Mục Lục

[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22] [23] [24] [25] [26] [27] [28] [29] [30] [31] [32] [33] [34] [35] [36]


Dân-số Kư 1    chọn đoạn khác

1. Ngày mồng một tháng hai, năm thứ hai, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se ở trong hội mạc, tại đồng vắng Si-na-i, mà rằng:
2. Hăy dựng sổ cả hội dân Y-sơ-ra-ên, theo họ hàng và tông tộc của họ, cứ đếm từng tên của hết thảy nam đinh,
3. từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong Y-sơ-ra-ên đi ra trận được; ngươi và A-rôn sẽ kê sổ chúng nó tùy theo đội ngũ của họ.
4. Trong mỗi chi phái phải có một người giúp đỡ các ngươi, tức là người làm tộc trưởng của chi phái ḿnh.
5. Đây là tên những người sẽ giúp đỡ các ngươi: Về chi phái Ru-bên, Ê-lít-su, con trai của Sê-đêu;
6. về chí phái Si-mê-ôn, Sê-lu-mi-ên, con trai của Xu-ri-ha-đai;
7. về chi phái Giu-đa, Na-ha-sôn, con trai của A-mi-na-đáp;
8. về chi phái Y-sa-ca, Na-tha-na-ên, con trai của Xu-a;
9. về chi phái Sa-bu-lôn, Ê-li-áp, con trai của Hê-lôn;
10. về con cháu Giô-sép, nghĩa là về chi phái Ép-ra-im, Ê-li-sa-ma, con trai của A-mi-hút; về chi phái Ma-na-se, Ga-ma-li-ên, con trai của Phê-đát-su;
11. về chi phái Bên-gia-min, A-bi-đan, con trai của Ghi-đeo-ni;
12. về chi phái Đan, A-hi-ê-xe, con trai của A-mi-sa-đai;
13. về chi phái A-se, Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran;
14. về chi phái Gát, Ê-li-a-sáp, con trai của Đê-u-ên;
15. về chi phái Nép-ta-li, A-hi-ra, con trai của Ê-nan.
16. Đó là những người được gọi từ trong hội chúng, vốn là quan trưởng của các chi phái tổ phụ ḿnh, và là quan tướng quân đội Y-sơ-ra-ên.
17. Vậy, Môi-se và A-rôn nhận lấy các người ấy mà đă được xướng tên;
18. đến ngày mồng một tháng hai, truyền nhóm cả hội chúng, cứ kể tên từng người từ hai mươi tuổi sắp lên mà nhập sổ theo họ hàng và tông tộc của họ.
19. Vậy, Môi-se kê sổ chúng nó tại đồng vắng Si-na-i, y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn.
20. Con cháu Ru-bên, là trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, ḍng dơi họ tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh, cứ kể từng tên của hết thảy nam đinh từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi phái Ru-bên đi ra trận được,
21. số là bốn mươi sáu ngàn năm trăm.
22. Con cháu Si-mê-ôn, ḍng dơi họ tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh, cứ kể từng tên của hết thảy nam đinh từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi phái Si-mê-ôn đi ra trận được,
23. số là năm mươi chín ngàn ba trăm.
24. Con cháu Gát, ḍng dơi họ tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh, cứ kể từng tên từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi phái Gát đi ra trận được,
25. số là bốn mươi lăm ngàn sáu trăm năm mươi.
26. Con cháu Giu-đa, ḍng dơi họ tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi phái Giu-đa đi ra trận được,
27. số là bảy mươi bốn ngàn sáu trăm.
28. Con cháu của Y-sa-ca, ḍng dơi họ tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh, cứ kể từng tên, tứ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi phái Y-sa-ca đi ra trận được,
29. số là năm mươi bốn ngàn bốn trăm.
30. Con cháu của Sa-bu-lôn, ḍng dơi họ tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi phái Sa-bu-lôn đi ra trận được,
31. số là năm mươi bảy ngàn bốn trăm.
32. Về hậu tự Giô-sép, là con cháu Ép-ra-im, ḍng dơi họ tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi phái Ép-ra-im đi ra trận được,
33. số là bốn mươi ngàn năm trăm.
34. Con cháu Ma-na-se, ḍng dơi họ tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi phái Ma-na-se đi ra trận được,
35. số là ba mươi hai ngàn hai trăm.
36. Con cháu Bên-gia-min, ḍng dơi họ tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi phái Bên-gia-min đi ra trận được,
37. số là ba mươi lăm ngàn bốn trăm.
38. Con cháu Đan, ḍng dơi họ tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi phái Đan đi ra trận được,
39. số là sáu mươi hai ngàn bảy trăm.
40. Con cháu A-se, ḍng dơi họ tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi phái A-se đi ra trận được,
41. số là bốn mươi mốt ngàn năm trăm.
42. Con cháu Nép-ta-li, ḍng dơi họ tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi phái Nép-ta-li đi ra trận được,
43. số là năm mươi ba ngàn bốn trăm.
44. Đó là những người mà Môi-se, A-rôn, và mười hai quan trưởng Y-sơ-ra-ên kê sổ; mỗi quan trưởng kê sổ cho tông tộc ḿnh.
45. Thế th́, hết thảy những người trong dân Y-sơ-ra-ên đă được nhập sổ tùy theo tông tộc ḿnh, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong Y-sơ-ra-ên đi ra trận được,
46. số là sáu trăm ba ngàn năm trăm năm mươi.
47. Nhưng người Lê-vi, theo chi phái tổ phụ ḿnh, không kê số chung với những chi phái khác.
48. V́ Đức Giê-hô-va có phán cùng Môi-se rằng:
49. Ngươi chớ kê sổ chi phái Lê-vi, và cũng đừng dựng bộ họ chung với dân Y-sơ-ra-ên;
50. nhưng hăy cắt phần người Lê-vi coi sóc đền tạm chứng cớ, hết thảy đồ đạc và các món thuộc về đền tạm. Ấy là người Lê-vi sẽ chuyên-vận đền tạm và hết thảy đồ đạc nó, cùng sẽ làm công việc về đền tạm và đóng trại ở chung quanh đền tạm.
51. Khi nào đền tạm dời chỗ, th́ người Lê-vi sẽ tháo dỡ nó; khi nào đền tạm dừng lại, th́ họ sẽ dựng nó lên; c̣n người ngoại đến gần sẽ bị xử tử.
52. Dân Y-sơ-ra-ên mỗi người phải đóng ở trong trại quân ḿnh, và mỗi trại quân, từng đội ngũ, phải đóng gần bên ngọn cờ ḿnh.
53. Nhưng người Lê-vi sẽ đóng trại chung quanh đền tạm chứng cớ, để đừng có sự giận dữ cùng hội-dân Y-sơ-ra-ên; người Lê-vi sẽ coi sóc đền tạm chứng cớ.
54. Dân Y-sơ-ra-ên làm y như mọi điều Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se vậy.

Dân-số Kư 2    chọn đoạn khác

1. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn rằng:
2. Dân Y-sơ-ra-ên mỗi người phải đóng trại gần bên ngọn cờ ḿnh, ở dưới bảng hiệu của tông tộc ḿnh, đối ngang nhau vây chung quanh hội mạc.
3. Trại quân Giu-đa sẽ đóng tại hướng đông, về phía mặt trