hết thảy người nam.
26. Hai người lại lấy gươm giết Hê-mô và Si-chem, con trai người, đem nàng Ði-na
ra khỏi nhà Si-chem, rồi đi.
27. Vì cớ họ làm mất danh giá em gái mình, nên các con trai Gia-cốp xông vào
những xác chết và phá cướp thành;
28. bắt các bầy chiên, bò, lừa, cùng vật chi trong thành và ngoài đồng;
29. cướp đem đi hết tài vật, các con trẻ và đờn bà, cùng mọi vật chi ở trong nhà
vậy.
30. Gia-cốp bèn nói cùng Si-mê-ôn và Lê-vi rằng: Bay xui cho tao bối rối, làm
cho dân xứ nầy, là người Ca-na-an và người Phê-rê-sít, oán ghét tao vậy. Tao
đây, chỉ có ít người; nếu họ hiệp lại đánh tao, thì chắc tao và nội nhà đều bị
tàn hại.
31. Ðáp rằng: Chúng tôi nỡ chịu người ta đãi em gái chúng tôi như con đĩ sao?
Sáng-thế Ký
35 chọn đoạn khác
1. Ðức Chúa Trời phán cùng Gia-cốp rằng: Hãy chổi dậy, đi lên Bê-tên mà ở, và
hãy lập nơi đó một bàn thờ cho Ðức Chúa Trời, là Ðấng hiện ra cùng ngươi đương
lúc chạy trốn khỏi Ê-sau, anh ngươi.
2. Gia-cốp bèn nói cùng vợ con và mọi kẻ đi theo mình rằng: Hãy dẹp các tượng
thần ngoại bang khỏi giữa các ngươi, làm cho mình được thanh sạch và thay áo
xống đi.
3. Ðoạn, chúng ta hãy chổi dậy, đi đến Bê-tên, nơi đó ta sẽ lập một bàn thờ cho
Ðức Chúa Trời, là Ðấng đã trả lời ta trong lúc nguy hiểm, và đã phù hộ ta trong
khi đi đường.
4. Họ bèn đưa cho Gia-cốp các tượng thần ngoại bang của mình, và các vòng đeo
nơi tai; rồi người chôn mấy vật đó dưới gốc cây dẻ bộp, gần thành Si-chem.
5. Ðoạn, chúng khởi hành. Ðức Chúa Trời bèn giáng sự kinh hãi cho các thành ở
chung quanh đó, nên họ chẳng dám đuổi theo các con trai của Gia-cốp.
6. Gia-cốp cùng mọi kẻ đi theo đến tại Lu-xơ (là thành Bê-tên), thuộc về xứ
Ca-na-an.
7. Người lập tại đó một bàn thờ, đặt tên chốn nầy Ên-Bê-tên, vì là nơi Ðức Chúa
Trời đã hiện ra cùng người trong lúc chạy trốn khỏi anh mình.
8. Khi đó Ðê-bô-ra, mụ vú của Rê-be-ca, qua đời, được chôn thân dưới thành
Bê-tên tại gốc dẻ bộp; nhơn đó người ta gọi là cây A-lôn-Ba-cút.
9. Khi ở xứ Pha-đan-A-ram đến, Ðức Chúa Trời lại hiện ra cùng Gia-cốp nữa, ban
phước cho người,
10. và phán rằng: Tên ngươi là Gia-cốp, sau nầy sẽ chẳng gọi Gia-cốp nữa, nhưng
sẽ đặt là Y-sơ-ra-ên. Rồi Ngài đặt tên người là Y-sơ-ra-ên.
11. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Ta là Ðức Chúa Trời toàn năng; ngươi hãy sanh
sản và thêm nhiều; một dân cho đến nhiều dân đều sẽ do nơi ngươi mà sanh, cùng
các vua sẽ do nơi mình ngươi mà ra.
12. Xứ ta đã cho Áp-ra-ham và Y-sác thì ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi.
13. Ðức Chúa Trời bèn ngự lên khỏi nơi Ngài đã phải cùng Gia-cốp.
14. Người dựng một cây trụ đó tại nơi Ðức Chúa Trời đã phán cùng mình, dâng lễ
quán và tưới dầu vào.
15. Ðoạn, Gia-cốp đặt tên nơi Ðức Chúa Trời đã phán cùng mình là Bê-tên.
16. Ở từ Bê-tên đi, họ còn cách Ên-phù-hộ-rát chừng vào thôi đường, thì Ra-chên
sanh nở. Việc sanh nở của người thật đau đớn.
17. Trong khi khó sanh, bà mụ nói rằng: Ðừng sợ chi, vì nàng còn một con trai
nữa.
18. Vả, bởi Ra-chên gần trút linh hồn, vì đương cơn hấp hối, nên người đặt đứa
con trai đó tên là Bê-nô-ni; còn cha nó lại đặt tên là Bên-gia-min.
19. Vậy, Ra-chên qua đời, được chôn bên con đường đi về Ê-phơ-rát, tức là
Bết-lê-hem.
20. Gia-cốp dựng một mộ-bia; ấy là mộ-bia của Ra-chên đến ngày nay hãy còn di
tích.
21. Kế đó, Y-sơ-ra-ên đi, đóng trại ở ngoài nơi tháp Ê-để.
22. Vả, nhầm khi Y-sơ-ra-ên ngụ tại xứ nầy, thì Ru-bên có đến nằm cùng Bi-la, vợ
lẽ của cha mình; Y-sơ-ra-ên hay được việc đó.
23. Vả, Gia-cốp có được mười hai con trai. Con của Lê-a là Ru-bên, trưởng nam
của Gia-cốp; kế nữa là Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca và Sa-bu-lôn.
24. Con của Ra-chên và Giô-sép và Bên-gia-min.
25. Con của Bi-la, đòi của Ra-chên là Ðan và Nép-ta-li;
26. và con của Xinh-ba, đòi của Lê-a, là Gát và A-se. Ấy đó là các con trai của
Gia-cốp sanh tại xứ Pha-đan-A-ram.
27. Gia-cốp đến cùng Y-sác, cha mình, ở Mam-rê, tại thành Ki-ri-át-A-ra-ba, tức
là Hếp-rôn, nơi Áp-ra-ham và Y-sác đã kiều ngụ.
28. Y-sác hưởng thọ được một trăm tám mươi tuổi.
29. Người tuổi cao tác lớn, thỏa mãn về đời mình, tắt hơi, được về cùng tổ phụ.
Ê-sau và Gia-cốp, hai con trai, chôn người.
Sáng-thế Ký
36 chọn đoạn khác
1. Ðây là dòng dõi của Ê-sau, tức là Ê-đôm vậy.
2. Ê-sau cưới các vợ trong bọn con gái xứ Ca-na-an, là A-đa, con gái Ê-lôn,
người Hê-tít; Ô-hô-li-ba-ma, con gái A-na, cháu ngoại của Xi-bê-ôn, người
Hê-vít,
3. cùng Bách-mát, con gái Ích-ma-ên, và là em gái của Nê-ba-giốt.
4. A-đa sanh Ê-li-pha cho Ê-sau; Bách-mát sanh Rê-u-ên;
5. còn Ô-hô-li-ba-ma sanh Giê-úc, Gia-lam và Cô-ra. Ấy đó là các con trai của
Ê-sau sanh tại xứ Ca-na-an.
6. Ê-sau dẫn các vợ, con trai, con gái mình, mọi người nhà, các bầy chiên,
lục-súc, và tài vật mình đã gây dựng tại xứ Ca-na-an, dời qua xứ khác, cách xa
Gia-cốp, em mình.
7. Vả, vì cớ hai anh em của cải nhiều, bầy súc vật đông, xứ đương kiều ngụ không
đủ đất dùng nữa, nên ở chung nhau chẳng được.
8. Vậy, Ê-sau, tức là Ê-đôm, ở trên núi Sê-i-rơ.
9. Ðây là dòng dõi Ê-sau, tổ phụ dân Ê-đôm, ở trên núi Sê-i-rơ.
10. Ðây là tên các con trai Ê-sau: A-đa-vợ người, sanh Ê-li-pha; Bách-mát, cũng
vợ người, sanh Rê-u-ên.
11. Con trai của Ê-li-pha là Thê-ma, Ô-ma, Xê-phô, Ga-tham và Kê-na.
12. Thim-na, vợ lẽ Ê-li-pha, con trai của Ê-sau, sanh A-ma-léc cho người. Ðó là
cháu của A-đa, vợ Ê-sau.
13. Còn đây là con trai của Rê-u-ên: Na-hát, Xê-rách, Sam-ma và Mích-xa. Ấy là
các cháu của Bách-mát, cùng vợ Ê-sau.
14. Và mấy người nầy là con trai của Ô-lô-li-ba-ma, vợ của Ê-sau, con gái A-na,
cháu ngoại Xi-bê-ôn. Nàng sanh cho Ê-sau Giê-úc, Gai-lam, và Cô-ra.
15. Ðây là các trưởng tộc trong vòng con cháu Ê-sau: Các con trai Ê-li-pha con
trưởng nam của Ê-sau, là trưởng tộc Thê-man, trưởng tộc Ô-ma, trưởng tộc Xê-phô,
trưởng tộc Kê-na,
16. trưởng tộc A-ma-léc. Ðó là các trưởng tộc do nơi Ê-li-pha sanh tại xứ Ê-đôm,
và là các cháu của A-đa.
17. Ðây là các con trai của Rê-u-ên, con Ê-sau: trưởng tộc Na-hát, trưởng tộc
Xê-rách, trưởng tộc Sam-ma, và trưởng tộc Mích-xa. Ðó là các trưởng tộc do nơi
Rê-u-ên sanh ra tại xứ Ê-đôm, và là các cháu của Bách-mát.
18. Ðây là các con trai của Ô-lo-li-ba-ma, vợ Ê-sau: trưởng tộc Giê-úc, trưởng
tộc Gia-lam, và trưởng tộc Cô-ra. Ðó là mấy trưởng tộc do Ô-hô-li-ba-ma, vợ
Ê-sau, con gái của A-na, sanh ra.
19. Ấy là các con trai của Ê-sau, tức là Ê-đôm, và đó là mấy trưởng tộc của họ.
20. Ðây là các con trai của Sê-i-rơ, người Hô-rít, thuở xưa ở tại xứ đó:
Lô-than, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na,
21. Ði-sôn, Ét-xe, và Ði-san. Ðó là mấy con trai của Sê-i-rơ, trưởng tộc dân
Hô-rít, ở tại xứ Ê-đôm.
22. Các con trai của Lô-than là Hô-ri và Hê-man; còn Thim-na là em của gái
Lô-than.
23. Ðây là các con trai của Sô-banh: Anh-van, Ma-na-hát, Ê-banh, Sê-phô, và
Ô-nam.
24. Ðây là các con trai của Xi-bê-ôn: Ai-gia và A-na. Ấy là A-na có tìm đặng
suối nước sôi nơi đồng vắng, trong khi chăn lừa cho Xi-bê-ôn, cha nàng.
25. Ðây là con cái của A-na: Ði-sôn và Ô-hô-li-ba-ma, con gái người.
26. Ðây là con trai của Ði-sôn: Hem-đan, Ếch-ban, Dít-ran và Kê-ran.
27. Ðây là con trai của Ét-xe: Binh-han, Xa-van và A-can.
28. Ðây là con trai của Ði-san: Út-sơ và A-ran.
29. Còn đây là các trưởng tộc dân Hô-rít: trưởng tộc Lô-than, trưởng tộc
Sô-banh, trưởng tộc Xi-bê-ôn, trưởng tộc A-na,
30. trưởng tộc Ði-sôn, trưởng tộc Ét-xe, và trưởng tộc Ði-san. Ðó là các trưởng
tộc của dân Hô-rít, ở tại xứ Sê-i-rơ.
31. Trước khi dân Y-sơ-ra-ên chưa có một vua nào cai trị, thì đây là các vua trị
vì xứ Ê-đôm;
32. Bê-la, con trai Bê-ô, trì vì xứ Ê-đôm; tên thành người là Ðin-ha-ba.
33. Vua Bê-la băng, Giô-báp, con trai Xê-rách, người Bốt-ra, lên kế vị.
34. Vua Giô-báp băng, Hu-sam, người xứ Thê-man, lên kế vị.
35. Vua Hu-sam băng, Ha-đát, con trai Bê-đát, lên kế vị. Ấy là vua nầy đánh
thắng dân Ma-đi-an tại đồng Mô-áp; và tên thành người là A-vít.
36. Vua Ha-đát băng, Sam-la, người Ma-rê-ca lên kế vị.
37. Vua Sam-la băng, Sau-lơ, người Rê-hô-bốt ở trên mé sông, lên kế vị.
38. Vua Sau-lơ băng, Ba-anh-Ha-man, con trai Ạc-bồ, lên kế vị.
39. vua Ba-anh-Ha-nan băng, Ha-đa lên kế vị. Tên thành người là Ba-u; vợ người
là Mê-hê-ta-bê-ên, con gái của Mát-rết, cháu ngoại Mê-xa-háp.
40. Ðây là trưởng tộc do nơi Ê-sau sanh ra, kể theo chi tộc, địa hạt và tên
mình: trưởng tộc Thim-na, trưởng tộc Anh-va, trưởng tộc Giê-hết,
41. trưởng tộc Ô-hô-li-ba-ma, trưởng tộc Ê-la, trưởng tộc Phi-nôn,
42. trưởng tộc Kê-na, trưởng tộc Thê-man, trưởng tộc Mép-xa,
43. trưởng tộc Mác-đi-ên à trưởng tộc Y-ram. Ðó là các trưởng tộc của Ê-đôm, tùy
theo nhà ở trong xứ của họ. Tổ phụ của dân Ê-đôm là Ê-sau.
Sáng-thế Ký
37 chọn đoạn khác
1. Gia-cốp, tại xứ của cha mình đã kiều ngụ, là xứ Ca-na-an.
2. Ðây là chuyện dòng dõi của Gia-cốp. Giô-sép, tuổi mười bảy, chăn chiên với
các anh mình; người đi kết bạn cùng con trai Bi-la và con Xinh-ba, hai vợ cha
mình. Giô-sép thuật lại với cha các chuyện xấu của họ nói.
3. Vả, Y-sơ-ra-ên thương yêu Giô-sép hơn những con trai khác, vì là con muộn
mình, nên may cho chàng một cái áo dài có nhiều sắc.
4. Các anh thấy cha thương Giô-sép hơn bọn mình, bèn sanh lòng ganh ghét, chẳng
có thế lấy lời tử tế nói cùng chàng được.
5. Giô-sép có nằm chiêm bao, thuật lại cho các anh mình nghe; họ càng thêm ganh
ghét nữa.
6. Người nói rằng: Tôi có điềm chiêm bao, xin các anh hãy nghe tôi thuật:
7. Chúng ta đương ở ngoài đồng bó lúa, nầy bó lúa tôi đứng dựng lên, còn bó lúa
của các anh đều đến ở chung quanh, sấp mình xuống trước bó lúa tôi.
8. Các anh người bèn đáp rằng: Vậy, mầy sẽ cai trị chúng ta sao? mầy sẽ
hành-quyền trên chúng ta sao? Họ càng ganh ghét hơn nữa, vì điềm chiêm bao và
lời nói của chàng.
9. Giô-sép lại nằm chiêm bao nữa, thuật cùng các anh mình rằng: Tôi còn một điềm
chiêm bao nữa: Nầy mặt trời, mặt trăng, và mười một ngôi sao đều sấp mình xuống
trước mặt tôi!
10. Chàng thuật chiêm bao đó lại cho cha và các anh mình nghe; nhưng cha chàng
quở mà hỏi rằng: Ðiềm chiêm bao của mầy đó có nghĩa chi? Có phải tao, mẹ, và các
anh mầy đều phải đến sấp mình xuống đất trước mặt mầy chăng?
11. Các anh lấy làm ganh ghét chàng; còn cha lại ghi nhớ lấy điều đó.
12. Các anh chàng đi chăn chiên của cha tại Si-chem.
13. Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sép rằng: Các anh con có chăn bầy chiên tại Si-chem
chăng? Lại đây, đặng cha sai con đi đến chúng nó. Giô-sép đáp rằng: Có con đây.
14. Y-sơ-ra-ên biểu rằng: Con hãy đi, xem thử các anh con ra sao, và các bầy
chiên thể nào; rồi đem tin về cho cha hay. Vậy, từ trũng Hếp-rôn, người sai
Giô-sép đi đến Si-chem.
15. Có một người gặp chàng đi lạc trong đồng ruộng, liền hỏi và nói cùng chàng
rằng: Ngươi tìm chi?
16. Ðáp rằng: Tôi tìm các anh tôi. Xin hãy chỉ giùm tôi họ chăn bầy chiên nơi
nào.
17. Người nói: Các anh ngươi ở đây đi rồi, vì tôi có nghe họ nói rằng: Ta hãy đi
đến Ðô-ta-in. Vậy, Giô-sép, đi tìm các anh mình, gặp được tại Ðô-ta-in.
18. Các anh thấy chàng đi ở đàng xa, chưa đến gần, thì đã lập mưu để giết chàng.
19. Chúng bèn nói nhau rằng: Kìa, thằng nằm mộng đến kia!
20. Bây giờ, nào! chúng ta hãy giết nó đi, quăng xuống một cái hố nước nào đó;
đoạn ta sẽ nói rằng nó đã bị thú rừng xé ăn, rồi sẽ xem các điềm chiêm bao của
nó ra sao.
21. Ru-bên nghe qua lời đó, liền giải cứu chàng ra khỏi ra các anh mà rằng:
Chúng ta đừng giết chết nó;
22. lại tiếp: Chúng ta chớ nên làm đổ máu ra; hãy liệng nó trong cái hố nước nơi
đồng vắng kia, và đừng tra tay vào mình nó. Người nói vậy, có ý muốn giải cứu
chàng khỏi tay họ, để trả chàng về cùng cha mình.
23. Vừa khi Giô-sép đến gần các anh, họ bèn lột áo chàng, là áo có nhiều sắc
đương mặc trong mình;
24. rồi, bắt chàng đem quăng trong hố nước. Vả, hố khô cạn, chẳng có nước.
25. Ðoạn, họ ngồi lại ăn. Nhướng mắt lên chợt thấy một đoàn dân Ích-ma-ên ở phía
Ga-la-át đi đến, trên lưng lạc đà họ chở đầy thuốc thơm, nhũ hương và một dược
đương đem đi đến xứ Ê-díp-tô.
26. Giu-đa bèn nói cùng các anh em rằng: Giết em ta mà giấu máu nó, có dùng cho
ta được việc chi?
27. Hè! hãy đem bán nó cho dân Ích-ma-ên và đừng tra tay vào mình nó; vì nó là
em, là cốt nhục của chúng ta. Các anh em đều nghe theo lời người nói.
28. Vả, khi những lái-buôn Ma-đi-an đi ngang qua, các anh kéo Giô-sép lên khỏi
hố nước, rồi bán chàng giá hai mươi miếng bạc cho dân Ích-ma-ên đem qua xứ
Ê-díp-tô.
29. Ru-bên trở lại hố; nầy Giô-sép đâu mất rồi; bèn xé áo mình,
30. trở lại nơi các em mình mà rằng: Ôi! đứa trẻ đâu mất rồi! còn tôi, sẽ đi
đâu.
31. Các anh giết một con dê đực, rồi lấy áo Giô-sép nhúng vào trong máu;
32. đoạn, gởi cái áo nhiều sắc đó đem về cho cha mình và dặn nói rằng: Ðây là
vật chúng tôi đã kiếm được. Vậy, xin hãy nhìn coi, có phải áo của con trai cha
chăng.
33. Gia-cốp nhìn và nói rằng: Ấy là áo của con trai ta đó; một thú dữ đã xé cấu
nó! Quả thật Giô-sép đã bị phân thây rồi!
34. Người xé quần áo mình ra, lấy bao quấn ngang hông, và để tang lâu ngày cho
con trai mình.
35. Hết thảy con trai, con gái hiệp lại an ủy người, nhưng không chịu; bèn nói
rằng: Ta để tang luôn xuống chốn âm phủ cùng con ta! Ấy đó, cha Giô-sép khóc
than chàng như vậy.
36. Các lái buôn Ma-đi-an đem Giô-sép đến xứ Ê-díp-tô, bán cho Phô-ti-pha, quan
thị vệ của Pha-ra-ôn.
Sáng-thế Ký
38 chọn đoạn khác
1. Trong lúc đó, Giu-đa, lìa xa các anh em mình, đến ở cùng một người A-đu-lam,
tên là Hi-ra.
2. Tại đó, Giu-đa thấy con gái của một người Ca-na-an, tên là Su-a, bèn cưới làm
vợ, và ăn ở cùng nàng.
3. Nàng thọ thai, sanh được một con trai, đặt tên là Ê-rơ.
4. Nàng thọ thai nữa, sanh được một con trai đặt tên là Ô-nan;
5. lại sanh thêm một con trai, đặt tên là Sê-la. Vả, lúc vợ sanh sản, thì Giu-đa
ngụ tại Kê-xíp.
6. Giu-đa cưới cho Ê-rơ, con trưởng nam, một người vợ tên là Ta-ma.
7. Nhưng Ê-rơ độc ác trước mặt Ðức Giê-hô-va, nên Ngài giết người đi.
8. Giu-đa bèn biểu Ô-nan rằng: Con hãy lại gần vợ anh con, kết bạn cùng nàng như
em chồng, đặng nối dòng dõi cho anh.
9. Ô-nan biết rằng dòng dõi nầy sẽ chẳng thuộc về mình, nên đương khi đến cùng
nàng, thì làm rơi rớt xuống đất, để đừng sanh dòng dõi cho anh.
10. Nhưng điều người làm vậy không đẹp lòng Ðức Giê-hô-va, nên Ngài cũng giết
người luôn đi.
11. Ðoạn, Giu-đa biểu Ta-ma, dâu mình, rằng: Hãy về ở góa bên nhà cha con, cho
đến chừng nào Sê-la, con trai cha, sẽ trở nên khôn lớn. Vì người nói rằng: Chúng
ta hãy coi chừng, e khi nó cũng chết như hai anh nó chăng. Ta-ma bèn đi về ở nhà
cha mình.
12. Ngày qua tháng lại, con gái của Su-a, vợ Giu-đa, qua đời. Khi đã nguôi lòng,
thì Giu-đa đi cùng bạn là Hi-ra, người A-đu-lam, lên đến nơi mấy thợ hớt lông
chiên mình, tại Thim-na.
13. Người ta cho nàng Ta-ma hay điều đó mà rằng: Nầy, ông gia ngươi đi khiến
Thim-na đặng hớt lông chiên.
14. Nàng bèn cổi áo góa bụa mình lại, rồi ngồi trước cửa thành Ê-na-im, bên con
đường đi về Thim-na; làm vậy là vì nàng đã thấy Sê-la khôn lớn rồi, nhưng họ
không gả mình cho chàng làm vợ.
15. Giu-đa thấy nàng, cho là một kỵ nữ, vì nàng che mặt,
16. bèn lại gần mà nói rằng: Hãy cho ta đến cùng nàng; vì cớ ngươi không biết
nàng là dâu mình. Nàng đáp rằng: Ngươi sẽ cho tôi món chi đặng đi đến cùng tôi?
17. Ðáp rằng: Ta sẽ gởi cho nàng một con dê con của bầy ta. Nàng hỏi: Người sẽ
cho tôi một của chi làm tin, cho đến chừng nào sẽ gởi con dê?
18. Ðáp rằng: Ta sẽ cho nàng của chi làm tin bây giờ? Nàng đáp: Con dầu, dây và
cây gậy của người đương cầm nơi tay. Người liền cho, đi lại cùng nàng; nàng thọ
thai vì người vậy. Ðoạn, nàng đứng dậy mà đi,
19. cổi lúp ra và mặc quần áo góa bụa lại.
20. Giu-đa cậy bạn A-đu-lam mình đem cho con dê con đặng chuộc mấy vật tin nơi
tay người đờn bà nầy; nhưng tìm nàng chẳng thấy.
21. Bạn bèn hỏi dân tại nơi nàng ở rằng: Người kỵ nữ khi trước ở ngoài đường nơi
cửa thành Ê-na-im đâu rồi? Họ đáp rằng: Ở đây chẳng có một kỵ nữ nào hết.
22. Bạn bèn trở về Giu-đa mà rằng: Tôi kiếm nàng không đặng; và dân nơi đó có
nói: ở đây chẳng có một kỵ nữ nào.
23. Giu-đa rằng: Nầy, tôi đã gởi dê con đến, mà bạn chẳng thấy nàng; vậy, để cho
nàng giữ lấy của tin đó, chẳng nên gây điều nhơ nhuốc cho chúng ta.
24. Cách chừng ba tháng sau, người ta có học lại cùng Giu-đa rằng: Ta-ma, dâu
ngươi, đã làm kỵ nữ, và vì nông nổi đó, nàng đã hoang-thai. Giu-đa đáp: Hãy đem
nó ra thiêu đi.
25. Ðương khi người ta đem nàng ra, thì nàng sai đến nói cùng ông gia rằng: Xin
cha hãy nhìn lại con dấu, dây và gậy nầy là của ai. Tôi thọ thai do nơi người mà
có các vật nầy.
26. Giu-đa nhìn biết mấy món đó, bèn nói rằng: Nàng phải hơn ta, vì ta không đưa
Sê-la, con trai ta, cho nàng. Ðoạn, người không ăn ở cùng nàng nữa.
27. Ðến kỳ sanh nở, nầy trong bụng nàng có thai đôi.
28. Ðương lúc sanh nở, một trong hai đứa đưa tay ra trước; bà mụ bắt lấy tay
buộc một sợi chỉ điều, và nói rằng: Ðứa nầy ra trước.
29. Nhưng nó rút tay vào, thì đây, anh nó lại ra. Bà mụ nói rằng: Mầy, tông rách
dường nầy! Họ đặt tên là Phê-rết.
30. Kế em nó ra sau, là đứa nơi tay có sợi chỉ điều, và họ đặt tên là Sê-rách.
Sáng-thế Ký
39 chọn đoạn khác
1. Vả, Giô-sép bị đem qua xứ Ê-díp-tô, thì Phô-ti-pha, người bổn xứ, làm quan
thị vệ của Pha-ra-ôn, mua chàng nơi thay dân Ích-ma-ên đã dẫn đến.
2. Giô-sép ở trong nhà chủ mình, là người Ê-díp-tô, được Ðức Giê-hô-va phù hộ,
nên thạnh lợi luôn.
3. Chủ thấy Ðức Giê-hô-va phù hộ chàng và xui cho mọi việc chi chàng lãnh làm
nơi tay đều được thạnh vượng.
4. Vậy, Giô-sép được ơn trước mặt chủ mình; chủ cắt chàng hầu việc, đặt cai quản
cửa nhà, và phó của cải mình cho chàng hết.
5. Từ khi người đặt Giô-sép cai quản cửa nhà cùng hết thảy của cải mình rồi, thì
Ðức Giê-hô-va vì Giô-sép ban phước cho nhà người; sự ban phước của Ðức Giê-hô-va
bủa khắp mọi vật của người làm chủ, hoặc trong nhà, hoặc ngoài đồng.
6. Người giao hết của cải mình cho Giô-sép coi sóc, chẳng lo đến việc nào nữa,
trừ ra các phần vật thực của mình ăn mà thôi. Vả, Giô-sép hình dung đẹp đẽ, mặt
mày tốt tươi.
7. Sau các việc nầy, vợ chủ đưa mắt cùng Giô-sép, mà nói rằng: Hãy lại nằm cùng
ta.
8. Chàng từ chối và đáp rằng: Chủ đã giao nơi tay tôi mọi vật của người, và nầy,
chủ chẳng lo biết đến việc chi trong nhà nữa;
9. trong nhà nầy chẳng ai lớn hơn tôi, và chủ cùng không cấm chi tôi, trừ ra một
mình ngươi, vì là vợ của chủ tôi. Thế nào tôi dám làm điều đại ác dường ấy, mà
phạm tội cùng Ðức Chúa Trời sao?
10. Thường ngày người dỗ dành mặc dầu, thì Giô-sép chẳng khấng nghe lời dụ dỗ
nằm cùng hay là ở cùng người chút nào.
11. Một ngày kia, Giô-sép vào nhà đặng làm công việc; vả, chẳng có người nhà nào
ở đó,
12. thì người bèn nắm áo chàng mà rằng: Hãy nằm cùng ta! Nhưng chàng liền tuột
áo để lại trong tay người mà chạy trốn ra ngoài.
13. Khi người thấy áo còn lại nơi tay mình, và chàng đã chạy trốn ra ngoài như
vậy,
14. bèn gọi người nhà mà nói rằng: Bay coi! Họ khéo đem vào nhà một thằng
Hê-bơ-rơ để chọc ghẹo ta. Nó lại gần toan nằm cùng ta, nhưng ta la lớn lên.
15. Vừa khi nó nghe ta cất tiếng la, thì tuột áo lại bên ta, chạy trốn ra ngoài.
16. Người bèn để áo của Giô-sép bên mình đợi khi chủ về nhà,
17. học lại cùng chủ y như lời trước, rằng: Thằng nô lệ Hê-bơ-rơ mà ông khéo đem
về nhà đã đến gần đặng chọc ghẹo tôi;
18. nhưng khi tôi cất tiếng la lên, nó tuột áo lại bên tôi, rồi chạy trốn ra
ngoài.
19. Vừa khi chủ của Giô-sép nghe lời vợ nói rằng: Ðó, kẻ nô lệ ông làm điều như
vậy, thì nổi giận phừng phừng,
20. bèn bắt chàng đem bỏ vào tù, là nơi cầm các kẻ phạm tội của vua. Vậy, chàng
ở tù tại đó.
21. Ðức Giê-hô-va phù hộ Giô-sép và tỏ lòng nhân từ cùng chàng, làm cho được ơn
trước mặt chủ ngục.
22. Chủ ngục giao hết các kẻ tù trong tay Giô-sép, chẳng việc chi làm qua khỏi
được chàng.
23. Chủ ngục chẳng soát lại những việc đã ở nơi tay Giô-sép, vì có Ðức Giê-hô-va
phù hộ chàng, xui cho việc chi chàng làm cũng được thạnh vượng
Sáng-thế Ký
40 chọn đoạn khác
1. Mấy việc nầy qua rồi, xảy có quan tửu chánh và quan thượng thiện của vua
Ê-díp-tô phạm đến chúa mình.
2. Pha-ra-ôn nổi giận cùng hai quan mình, là tửu chánh và thượng thiện,
3. bèn đem họ cần ngục tại dinh quan thị vệ, là nơi đương cầm Giô-sép.
4. Quan thị vệ cắt phần Giô-sép hầu việc hai quan đó; họ bị ngồi ngục một ít
lâu.
5. Cùng trong một đêm, quan tửu chánh và quan thượng thiện của vua Ê-díp-tô
đương bị cầm ngục, thấy một điềm chiêm bao, mỗi người một chiêm bao, và mỗi
chiêm bao có ý nghĩa rõ ràng.
6. Sáng mai, Giô-sép đến cùng họ, nhìn thấy sắc buồn bực,
7. bèn hỏi rằng: Ngày nay sao hai quan có sắc mặt âu sầu vậy?
8. Ðáp rằng: Chúng tôi có thấy một điềm chiêm bao mà không ai bàn giùm. Giô-sép
rằng: Sự bàn chiêm bao há chẳng do nơi Ðức Chúa Trời ư? Xin hãy thuật lại điềm
chiêm bao của hai quan cho tôi nghe đi.
9. Quan tửu chánh thuật điềm chiêm bao mình lại cho Giô-sép mà rằng: Trong chiêm
bao, tôi thấy một gốc nho ở trước mặt tôi;
10. gốc nho đó lại có ba nhành. Dường như thấy nhành nảy chồi, trổ bông, chùm có
trái chín thì phải.
11. Tay tôi đương cầm cái chén của Pha-ra-ôn; tôi hái nho đó, ép nước nho vào,
rồi dâng tửu bôi vào tay Pha-ra-ôn.
12. Giô-sép nói: Ý-nghĩa chiêm bao đó là thể nầy: Ba nhành nho tức là ba ngày.
13. Trong ba ngày nữa, Pha-ra-ôn sẽ tha quan ra khỏi ngục, phục chức lại, quan
sẽ dâng cái chén của Pha-ra-ôn vào tay người như cũ, như khi còn làm chức tửu
chánh.
14. Song khi quan được hưởng lạc lại rồi, xin nhớ đến tôi, làm ơn tâu cùng
Pha-ra-ôn về nổi tôi, và đem tôi ra khỏi chốn nầy.
15. Vì tôi bị người ta bắt đem ra khỏi xứ của người Hê-bơ-rơ, và tại đây tôi
cũng chẳng có làm gì mà bị cầm nơi lao-lung nầy.
16. Quan thượng thiện thấy Giô-sép bàn mộng được tốt, bèn nói: Còn trong điềm
chiêm bao của tôi đây, tôi đội ba giỏ bánh trắng trên đầu;
17. trong giỏ cao hơn hết, có đủ món thực vật của thợ làm bánh hấp cho
Pha-ra-ôn; chim đáp vào giỏ trên đầu tôi ăn các món đó.
18. Giô-sép đáp rằng: Ý-nghĩa chiêm bao nầy là, ba giỏ, tức là ba ngày.
19. Trong ba ngày nữa, Pha-ra-ôn sẽ xử trảm quan, sai đem treo lên cây cho chim
chóc ăn thịt quan vậy.
20. Ðến ngày thứ ba, là ngày sanh-nhựt của Pha-ra-ôn, người bèn bày tiệc đãi cả
quần thần, và tha quan tửu chánh cùng quan thượng thiện ra khỏi ngục.
21. Pha-ra-ôn phục chức quan tửu chánh lại như xưa, đặng quan nầy dân tửu bôi
vào tay mình;
22. nhưng lại hạ lịnh đem treo quan thượng thiện, y như lời Giô-sép đã bàn ra.
23. Ðoạn, quan tửu chánh chẳng còn nhớ đến Giô-sép nữa; quên người đi.
Sáng-thế Ký
41 chọn đoạn khác
1. Cách hai năm sau, Pha-ra-ôn nằm chiêm bao thấy mình đứng bên bờ sông.
2. Nầy đâu dưới sông đi lên bảy con bò mập và tốt, ăn cỏ trong bung.
3. Rồi nầy, bảy con bò khác, xấu dạng, gầy guộc, ở dưới sông đi theo lên sau,
đến đứng gần các con bò trước trên bờ sông.
4. Bảy con bò xấu dạng, gầy guộc nuốt bảy con bò mập tốt. Pha-ra-ôn bèn thức
giấc.
5. Vua nằm ngủ lại, chiêm bao lần thứ nhì, thấy bảy gié lúa chắc, tốt tươi, mọc
chung trên một cộng rạ.
6. Kế đó, bảy gié lúa khác lép và bị gió đông thổi háp, mọc theo bảy gié lúa
kia.
7. Bảy gié lúa lép nuốt bảy gié lúa chắc. Pha-ra-ôn bèn thức giấc; và nầy, thành
ra một điềm chiêm bao.
8. Sáng mai, tâm thần người bất định, truyền đòi các pháp-sư và các tay bác sĩ
xứ Ê-díp-tô đến, thuật lại điềm chiêm bao mình cho họ nghe; nhưng chẳng có ai
bàn được điềm chiêm bao đó cho vua hết.
9. Quan tửu chánh bèn tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Bây giờ, tôi nhớ đến lỗi của tôi.
10. Ngày trước, bệ hạ nổi giận cùng quần thần, có cầm ngục quan thượng thiện và
tôi nơi dinh quan thị vệ.
11. Trong lúc đó, cùng một đêm kia, chúng tôi có thấy điềm chiêm bao, chiêm bao
mỗi người đều có ý nghĩa riêng rõ ràng.
12. Tại đó, cùng chung ngục, có một người Hê-bơ-rơ, còn trẻ, kẻ gia-đinh của
quan thị vệ; chúng tôi thuật lại cho chàng nghe điềm chiêm bao của mình; chàng
bàn rõ ra cho ai mỗi chiêm bao nấy.
13. Rồi ra, công việc xảy đến y như lời chàng bàn: bệ hạ phục chức tôi lại, và
xử treo quan kia.
14. Pha-ra-ôn bèn sai đi đòi Giô-sép; họ lập tức tha người ra khỏi ngục, cạo mặt
mày cho, biểu thay đổi áo xống, rồi vào chầu Pha-ra-ôn.
15. Pha-ra-ôn phán cùng Giô-sép rằng: Trẫm có thấy một điềm chiêm bao mà chẳng
ai bàn ra. Vậy, trẫm nghe rằng khi người ta thuật điềm chiêm bao lại cho, thì
ngươi bàn được.
16. Giô-sép tâu rằng: Ðó chẳng phải tôi, nhưng ấy là Ðức Chúa Trời đem sự bình
an đáp cho bệ hạ vậy.
17. Pha-ra-ôn phán rằng: Nầy, trong điềm chiêm bao trẫm đương đứng bên bờ sông.
18. Nầy đâu bảy con bò mập và tốt dưới sông đi lên, đến ăn cỏ trong bưng.
19. Rồi bảy con bò khác xấu dạng gầy guộc đi theo lên sau; thật trẫm chẳng thấy
trong xứ Ê-díp-tô nầy có bò xấu dạng như vậy bao giờ.
20. Bảy con bò xấu dạng gầy guộc đó nuốt bảy con bò mập tốt trước kia,
21. nuốt vào bụng, mà dường như không có nuốt, vì các con bò đó vẫn xấu dạng như
xưa.
22. Trẫm bèn thức giấc; rồi lại thấy điềm chiêm bao khác, là bảy gié lúa chắc
tốt tươi mọc chung trên một cộng rạ.
23. Kế đó, bảy gié lúa khác, khô, lép, bị gió đông thổi háp, mọc theo bảy gié
lúa kia;
24. và bảy gié lúa lép đó lại nuốt bảy gié lúa chắc. Trẫm đã thuật điềm chiêm
bao nầy cho các pháp-sư, nhưng không ai giải nghĩa ra được.
25. Giô-sép tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Hai điềm chiêm bao của bệ hạ thấy đó đồng
một nghĩa mà thôi; Ðức Chúa Trời mách cho bệ hạ biết trước những việc Ngài sẽ
làm.
26. Bảy con bò mập tốt đó, tức là bảy năm; bảy gié lúa chắc đó cũng là bảy năm.
Ấy chỉ đồng một điềm chiêm bao vậy.
27. Bảy con bò xấu dạng gầy guộc lên theo sau bảy con bò kia, tức là bảy năm; và
bảy gié lúa lép bị gió đông thổi háp đó, tức là bảy năm đói kém.
28. Ấy là điều tôi đã tâu cùng bệ hạ rồi: Ðức Chúa Trời có cho bệ hạ thấy những
việc Ngài sẽ làm.
29. Nầy, trong khắp xứ Ê-díp-tô sẽ có bảy năm được mùa dư dật.
30. Nhưng bảy năm đó lại liền tiếp bảy năm đói kém; dân bổn xứ đều sẽ quên sự dư
dật đó, và ách đói kém sẽ làm cho toàn xứ hao mòn.
31. Và vì sự đói kém liên tiếp nầy lớn quá, nên thiên hạ chẳng còn thấy chi về
sự dư dật đó nữa.
32. Nếu điềm chiêm bao đến hai lần cho bệ hạ, ấy bởi Ðức Chúa Trời đã quyết định
điều đó rồi, và Ngài mau mau lo làm cho thành vậy.
33. Bây giờ bệ hạ khá chọn một người thông minh trí-huệ, lập người lên làm đầu
trong xứ Ê-díp-tô,
34. cùng lập các ủy viên trong xứ, để góp một phần năm của số thâu vào trong bảy
năm được mùa dư dật đó.
35. Họ hãy thâu góp hết thảy mùa màng trong bảy năm được mùa dư dật sẽ đến sau
nầy, cùng thâu thập lúa mì sẵn dành cho Pha-ra-ôn, dùng làm lương để dành trong
các thành, và họ hãy giữ gìn lấy.
36. Các lương thực nầy phải để dành cho bảy năm đói kém sẽ đến trong xứ
Ê-díp-tô, hầu cho xứ nầy khỏi bị diệt bởi sự đói kém đó.
37. Các lời nầy đẹp ý Pha-ra-ôn và quần thần.
38. Pha-ra-ôn phán cùng quần thần rằng: Chúng ta há dễ tìm một người như người
nầy, có thần minh của Ðức Chúa Trời được sao?
39. Pha-ra-ôn phán cùng Giô-sép rằng: Vì Ðức Chúa Trời xui cho ngươi biết mọi
việc nầy, thì chẳng còn ai được thông minh trí-huệ như ngươi nữa.
40. Vậy, ngươi sẽ lên cai trị nhà trẫm; hết thảy dân sự của trẫm đều sẽ vâng lời
ngươi. Trẫm lớn hơn ngươi chỉ vì ngự ngôi vua mà thôi.
41. Pha-ra-ôn lại phán cùng Giô-sép rằng: Hãy xem! trẫm lập ngươi cầm quyền trên
cả xứ Ê-díp-tô.
42. Vua liền cổi chiếc nhẫn trong tay mình, đeo vào tay Giô-sép, truyền mặc áo
vải gai mịn, và đeo vòng vàng vào cổ người;
43. rồi, truyền cho lên ngồi sau xe vua, có người đi trước hô rằng: Hãy quì
xuống! Ấy, Giô-sép được lập lên cầm quyền cả xứ Ê-díp-tô là vậy.
44. Pha-ra-ôn phán cùng Giô-sép: Ta là Pha-ra-ôn, nhưng nếu chẳng có ngươi, thì
trong cả xứ Ê-díp-tô không có ai giơ tay đưa chơn lên được.
45. Pha-ra-ôn đặt tên Giô-sép là Xa-phơ-nát-Pha-nê-ách, đưa nàng Ách-nát, con
gái Phô-ti-phê-ra, thầy cả thành Ôn, cho người làm vợ. Người thường tuần hành
trong xứ Ê-díp-tô.
46. Vả, khi Giô-sép ra mắt Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, thì người đã ba mươi tuổi.
Vậy, người từ tạ Pha-ra-ôn mà đi tuần khắp xứ Ê-díp-tô.
47. Trong bảy năm được mùa dư dật, đất sanh sản ra đầy dẫy.
48. Giô-sép bèn thâu góp hết thảy lương thực của bảy năm đó trong xứ Ê-díp-tô,
và chứa lương thực nầy khắp các thành; trong mỗi thành, đều dành chứa hoa lợi
của các ruộng ở chung quanh thành đó.
49. Vậy, Giô-sép thâu góp lúa mì rất nhiều, như cát nơi bờ biển, cho đến đỗi
người ta đếm không được, vì đầy dẫy vô số.
50. Trước khi đến năm đói kém, thì Ách-nát, con gái Phô-ti-phê-ra, thầy cả thành
Ôn, sanh cho Giô-sép hai con trai.
51. Giô-sép đặt tên đứa đầu lòng là Ma-na-se, vì nói rằng: Ðức Chúa Trời đã làm
cho ta quên điều cực nhọc, và cả nhà cha ta.
52. Người đặt tên đứa thứ nhì là Ép-ra-im, vì nói rằng: Ðức Chúa Trời làm cho ta
được hưng vượng trong xứ mà ta bị khốn khổ.
53. Bảy năm được mùa dư dật trong xứ Ê-díp-tô bèn qua,
54. thì bảy năm đói kém khởi đến, y như lời Giô-sép đã bàn trước. Khắp các xứ
khác cũng đều bị đói, nhưng trong cả xứ Ê-díp-tô lại có bánh.
55. Ðoạn, cả xứ Ê-díp-tô đều bị đói, dân chúng đến kêu cầu Pha-ra-ôn xin lương.
Pha-ra-ôn phán cùng bổn dân rằng: Hãy đi đến Giô-sép, rồi làm theo lời người sẽ
chỉ bảo cho.
56. Khi khắp xứ bị đói kém, thì Giô-sép mở mọi kho lúa mà bán cho dân Ê-díp-tô.
57. Xứ càng đói nhiều nữa; vả, vì khắp thế gian đều bị đói quá, nên đâu đâu cũng
đổ đến Ê-díp-tô mùa lúa nơi Giô-sép bán.
Sáng-thế Ký
42 chọn đoạn khác
1. Gia-cốp thấy xứ Ê-díp-tô có lúa bán ra, bèn nói cùng các con trai mình rằng:
Sao bay ngơ ngẩn nhìn nhau vậy?
2. Lại rằng: Nầy, cha nghe dưới xứ Ê-díp-tô có lúa bán; bay hãy xuống đó mua lúa
cho chúng ta, hầu cho chúng ta sống và khỏi chết, chớ!
3. Mười người anh của Giô-sép bèn xuống Ê-díp-tô đặng mua lúa.
4. Nhưng Gia-cốp không cho Bên-gia-min, em Giô-sép, đi cùng các anh; vì nghĩ
rằng: Ta nên giữ chừng, kẻo xảy ra điều rủi ro cho nó.
5. Xứ Ca-na-an bấy giờ cũng đói, nên các con trai của Y-sơ-ra-ên cũng đổ xuống
Ê-díp-tô mua lúa như các người khác.
6. Vả, lúc nầy, chánh Giô-sép cai trị trong nước, và bán lúa cho cả dân bổn xứ.
Các anh Giô-sép bèn đến, sấp mình xuống trước mặt người.
7. Giô-sép thấy, nhìn biết các anh mình; nhưng giả làm mặt lạ cùng họ, nói một
cách xẳng rằng: Các ngươi ở đâu đến? Ðáp rằng: Ở xứ Ca-na-an đến đặng mua lúa.
8. Vậy, Giô-sép nhìn biết các anh mình; nhưng họ nhìn lại chẳng ra.
9. Giô-sép nhớ lại điềm chiêm bao mình đã thấy về anh em mình, liền thét rằng:
Các ngươi là thám tử, đến đây đặng dòm hành những nơi yếu óp của xứ ta.
10. Ðáp rằng: Thưa chúa, chẳng phải vậy; các tôi tớ chúa đến đặng mua lúa mà
thôi.
11. Chúng tôi đây đều là con một cha, vốn nhà lương thiện, chẳng phải là thám tử
đâu.
12. Người đáp lại rằng: Chẳng phải; các ngươi đến đặng dòm hành những nơi yếu óp
của xứ nầy.
13. Ðáp rằng: Kẻ tôi tớ chúa có mười hai anh em, con của một cha, nguyên xứ
Ca-na-an; nầy một người đã đi mất biệt, còn người út hiện bây giờ hãy ở tại nhà
cùng cha chúng tôi.
14. Giô-sép nói: Ấy quả thật như ta nói, các ngươi là thám tử.
15. Ðây là điều ta thử các ngươi: Ta chỉ mạng Pha-ra-ôn mà thề rằng, hễ em út
các ngươi không đến đây thì chẳng bao giờ các ngươi ra khỏi chốn nầy được.
16. Hãy sai một người nào trong bọn các ngươi về dẫn em út xuống; còn bao nhiêu
thì phải ở tù lại đây. Lời các ngươi phải thử đã, rồi ta sẽ biết các ngươi nói
đó có quả thật chăng. Nếu chẳng thật, thì ta chỉ mạng Pha-ra-ôn thề rằng, các
ngươi là thám tử đó.
17. Ðoạn, Giô-sép truyền đem giam họ chung trong ngục ba ngày.
18. Ngày thứ ba, Giô-sép nói cùng họ rằng: Ta kính sợ Ðức Chúa Trời; hãy làm như
điều nầy, thì được sống.
19. Nếu các ngươi vốn nhà lương thiện, thì hãy để một người nào ở tù lại đây,
còn bao nhiêu đem lương thực về nuôi đói cho nhà các ngươi.
20. Ðoạn, hãy dẫn em út xuống đây, thì lời các ngươi sẽ cho là thật, và các
ngươi chẳng phải chết. Vậy, họ nghe theo.
21. Họ bèn nói với nhau rằng: Quả thật chúng ta cam tội cùng em ta ra; vì lúc
trước ta thấy tâm hồn nó buồn thảm khi nó xin nhờ ơn, nhưng ta không khứng cho;
vậy nên tai vạ nầy mới xảy đến cho chúng ta.
22. Ru-bên đáp rằng: Anh há không có nói cùng các em rằng: Chớ phạm tội nầy cùng
đứa trẻ đó sao? Nhưng các em không nghe; nên bây giờ huyết nó đòi chúng ta
thường lại.
23. Vả, Giô-sép vẫn dùng người thông ngôn nói chuyện lại cùng các anh, nên họ
tưởng Giô-sép chẳng nghe hiểu.
24. Giô-sép xây mặt qua chỗ khác mà khóc. Ðoạn xây mặt lại nói chuyện cùng họ;
bèn bắt Si-mê-ôn trong vòng anh em, truyền trói lại trước mặt họ.
25. Giô-sép truyền đầy tớ xúc lúa đổ đầy bao và để bạc lại trong đó cho mỗi
người anh em, cũng để thêm lương thực dùng dọc đường. Ðầy tớ làm y như lời.
26. Ðoạn, anh em chất mấy bao lúa lên lưng lừa, rồi đi.
27. Ðến quán, một người trong bọn mở bao ra cho lừa ăn thóc, thấy bạc mình ở tại
miệng bao;
28. bèn nói cùng anh em rằng: Bạc của tôi trả lại, hiện trong bao tôi đây! Các
anh em nhát gan, vừa nói với nhau, vừa run, mà rằng: Ðức Chúa Trời đã làm chi
cho chúng ta đây?
29. Các anh em trở về cùng Gia-cốp, cha mình, tại xứ Ca-na-an, thuật lại cho
người nghe mọi nỗi đã xảy đến, rằng:
30. người đương làm chúa tại xứ Ê-díp-tô nói với chúng tôi cách xẳng xớm, cho
chúng tôi là thám tử.
31. Song chúng tôi có thưa cùng người rằng: Chúng tôi vốn nhà lương thiện, nào
có phải là thám tử đâu.
32. Chúng tôi được mười hai anh em, con một cha; một người đã đi mất biệt, còn
người út hiện bây giờ ở nhà cùng cha, tại xứ Ca-na-an.
33. Người làm chúa xứ đó dạy rằng: Làm như vầy, ta mới cho các ngươi là lương
thiện: Hãy để lại cùng ta một người nào trong bọn các ngươi, còn bao nhiêu sẽ
đem lương thực về nuôi đói cho nhà các ngươi;
34. đoạn, hãy dẫn em út đến cho ta. Vậy, ta mới biết rằng các ngươi chẳng phải
là thám tử, nhưng là người lương thiện; ta sẽ giao em lại cho, và các ngươi sẽ
được buôn bán trong xứ nầy.
35. Vả, đương khi các anh em trút lúa mì ra bao, nầy đâu, trong mỗi bao có gói
bạc của mỗi người; cha và các anh em thấy những gói bạc mình, đều lấy làm sợ
hãi.
36. Gia-cốp, cha họ bèn nói rằng: Bay làm mất các con tao; Giô-sép đã mất biệt,
Si-mê-ôn cũng mất biệt; mà bây giờ, lại muốn dẫn Bê-gia-min đi nữa sao! Các nông
nỗi nầy đều đổ lại cho tao hết!
37. Ru-bên thưa lại cùng cha rằng: Cha hãy giao em nơi tôi, tôi sẽ dẫn về cho.
Ví bằng chẳng dẫn em về, thì cha hãy giết hai đứa con trai tôi đi.
38. Nhưng Gia-cốp đáp rằng: Con út tao sẽ chẳng đi xuống với bay đâu; vì anh nó
đã chết rồi, chỉ còn một mình nó mà thôi. Nếu điều rủi ro chi xảy đến cho nó nơi
dọc đường bay đi, tức nhiên bay làm cho kẻ tóc bạc nầy đau lòng xót dạ xuống âm
phủ.
Sáng-thế Ký
43 chọn đoạn khác
1. Vả, sự đói kém trong xứ lớn lắm.
2. Khi nội nhà đã ăn hết lương thực ở xứ Ê-díp-tô đem về rồi, thì cha các người
ấy dạy rằng: Bay hãy trở xuống mua một ít lương thực cho chúng ta.
3. Giu-đa thưa: Người đó có nói quyết cùng các con rằng: Ví em út không theo
xuống với các ngươi, thì sẽ không bao giờ thấy mặt ta.
4. Nếu cha cho em đi với, thì chúng tôi mới xuống Ê-díp-tô mua lương thực cho
cha được.
5. Bằng không, thì chúng tôi chẳng trở xuống đâu, vì người đó đã nói rằng: Ví em
út không theo xuống với các ngươi, thì sẽ không bao giờ thấy mặt ta.
6. Y-sơ-ra-ên quở rằng: Sao bay khéo tệ cùng tao, mà tỏ cho người ấy rằng bay
còn một em nữa?
7. Thưa rằng: Người đó hỏi kỹ càng về chúng tôi, và về bà con chúng tôi rằng:
Thân-phụ các ngươi còn sống chăn? cò có một người anh em nào nữa chăng? Chúng
tôi có đáp các lời hỏi đó. Há dễ biết người đó sẽ dặn chúng tôi rằng: Hãy đem em
út xuống đây, sao?
8. Giu-đa lại thưa cùng Y-sơ-ra-ên cha mình, rằng: Hãy cho đứa trẻ theo con, thì
chúng tôi sẽ đứng dậy đi, hầu cho chúng ta, nào các con, nào cha, nào các cháu
của cha đây đều được sống và khỏi chết.
9. Con sẽ bảo lãnh em cho; cha sẽ cứ nơi con mà đòi em. Nếu không dẫn em về
không để em trước mặt cha, thì con đây sẽ cam tội cùng cha mãi mãi.
10. Vả, nếu không có điều dùng dằng, thì chúng tôi đã đi và về được hai lần rồi.
11. Ðoạn, Y-sơ-ra-ên, cha các anh em, nói rằng: Nếu việc đã thể kia, thì bay
phải làm thể nầy: Hãy lấy trong đồ hành lý những thổ sản quí nhứt của xứ ta: một
ít nhũ hương và mật ong, các hương hoa và một dược, phi tử và hạnh nhân, đem
dâng cho người đó làm của lễ.
12. Hãy đem theo một số tiền bằng hai, đặng thối hồi tiền mà họ đã để lại nơi
miệng bao của bay: có lẽ là một sự lộn chăng.
13. Bay hãy đứng dậy đi, dẫn em út theo và trở xuống đến người đó.
14. Cầu xin Ðức Chúa Trời toàn năng xui cho bay được ơn trước mặt người, và tha
đứa em kia và Bên-gia-min cho bay. Còn phần cha, nếu phải mất con, thì cha chịu
phận vậy!
15. Vậy, các anh em đem theo của lễ và một số tiền bằng hai, cùng dẫn
Bên-gia-min đồng đứng dậy đi xuống Ê-díp-tô, mà ra mắt Giô-sép.
16. Vừa khi Giô-sép thấy Bên-gia-min đi theo xuống với, bèn truyền cho quản gia
rằng: Hãy đua các người nầy vào nhà trong, bắt con gì làm thịt và nấu dọn đi; vì
trưa nầy họ sẽ dùng bữa cùng ta.
17. Quản gia làm theo y như lời dặn, đưa họ vào nhà Giô-sép.
18. Anh em thấy mình phải đưa vào nhà Giô-sép, thì sợ hãi, và nói với nhau rằng:
Ấy cũng vì số tiền đã để lại vào bao chúng ta lần trước, nên họ mới đem chúng ta
vào chốn nầy, đặng tìm cớ xông vào đánh chúng ta, bắt chúng ta làm tôi mọi, và
chiếm đoạt mấy con lừa của chúng ta.
19. Mấy anh em bèn đến gần quản gia của Giô-sép, thưa cùng người tại ngoài cửa
20. mà rằng: Xin chúa tha lỗi cho! anh em chúng tôi đã đến đây một lần rồi, đặng
mua lương thực;
21. và khi trở về đến nhà quán, mở các bao ra, nầy số bạc của mỗi người đều ở
tại miệng bao mình; cân nặng bao nhiêu đều y như bấy nhiêu. Nầy, chúng tôi có
đem lại số bạc đó,
22. và cũng có đem thêm số bạc nữa đặng mua lương thực. Chẳng biết ai để bạc lại
trong bao chúng tôi.
23. Quản gia đáp rằng: Mọi việc đều bình yên! đừng sợ chi cả! Ấy là Ðức Chúa
Trời của các ngươi, tức Ðức Chúa Trời của cha các ngươi, đã ban vật quí vào bao.
Còn bạc các ngươi thì đã có giao cho ta. Ðoạn, người dẫn Si-mê-ôn đến cùng anh
em;
24. rồi đưa anh em vào nhà Giô-sép, đem nước ra cho rửa chơn, và cũng cho những
lừa ăn cỏ nữa.
25. Các anh em bèn sửa soạn của lễ, đợi trưa Giô-sép về; vì có hay rằng mình sẽ
ăn bữa tại nhà nầy.
26. Khi Giô-sép trở về, các anh em bèn lấy của lễ đã đem theo, dâng cho Giô-sép
tại nhà; rồi cùng sấp mình xuống đất trước mặt người.
27. Người liền hỏi thăm họ mạnh giỏi thể nào, và nói rằng: Người cha già mà các
ngươi đã nói cùng ta đó được mạnh khỏe chăng? còn sống chăng?
28. Ðáp rằng: Kẻ tôi tớ cháu, là cha chúng tôi, vẫn mạnh khỏe và còn sống. Ðoạn,
họ cùi đầu và lạy.
29. Giô-sép nhướng mắt thấy Bên-gia-min, em ruột, con trai của mẹ mình, thì hỏi
rằng: Ðó có phải em út mà các ngươi đã nói cùng ta chăng? Và tiếp rằng: Con út
ơi! cầu xin Ðức Chúa Trời làm ơn cho ngươi!
30. Vì thấy em mình, nên Giô-sép tất lòng cảm động, lật đật bước ra ngoài, tìm
nơi nào đặng khóc. Người vào phòng nhà trong và khóc.
31. Ðoạn, rửa mặt, bước ra, làm bộ chắc gan mà nói rằng: Hãy dọn bữa ăn đi.
32. Người ta dọn cho Giô-sép ăn riêng, và cho các anh em ăn riêng. Người
Ê-díp-tô ăn chung cùng người cũng dọn cho ngồi riêng nữa; vì người Ê-díp-tô có
tánh gớm người Hê-bơ-rơ, nên không ăn chung được.
33. Vậy, các anh em bèn ngồi lại trước mặt Giô-sép, lớn nhỏ tùy theo thứ tự
mình, ngơ ngẩn mà nhìn nhau.
34. Giô-sép sai đem mấy món đồ ăn trước mặt mình cho các anh em; nhưng phần
Bên-gia-min lại nhiều gấp năm của các người khác. Họ uống và ăn ngon vui cùng
Giô-sép.
Sáng-thế Ký
44 chọn đoạn khác
1. Giô-sép bèn truyền lịnh cho quản gia rằng: Hễ các người đó chở nổi bao nhiêu,
thì hãy đổ lương thực cho họ đầy bao bấy nhiêu, rồi để bạc của mỗi người lại nơi
miệng bao họ.
2. Lại hãy để cái chén bằng bạc ta tại miệng bao chung với bạc mua lúa của người
út nữa. Quản gia bèn làm y như lời Giô-sép dặn mình.
3. Ngày mai, trời vừa sáng, người ta cho các người đó và lừa về.
4. Khi đi ra khỏi thành chưa xa, Giô-sép nói cùng quản gia rằng: Ngươi hãy đứng
dậy, đuổi theo mấy người đó; khi theo kịp rồi, hãy nói rằng: Sao các ngươi lấy
oán trả ơn như vậy?
5. Có phải cái chén nầy là của chúa ta thường dùng uống rượu và bói chăng? Các
ngươi đã làm một việc chẳng thiện đó.
6. Quản gia theo kịp, lặp lại mấy lời ấy;
7. các anh em bèn đáp rằng: Sao chúa nói như vậy? Chẳng bao giờ kẻ tôi tớ chúa
có tưởng làm đến việc thế nầy!
8. Ðây, từ xứ Ca-na-an chúng tôi có đem bạc đã được nơi miệng bao xuống giao lại
cho người thay; dễ nào lại có ý mong ăn cắp bạc hay vàng của dinh chủ người sao?
9. Xin cho kẻ tôi tớ nào mà người tìm được cái chén đó phải chết đi, và chính
chúng tôi sẽ làm tôi mọi cho chúa.
10. Quản gia đáp: Ừ thôi! hãy làm như lời các ngươi đã nói: ta tìm được chén nơi
ai thì người đó sẽ làm tôi mọi cho ta đó; còn các người thì vô tội.
11. Tức thì, mỗi người lật đật hạ bao mình xuống đất và mở ra.
12. Quản gia lục soát, bắt từ bao anh cả lần đến bao em út. Cái chén bèn tìm
đặng trong bao Bê-gia-min.
13. Mỗi người xé áo mình ra, chất bao lúa lên lưng lừa, rồi cùng trở lại thành.
14. Giu-đa cùng anh em đồng vào đến nhà Giô-sép, người hãy còn ở nơi đó; họ bèn
sấp mình xuống đất trước mặt người.
15. Giô-sép hỏi: Các ngươi gây nên nông nỗi chi vậy? Há chẳng biết một kẻ như ta
đây có tài bói sao?
16. Giu-đa đáp: Chúng tôi sẽ nói cùng chúa làm sao? sẽ phân lại làm sao? sẽ chữa
mình chúng tôi làm sao? Ðức Chúa Trời đã thấu rõ điều gian ác của tôi tớ chúa
rồi. Nầy, chúng tôi cùng kẻ đã bị bắt được chén nơi tay đều làm kẻ tôi tớ cho
chúa.
17. Nhưng Giô-sép đáp rằng: Ta chẳng hề có ý làm như vậy đâu! Người mà đã bị bắt
được chén nơi tay sẽ làm tôi mọi ta; còn các ngươi hãy trở về nhà cha mình bình
yên.
18. Giu-đa bèn lại gần Giô-sép mà thưa rằng: Vì chúa ngang vai Pha-ra-ôn, xin
lỗi chúa, chớ nổi giận cùng kẻ tôi tớ, để tôi nói một lời cho chúa nghe.
19. Chúa có hỏi kẻ tôi tớ rằng: Các ngươi còn cha hay là anh em nào chăng?
20. Có thưa lại cùng chúa rằng: Chúng tôi còn một cha già, cùng một con trai đã
sanh muộn cho người. Anh ruột đứa nầy đã chết rồi, nên trong vòng các con của mẹ
nó, nó còn một mình, và cha thương nó lắm.
21. Vả, chúa có dặn rằng: Hãy dẫn nó xuống đến ta, hầu cho ta thấy nó được tận
mắt.
22. Và chúng tôi có thưa lại cùng chúa rằng: Ðứa trẻ chẳng lìa cha được; nếu lìa
ra thì cha sẽ chết.
23. Nhưng chúa lại dạy: Nếu em út không theo các ngươi xuống đây, thì các ngươi
chẳng còn thấy mặt ta nữa.
24. Nên khi chúng tôi trở về nhà kẻ tôi tớ chúa, là cha tôi, thì chúng tôi có
thuật lại cho người nghe những lời của chúa.
25. Kế ấy, cha lại biểu chúng tôi rằng: Hãy trở xuống đặng mua một ít lương
thực.
26. Chúng tôi thưa lại rằng: Không được; nhưng nếu em út đi theo cùng, thì mới
trở xuống được; bằng không, thì chúng tôi không thế ra mắt người đó.
27. Kẻ tôi tớ chúa, là cha tôi, đáp rằng: Bây biết rằng vợ ta sanh cho ta hai
đứa con trai;
28. một đứa đã từ ta đi mất-biệt; ta cũng đã nói: Chắc đã bị thú dữ xé rồi, vì
đến bây giờ chưa thấy lại.
29. Nếu bây còn dắt đứa nầy đi khỏi mặt ta nữa, rủi có điều tai hại chi xảy đến
cho nó, tức nhiên bây sẽ làm cho kẻ tóc bạc nầy đau lòng xót dạ mà xuống âm phủ.
30. Cha thương em út tôi lắm đến đỗi hai linh hồn khắng khít nhau; nếu bây giờ,
khi tôi trở về nơi kẻ tôi tớ chúa, là cha tôi, mà không có em út đó,
31. thì khi vừa thấy con út không còn nữa, chắc người sẽ chết. Nếu vậy, các tôi
tớ chúa sẽ làm cha già tóc bạc của chúng tôi, cũng là kẻ tôi tớ chúa, đau lòng
xót dạ xuống âm phủ.
32. Vì kẻ tôi tớ nầy có chịu bảo lãnh đứa con út đó mà thưa rằng: Nếu con không
đem em về cho cha, thì sẽ cam tội cùng cha mãi mãi.
33. Vậy bây giờ, xin cho kẻ tôi tớ chúa ở tôi mọi thế cho đứa trẻ, đặng nó theo
trở lên cùng các anh mình.
34. Vì, nếu đứa trẻ không theo về, làm sao tôi dám về cùng cha tôi? Ôi, tôi nỡ
nào thấy điều tai họa của cha tôi ư!
Sáng-thế Ký
45 chọn đoạn khác
1. Bây giờ, Giô-sép không còn thể nào cầm lòng cho đậu được trước mặt các người
hầu chung quanh, bèn la lên rằng: Hãy đuổi họ ra hết thảy! Khi Giô-sép tỏ thật
cùng các anh em mình, thì không có một người nào khác ở tại đó hết.
2. Người cất tiếng lên khóc; dân Ê-díp-tô nghe và nhà Pha-ra-ôn nghe nữa.
3. Giô-sép nói cùng anh em rằng: Tôi là Giô-sép. Cha tôi còn sống chăng? Nhưng
trước mặt người các anh em bối rối, chẳng đáp lời được.
4. Người lại nói rằng: Các anh em hãy lại gần tôi. Họ bèn lại gần. Người nói:
Tôi là Giô-sép, em mà các anh đã bán đặng bị dẫn qua xứ Ê-díp-tô.
5. Bây giờ, đừng sầu não, và cũng đừng tiếc chi về điều các anh đã bán tôi đặng
bị dẫn đến xứ nầy; vì để giữ gìn sự sống các anh, nên Ðức Chúa Trời đã sai tôi
đến đây trước các anh.
6. Kìa, hai năm rồi trong xứ đã bị đói kém, và còn năm năm nữa sẽ không còn cày
cấy chi, gặt hái chi được hết.
7. Ðức Chúa Trời sai tôi đến đây trước, đặng làm cho các anh còn nối dòng trên
mặt đất, và nương một sự giải cứu lớn đặng giữ gìn sự sống cho anh em.
8. Không, chẳng phải các anh sai tôi đến đây đâu, ấy là Ðức Chúa Trời; Ngài
dường đặt tôi làm cha Pha-ra-ôn, cai quản cả nhà người, vì trị khắp xứ Ê-díp-tô.
9. Các anh hãy mau mau trở về cha tôi đi, và nói với người rằng: Giô-sép, con
của cha, có nói như vầy: Ðức Chúa Trời đã đặt tôi làm chúa cả xứ Ê-díp-tô, cha
hãy xuống với tôi; xin đừng chậm trễ,
10. cha, các con, các cháu, các chiên, bò cùng tài vật của cha sẽ ở tại xứ
Gô-sen gần tôi đây.
11. Ở đó tôi sẽ nuôi cha, (vì còn năm năm đói kém nữa), e khi cha, người nhà
cha, và hết thảy loài vật của cha phải bị ách mà hao mòn.
12. Này, các anh và Bên-gia-min, em tôi, đã thấy tận mắt rằng, chánh miệng tôi
đã nói chuyện cùng các anh em đó.
13. Vậy, hãy thuật lại các điều vinh hiển của tôi tại xứ Ê-díp-tô, cùng mọi việc
mà anh em đã thấy cho cha nghe, và hãy mau mau dời cha xuống đây.
14. Ðoạn, người ôm lấy cổ Bên-gia-min, em mình, mà khóc; Bên-gia-min cũng ôm cổ
người mà khóc.
15. Người cũng ôm các anh mình mà khóc. Ðoạn, anh em nói chuyện cùng người.
16. Lập tức, tiếng đồn đến nhà Pha-ra-ôn rằng: Anh em Giô-sép đã đến. Pha-ra-ôn
và quần thần nghe lấy làm đẹp dạ.
17. Pha-ra-ôn bèn phán cùng Giô-sép rằng: Hãy dặn các anh em ngươi rằng: Hãy chỡ
đồ lên lừa, đi trở về xứ Ca-na-an,
18. rước cha và người nhà của các ngươi xuống ở cùng ta. Ta sẽ nhượng cho vật
tốt nhất trong xứ Ê-díp-tô, và các ngươi sẽ hưỡng mầu mỡ của đất.
19. Còn ta dặn ngươi hãy nói lại cùng họ như vậy: Hãy đem xe cộ từ xứ Ê-díp-tô
về cho con nhỏ và vợ mình, cùng dời cha các ngươi xuống đây.
20. Ðừng tiếc tài vật mình, vì vật tốt nhất của xứ Ê-díp-tô sẽ về phần các
ngươi.
21. Các con trai của Y-sơ-ra-ên làm y như lời; Giô-sép vâng mạng Pha-ra-ôn, đưa
những xe cộ cho anh em mình, và luôn vật thực dùng trong lúc đi đường.
22. Người cũng đưa áo xống mặc đổi thay cho mỗi người, còn Bên-gia-min, người
cho trăm miếng bạc cùng năm bộ áo xống.
23. Người cũng sai đem về cho cha mình mười con lừa chỡ các vật quí nhất trong
xứ Ê-díp-tô, mười con lừa cái chỡ lúa, bánh, và lương thực để dành dùng trong
khi cha đi đường.
24. Vậy, Giô-sép đưa anh em mình lên đường. Lại dặn họ rằng: Xin anh em đừng cải
lẫy nhau dọc đường.
25. Các anh em ở Ê-díp-tô trở lên và đến xứ Ca-na-an, nơi Gia-cốp, cha mình,
26. thuật lại lời nầy mà rằng: Giô-sép hãy còn sống; lại ấy là người đang cai
trị cả xứ Ê-díp-tô. Nhưng lòng Gia-cốp vẫn vô tình vì người không tin lời họ
nói.
27. Anh em thuật lại cho người nghe mọi lời Giô-sép đã nói; Gia-cốp vừa thấy các
xe cộ của Giô-sép sai đem về đặng rước mình, thì tâm thần người tỉnh lại,
28. bèn nói rằng: Thôi, biết rồi; Giô-sép, con trai ta, hãy còn sống; ta sẽ đi
thăm nó trước khi ta qua đời.
Sáng-thế Ký
46 chọn đoạn khác
1. Y-sơ-ra-ên ra đi, đem theo các tài vật mình. Ðến Bê-e-Sê-ba, người bày của lễ
dâng cho Ðức Chúa Trời của Y-sác, cha mình.
2. Trong một sự hiện thấy ban đêm kia, Ðức Chúa Trời có phán cùng Y-sơ-ra-ên
rằng: Hỡi Gia-cốp, Gia-cốp! Y-sơ-ra-ên đáp rằng: Có tôi đây.
3. Ðức Chúa Trời phán: Ta là Ðức Chúa Trời, Ðức Chúa Trời của cha ngươi. Hãy
xuống Ê-díp-tô, đừng sợ chi, vì tại đó ta sẽ làm cho ngươi thành một nước lớn.
4. Chánh ta sẽ xuống đến đó với ngươi, và chánh ta cũng sẽ dẫn ngươi về chẳng
sai. Giô-sép sẽ vuốt mắt ngươi nhắm lại.
5. Từ Bê-e-Sê-ba, Gia-cốp khởi đi; các con trai Y-sơ-ra-ên để Gia-cốp, cha mình,
cùng các vợ và con mình lên xe cộ của Pha-ra-ôn đã sai đến rước những người đó.
6. Chúng cũng đem theo các súc vật và của cải mình đã gây dựng tại xứ Ca-na-an,
mà đi đến cứ Ê-díp-tô.
7. Vậy, Gia-cốp cùng cả nhà người, nào các con trai, nào các cháu trai, nào các
con gái, nào các cháu gái, thảy đều xuống xứ Ê-díp-tô.
8. Ðây là tên các con trai của Y-sơ-ra-ên, tức là Gia-cốp, đến xứ Ê-díp-tô: Con
trưởng nam của Gia-cốp là Ru-bên.
9. Các con trai của Ru-bên là Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn, và Cạt-mi.
10. Các con trai của Si-mê-ôn là Giê-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-kin, Xô-ha, và
Sau-lơ, tức con của người vợ xứ Ca-na-an.
11. Các con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
12. Các con trai của Giu-đa là Ê-rơ, O-nan, Sê-la, Phê-rết và Sê-rách. Nhưng
Ê-rơ và O-nan đã thác tại xứ Ca-na-an; con của Phê-rết là Hết-rôn, và Ha-mun.
13. Các con trai của Y-sa-ca là Thô-la, Phu-va, Gióp và Sim-rôn.
14. Các con trai của Sa-bu-lôn là Sê-rết, Ê-lôn, và Gia-lê-ên.
15. Vả, các con trai, và một con gái tên là Ði-na, mà Lê-a sanh cho Gia-cốp khi
ở tại Pha-đan-A-ram, cùng các cháu đó, hết thảy là ba mươi ba người.
16. Các con trai của Gát là Xi-phi-ôn, Ha-ghi, Su-ni, Ét-bôn, Ê-ri, A-rô-đi và
A-rê-li.
17. Các con trai của A-se là Dim-na, Dích-và, Dích-vi, và Bê-ri-a, cùng Sê-rách,
em gái các người đó. Con của Bê-ri-a là Hê-be, và Manh-ki-ên.
18. Vả, các con của nàng Xinh-ba sanh cho Gia-cốp, cùng các cháu đó, hết thảy là
mười sáu người. Nàng là con đòi của của La-ban đã cho theo hầu Lê-a, con gái
mình.
19. Các con trai của Ra-chên, vợ Gia-cốp, Giô-sép, và Bên-gia-min.
20. Giô-sép đã có con tại xứ Ê-díp-tô, là Ma-na-se, và Ép-ra-im, mà Ách-nát, con
gái của Phô-ti-phê-ra, thầy cả thành Ôn, đã sanh cho người.
21. Các con trai của Bên-gia-min là Bê-la, Bê-kê, Ách-bên, Giê-ra, Na-a-man,
Ê-hi, Rô-sơ, Mốp-bim, Hốp-bim, và A-rết.
22. Vả, các con trai của Ra-chên sanh cho Gia-cốp, cùng các cháu đó, hết thảy là
mười bốn người.
23. Con trai của Ðan là Hu-sim.
24. Các con trai của Nép-ta-li là Giát-sê-ên, Gu-ni, Dít-se, và Si-lem.
25. Vả, các con trai của nàng Bi-la sanh cho Gia-cốp, cùng các cháu đó, hết thảy
là bảy người. Nàng là con đòi của La-ban đã cho theo hầu Ra-chên, con gái mình.
26. Các người đi đến xứ Ê-díp-tô với Gia-cốp, tức là các người do nơi Gia-cốp
sanh, nếu không kể các nàng dâu, thì hết thảy là sáu mươi sáu người.
27. Con của Giô-sép đã sanh tại Ê-díp-tô được hai. Vậy, các người thuộc về nhà
Gia-cốp đi đến Ê-díp-tô, cọng hết thảy là bảy mươi người.
28. Gia-cốp sai Giu-đa đi đến trước đặng xin Giô-sép đưa mình vào bờ cõi Gô-sen.
Vậy, họ đều vào xứ Gô-sen.
29. Giô-sép thắng xe đi lên Gô-sen, đón Y-sơ-ra-ên, cha mình. Người ra mắt cha,
ôm choàng lấy người và khóc một hồi lâu.
30. Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sép rằng: Chớ chi cho cha chết bây giờ đi! vì cha đã
thấy được mặt con, và biết con vẫn còn sống.
31. Ðoạn Giô-sép nói cùng anh em và người nhà cha mình rằng: Tôi sẽ lên trước
tâu cho Pha-ra-ôn hay rằng: Anh em và cả nhà cha tôi, ở xứ Ca-na-an đã đến cùng
tôi.
32. Họ vốn làm nghề chăn chiên, nuôi bầy súc vật; có dẫn theo hết bầy chiên, bò
và các tài vật của mình.
33. Và khi Pha-ra-ôn truyền gọi anh em mà hỏi rằng: Các ngươi làm nghề chi?
34. Thì hãy tâu rằng: Kẻ tôi tớ chúa cùng tổ phụ chúng tôi vẫn làm nghề nuôi súc
vật từ thuở còn nhỏ cho đến giờ. Ấy hầu cho anh em đặng ở lại xứ Gô-sen, vì dân
Ê-díp-tô có tánh gớm ghê hết thảy kẻ chăn chiên lắm.
Sáng-thế Ký
47 chọn đoạn khác
1. Giô-sép đến tâu mọi điều đó cho Pha-ra-ôn hay, và nói rằng: Cha và anh em tôi
đã ở xứ Ca-na-an đến, có đem theo chiên, bò, cùng các tài vật của mình. Hiện bây
giờ đương ở trong xứ Gô-sen.
2. Người bèn đưa năm người trong bọn anh em mình vào yết kiến Pha-ra-ôn.
3. Pha-ra-ôn hỏi: Các ngươi làm nghề chi? Tâu rằng: Kẻ tôi tớ bệ hạ là kẻ chăn
chiên, như tổ phụ chúng tôi khi trước.
4. Rồi lại tâu rằng: Ấy đặng kiều ngụ trong xứ mà kẻ tôi tớ bệ hạ đã đến; vì xứ
Ca-na-an đói kém lớn lắm, không còn đồng cỏ chi hết cho bầy súc vật ăn. Vậy, xin
phép cho kẻ tôi tớ bệ hạ ngụ tại xứ Gô-sen.
5. Pha-ra-ôn phán cùng Giô-sép như vầy: Cha và anh em ngươi đã đến cùng ngươi;
6. vậy, xứ Ê-díp-tô sẵn dành cho ngươi; hãy cho cha và anh em ở chốn nào tốt hơn
hết trong xứ; hãy cho ở tại xứ Gô-sen vậy. Và nếu trong các người đó, ngươi biết
ai giỏi, hãy đặt họ chăn các bầy súc vật của ta.
7. Ðoạn, Giô-sép dẫn Gia-cốp, cha mình, đến yết-kiến Pha-ra-ôn. Gia-cốp chúc
phước cho Pha-ra-ôn.
8. Pha-ra-ôn hỏi Gia-cốp rằng: Ngươi hưởng thọ được bao nhiêu tuổi?
9. Gia-cốp tâu rằng: Người năm tôi sống ở đời phiêu lưu hết thảy là một trăm ba
mươi năm; các năm của đời tôi lấy làm ngắn-ngủi và lại nhọc nhằn, chẳng bằng
những năm bình sanh của tổ phụ tôi khi người ở phiêu lưu đó.
10. Gia-cốp chúc phước cho Pha-ra-ôn một lần nữa, rồi lui ra khỏi mặt người.
11. Vậy, Giô-sép vâng mạng Pha-ra-ôn, định chỗ ở cho cha và anh em mình, cho họ
một sở đất tốt nhứt trong xứ Ê-díp-tô làm sản nghiệp, tại miền Ram-se.
12. Giô-sép, tùy theo số người, cấp lương thực cho cha, anh em và cả nhà cha
mình.
13. Vả, sự đói kém lớn lắm, nên trong khắp xứ chẳng còn lương thực nữa; xứ
Ê-díp-tô và xứ Ca-na-an đều bị hao mòn vì ách đói kém đó.
14. Giô-sép thâu hết bạc tiền trong xứ Ê-díp-tô và xứ Ca-na-an, tức giá tiền của
muôn dân mua lúa; rồi chứa bạc đó vào kho Pha-ra-ôn.
15. Khi bạc tiền trong xứ Ê-díp-tô và xứ Ca-na-an đã hết, thì tất cả dân
Ê-díp-tô đều đến cùng Giô-sép mà kêu rằng: Xin cho chúng tôi lương thực; lẽ nào
vì cớ hết tiền mà chúng tôi phải chết trước mặt chúa sao?
16. Giô-sép đáp rằng: Nếu hết bạc tiền rồi, hãy giao súc vật các ngươi cho ta,
ta sẽ phát lương thực đổi lại.
17. Ðoạn, dân chúng bèn dẫn súc vật lại cho Giô-sép; Giô-sép phát lương thực đổi
lấy ngựa, bầy chiên, bầy bò, và lừa. Năm đó, người thâu các bầy súc vật của họ
mà đổi thế lương thực cho.
18. Mãn năm rồi, năm sau dân chúng lại đến kêu cùng người rằng: tiền bạc sạch
trơn, bầy súc vật đã giao cho chúa; bây giờ chỉ sẵn dành cho chúa bổn thân và
đất ruộng.
19. Lẽ nào chúng tôi và đất ruộng phải hao mòn trước mặt chúa sao? Hãy mua đổi
lấy lương thực chúng tôi và đất ruộng luôn đi. Vậy, chúng tôi cùng đất ruộng sẽ
làm tôi mọi cho Pha-ra-ôn. Hãy cho giống chi đặng gieo, hầu cho chúng tôi sống
khỏi chết, và đất không phải bỏ hoang.
20. Giô-sép bèn mua hết thảy ruộng đất trong xứ Ê-díp-tô cho Pha-ra-ôn; vì sự
đói kém thúc giục nên mọi người Ê-díp-tô đều đem bán ruộng mình; vậy, ruộng đất
đều thuộc về Pha-ra-ôn.
21. Còn dân chúng, từ đầu nầy đến đầu kia, người đều dời về ở trong các thành.
22. Song ruộng đất của những thầy cả thì Giô-sép không mua đến, vì những thầy cả
có lãnh một phần lương của Pha-ra-ôn đã định; vậy, họ ăn phần lương thực của
Pha-ra-ôn đã cấp cho. Thế cho nên những thầy cả chẳng đem bán đất của mình.
23. Giô-sép nói cùng dân chúng rằng: Nầy, ta đã mua các ngươi và ruộng đất cho
Pha-ra-ôn; đây, hột giống cho các ngươi đặng gieo mạ trong ruộng đó.
24. Ðến mùa gặt, phải nộp cho Pha-ra-ôn một phần năm, còn bốn phần kia để cho
các ngươi làm giống gieo mạ, dùng lương thực cho mình, cho người nhà cùng cho
các con nhỏ mình.
25. Dân chúng nói rằng: Chúa đã cứu mạng chúng tôi! Cầu xin cho chúng tôi được
nhờ ơn trước mặt chúa, thì sẽ làm tôi mọi cho Pha-ra-ôn.
26. Về việc đó, Giô-sép bèn định một luật, cho đến ngày nay hãy còn, buộc đất
Ê-díp-tô phải nộp thuế cho Pha-ra-ôn một phần năm hoa lợi mình. Chỉ đất ruộng
của những thầy cả chẳng thuộc về Pha-ra-ôn.
27. Vậy, Y-sơ-ra-ên trú ngụ tại miền Gô-sen thuộc về xứ Ê-díp-tô, gây được cơ
nghiệp tại đó, sanh sản và thêm lên bội phần.
28. Gia-cốp kiều ngụ trong xứ Ê-díp-tô được mười bảy năm, hưởng thọ được một
trăm bốn mươi bảy tuổi.
29. Khi ngày gần chết, Y-sơ-ra-ên gọi Giô-sép, con trai mình, mà nói rằng: Nếu
cha được nhờ ơn trước mặt con, xin hãy để tay trên đùi cha cậy hết lòng nhơn từ
và thành thực ở cùng cha, xin con đừng chôn cha tại đất Ê-díp-tô.
30. Khi cha an-giấc cùng tổ phụ rồi, hãy đem cha ra khỏi Ê-díp-tô; chôn chung
cùng mồ mả của người. Giô-sép thưa rằng: Con sẽ làm y theo lời cha dặn.
31. Giô-sép nói: Con hãy thề đi. Giô-sép bèn thề. Ðoạn, Y-sơ-ra-ên quì lạy nơi
đầu giường mình.
Sáng-thế Ký
48 chọn đoạn khác
1. Vả, khi các việc đó qua rồi, có người nói cùng Giô-sép rằng: Nầy cha người
đau; Giô-sép bèn đem Ma-na-se và Ép-ra-im, hai đứa con trai mình, cùng đi đến.
2. Họ cho Gia-cốp hay và nói rằng: Nầy Giô-sép, con trai ông, đến thăm ông đó;
Y-sơ-ra-ên cố gượng ngồi dậy trên giường.
3. Gia-cốp nói cùng Giô-sép rằng: Ðức Chúa Trời toàn năng đã hiện ra, bà ban
phước cho cha tại Lu-xơ, trong xứ Ca-na-an,
4. mà phán rằng: Nầy ta sẽ làm cho ngươi sanh sản và thêm nhiều, làm thành một
hội dân; ta sẽ cho dòng dõi ngươi xứ nầy làm cơ nghiệp đời đời.
5. Bây giờ, hai đứa con trai đã sanh cho con tại xứ Ê-díp-tô trước khi cha đến,
là Ép-ra-im và Ma-na-se, cũng sẽ thuộc về cha như Ru-bên và Si-mê-ôn vậy.
6. Còn mấy đứa mà con sanh kế đó, thì sẽ thuộc về con; về phần hưởng cơ nghiệp,
chúng nó sẽ đồng một thể cùng anh em mình.
7. Khi cha ở Pha-đan trở về xứ Ca-na-an, thì Ra-chên chết dọc đường có mặt cha,
gần Ê-phơ-rát; cha chôn người ở bên con đường đi về Ê-phơ-rát (tức là
Bết-lê-hem).
8. Y-sơ-ra-ên thấy các con trai Giô-sép, bèn hỏi rằng: Những đứa nầy là ai?
9. Giô-sép thưa rằng: Ấy là những con trai của con mà Ðức Chúa Trời đã cho tại
xứ nầy. Y-sơ-ra-ên lại nói: Xin hãy đem đến đây, đặng cha chúc phước cho chúng
nó.
10. Vả, mắt của Y-sơ-ra-ên già nên làng, chẳng thấy chi nữa, bèn biểu chúng nó
lại gần, ôm choàng và hôn.
11. Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sép rằng: Trước cha tưởng chẳng còn thấy được mặt
con, nhưng bây giờ Ðức Chúa Trời lại làm cho cha thấy được đến dòng dõi con nữa.
12. Giô-sép dẫn hai đứa con trai ra khỏi hai đầu gối cha mình, rồi sấp mình
xuống đất.
13. Ðoạn, người dẫn hai đứa trẻ lại gần cha; tay hữu thì dẫn Ép-ra-im sang qua
phía tả của cha, còn tay tả dắt Ma-na-se sang qua phía hữu.
14. Y-sơ-ra-ên đưa tay mặt ra, để trên đầu Ép-ra-im, là đứa nhỏ, còn tay trái
lại để trên đầu Ma-na-se. Người có ý riêng để tay như vậy, vì Ma-na-se là đứa
lớn.
15. Rồi người chúc phước cho Giô-sép rằng: Cầu xin Ðức Chúa Trời mà tổ phụ tôi
là Áp-ra-ham và Y-sác đã thờ phượng; là Ðức Chúa Trời đã chăn nuôi tôi từ khi
mới lọt lòng cho đến ngày nay,
16. thiên sứ đã cứu tôi ra ngoài vòng hoạn nạn, hãy ban phước cho hai đứa trẻ
nầy; nối danh tôi và tổ phụ tôi là Áp-ra-ham và Y-sác, và cho chúng nó thêm lên
nhiều vô số trên mặt đất!
17. Nhưng Giô-sép thấy cha mình để tay hữu trên đầu Ép-ra-im, thì có ý bất bình,
liền nắm lấy tay cha đã để lên đầu Ép-ra-im mà tráo đổi qua đấu Ma-na-se,
18. rồi thưa rằng: Chẳng phải vậy, cha. Ðứa nầy đầu lòng, để tay hữu cha trên
đầu nó mới phải chớ.
19. Nhưng cha người không chịu và cãi rằng: Cha biết, con, cha biết. Nó sẽ trở
nên một dân; nó cũng sẽ lớn vậy, con; song thể nào em nó cũng sẽ lớn hơn và dòng
dõi nó sẽ thành ra vô số nước.
20. Trong ngày đó, người chúc phước cho hai đứa con trai nầy mà nói rằng: Ấy vì
ngươi mà dân Y-sơ-ra-ên sẽ chúc phước nhau rằng: Cầu xin Ðức Chúa Trời làm cho
ngươi được giống như Ép-ra-im và Ma-na-se. Vậy, Gia-cốp đặt Ép-ra-im trước
Ma-na-se.
21. Y-sơ-ra-ên lại nói cùng Giô-sép rằng: Nầy, cha sẽ thác, nhưng Ðức Chúa Trời
sẽ phù hộ và đem các con trở về xứ tổ phụ.
22. Còn cha sẽ cho con một phần đất trổi hơn các anh em, là phần đất của cha đã
dùng cung-kiếm đoạt lấy của dân A-mô-rít đó.
Sáng-thế Ký
49 chọn đoạn khác
1. Gia-cốp gọi các con trai mình lại và nói rằng: Hãy hội lại đây, cha sẽ nói
những điều phải xảy đến cho các con ngày sau.
2. Hỡi các con trai Gia-cốp, hãy hội lại mà nghe; Nghe lời Y-sơ-ra-ên, cha của
các con.
3. Hỡi Ru-bên! con là trưởng nam của cha, Sức lực cha, và đầu tiên sự mạnh mẽ
cha; Vốn có sự tôn trọng và quyền năng tót chúng.
4. Con sôi trào như nước, nên sẽ chẳng phần hơn ai! Vì con đã lên giường cha.
Con lên giường cha bèn làm ô làm dơ đó!
5. Si-mê-ôn và Lê-vi là anh em ruột. Thanh gươm chúng nó thật khí giới hung tàn.
6. Cầu cho tâm hồn cha chớ có đồng mưu, Vinh hiển cha chớ hiệp cùng hội họ; Vì
họ đã giết người trong cơn giận dữ, Cắt nhượng bò đực vì ý riêng mình.
7. Ðáng rủa sả thay cơn giận dữ họ, vì thật là hung mạnh! Ðáng rủa sả thay khí
giận họ, vì dữ dằn thay! Ta sẽ phân chia họ ra trong nhà Gia-cốp, Tan lạc họ
trong dân Y-sơ-ra-ên.
8. Hỡi Giu-đa! các anh em sẽ khen ngợi con, Tay con chận cổ quân nghịch, Các con
trai cha sẽ quì lạy trước mặt con.
9. Giu-đa là một sư tử tơ; Hỡi con! Con bắt được mồi rồi tha về. Nó sụm gối, nằm
khác nào sư tử đực, Như sư tử cái; há ai dám khiến ngồi lên?
10. Cây phủ việt chẳng hề dời khỏi Giu-đa, Kẻ lập pháp không dứt khỏi giữa chơn
nó, Cho đến chừng Ðấng Si-lô hiện tới, Và các dân vâng phục Ðấng đó.
11. Người buộc lừa tơ mình vào gốc nho, Lừa con mình vào nhành nho tốt nhứt.
Người giặt áo xống mình vào rượu nho, Cùng lấy huyết nho lau áo tơi mình.
12. Mắt người đỏ vì cớ rượu, Răng nhiều trắng vì cớ sữa.
13. Sa-bu-lôn sẽ ở nơi gành biển, Tức là nơi có tàu đậu; Bờ cõi người chạy về
hướng Si-đôn.
14. Y-sa-ca là một con lừa mạnh mẽ, Nằm nghỉ giữa chuồng;
15. Thấy rằng sự yên ổn là tốt lành, Và đất-đai đẹp lắm thay. Người đã rùn vai
vác gánh nặng, Phải vâng phục những điều sưu-dịch.
16. Ðan sẽ xử đoán dân chúng mình, Như một trong các chi phái Y-sơ-ra-ên.
17. Ðan sẽ là một con rắn trên đường, Một con rắn lục trong chốn nẻo cùng, Cắn
vó ngựa, Làm cho kẻ cỡi phải té nhào.
18. Hỡi Giê-hô-va! tôi trông ơn chửng-cứu của Ngài!
19. Còn Gát sẽ bị một đạo binh xông đánh, Nhưng người xông đánh lại và đuổi
theo.
20. Do nơi A-se có thực vật ngon, Người sẽ cung cấp mỹ vị cho các vua.
21. Nép-ta-li là nai cái thả chuồng Nói bày nhiều lời văn hoa.
22. Giô-sép là chồi của cây tươi tốt, Mọc gần bên suối nước; Nhành nhánh phủ bao
trên ngọn tường.
23. Kẻ cầm cung đã ghẹo-chọc người, Bắn tên vào, và hãm đánh;
24. Nhờ tay Ðấng toàn năng của Gia-cốp, Nên cung người vẫn bền-chắc; Nhờ Ðấng
Chăn chiên, là Ðá của Y-sơ-ra-ên, Nên hai tay người thêm mạnh.
25. Ðức Chúa Trời của Cha sẽ giúp đỡ con; Ðấng toàn năng sẽ ban phước cho con,
Tức là phước lành ở chốn trời cao xuống, Cùng phước lành ở nơi vực rộng thẳm
lên, Phước lành của vú, và của lòng mẹ.
26. Phước lành cha chúc cho con vượt lần lên Cao hơn các phước lành của tổ phụ
cha, Cho đến các chót núi đời đời: Các phước nầy sẽ ở nơi đầu Giô-sép, Nơi trán
của chúa các anh em mình.
27. Bên-gia-min là một con chó sói hay cấu-xé; Ban mai đi đánh chết mồi, Chiều
phân chia mồi đã được.
28. Các người đó là đầu trưởng của mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên; và đó là lời
của cha họ nói đương khi chúc phước cho, chúc một lời phước riêng cho mỗi người
vậy.
29. Ðoạn, người ra lịnh cho các con trai mà rằng: Cha sẽ về nơi tổ tông, các con
hãy chôn cha chung cùng tổ phụ, nơi hang đá tại đồng ruộng Ép-rôn, người Hê-tít,
30. tức là hang đá ở trong đồng Mặc-bê-la, ngang Mam-rê, thuộc về xứ Ca-na-an,
mà Áp-ra-ham đã mua làm mộ địa luôn với đồng ruộng của Ép-rôn
31. Ấy nơi đó, người ta đã chôn Áp-ra-ham và Sa-ra, vợ người; Y-sác và Rê-be-ca,
vợ người; mà lại nơi đó cha cũng đã chôn Lê-a nữa.
32. Cái đồng ruộng cùng hang đá ở tại đó đã mua của dân họ Hếch vậy.
33. Khi trối mấy lời nầy cho các con mình xong, thì Gia-cốp để chơn vào giường
lại, rồi tắt hơi, được về cùng tổ tông mình.
Sáng-thế Ký
50 chọn đoạn khác
1. Giô-sép bèn cúi đầu xuống mặt cha mình, hôn người và khóc.
2. Ðoạn, Giô-sép biểu mấy thầy thuốc hầu việc mình, dùng thuốc thơm xông cho xác
cha; thầy thuốc bèn xông cho Y-sơ-ra-ên.
3. Bốn mươi ngày xông thuốc hầu qua, vì ấy là hạn ngày dùng xông thuốc; dân
Ê-díp-tô khóc người trong bảy mươi ngày.
4. Khi mãn tang rồi, Giô-sép bèn nói cùng quần thần Pha-ra-ôn rằng: Nếu tôi được
ơn trước mặt các ngươi, xin hãy thuật lại lời nầy cho Pha-ra-ôn nghe:
5. Cha tôi có biểu tôi thề mà rằng: Nầy, cha sẽ chết, con hãy chôn cha nơi mộ
địa ta đã mua sẵn rồi trong xứ Ca-na-an. Vậy bây giờ, tôi phải lên đó chôn cha
tôi, rồi sẽ trở xuống.
6. Pha-ra-ôn bèn phán rằng: Hãy trở lên chôn cha ngươi, y như lời người đã bắt
thề đó.
7. Giô-sép dời xác cha mình trở lên chôn; quần thần Pha-ra-ôn, các bực trưởng
lão trong đền, các bực trưởng lão trong xứ Ê-díp-tô,
8. hết thảy nội nhà Giô-sép, các anh em và nội nhà cha mình đều đi lên theo đưa
với người; trong Gô-sen chỉ còn những đứa trẻ và chiên, cùng bò của họ mà thôi.
9. Lại cũng có đem ngựa và xe theo lên nữa: thật là một đám xác rất đông thay!
10. Khi đến sân đạp lúa của A-tát, ở bên kia sông Giô-đanh, thì họ làm lễ khóc
than rất nên trọng thể tại đó; đoạn, Giô-sép để tang cha trong bảy ngày.
11. Dân Ca-na-an, tức là dân xứ ấy, thấy khóc than nơi sân đạp lúa A-tát, thì
nói rằng: Ấy là một đám khóc than trọng thể của dân Ê-díp-tô đó! Bởi cớ ấy người
ta gọi cái sân nầy tên là A-bên-Mích-ra-im ở bên kia sông Giô-đanh.
12. Vậy, các con trai Gia-cốp làm theo lời cha trối lại,
13. dời xác người về xứ Ca-na-an, chôn trong hanh đá của đồng Mặc-bê-la ngang
Mam-rê, mà Áp-ra-ham đã mua luôn với đồng ruộng Ép-rôn, người Hê-tít, để dùng
làm mộ địa.
14. Chôn cha xong rồi, Giô-sép cùng các anh em và các người đi lên theo đưa xác
cha, đều trở xuống xứ Ê-díp-tô.
15. Các anh Giô-sép thấy cha mình chết rồi, thì nói với nhau rằng: Có lẽ Giô-sép
sẽ ganh ghét chúng ta, và trả thù việc ác chúng ta đã làm cho người chăng.
16. Các anh bèn sai người đến nói cùng Giô-sép rằng: Trước khi qua đời, cha em
có trối rằng:
17. Hãy nói lại cho Giô-sép như vầy: Ôi! xin hãy tha điều ác, tội phạm của các
anh con đi, vì chúng nó đã lỗi cũng con đó; nhưng bây giờ cha xin con hãy tha
tội kẻ tôi tớ của Ðức Chúa Trời cha. Nghe qua mấy lời nầy, Giô-sép bèn khóc.
18. Chánh các anh người đến sắp mình xuống dưới chơn mà nói rằng: Các anh đây
thật là kẻ tôi tớ của em đó.
19. Giô-sép đáp rằng: Các anh đừng sợ chi, vì tôi há thay mặt Ðức Chúa Trời sao?
20. Các anh toan hại tôi, nhưng Ðức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu
cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống
của dân sự đông đảo.
21. Vậy, đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng các anh và con cái các anh. Ðoạn, Giô-sép an
ủi các anh, và lấy lời êm dịu mà nói cùng họ.
22. Giô-sép cùng nhà cha mình kiều ngụ tại xứ Ê-díp-tô; người hưởng thọ được một
trăm mười tuổi.
23. Người thấy được các con cháu Ép-ra-im đến đời thứ ba, và cũng có được nâng
niu trên gối mình các con của Ma-ki, tức con trai của Ma-na-se, nữa.
24. Kế, Giô-sép nói cùng các anh em rằng: Em sẽ chết, nhưng Ðức Chúa Trời sẽ đến
viếng các anh em thật; đem các anh em về xứ mà Ngài đã thề hứa cùng Áp-ra-ham,
Y-sác, và Gia-cốp.
25. Giô-sép biểu các con trai của Y-sơ-ra-ên thề mà rằng: Quả thật, Ðức Chúa
Trời sẽ đến viếng các anh em; xin anh em hãy dời hài cốt tôi khỏi xứ nầy.
26. Ðoạn, Giô-sép qua đời, hưởng thọ được một trăm mười tuổi. Người ta xông
thuốc thơm cho xác Giô-sép, và liệm trong một quan tài tại xứ Ê-díp-tô.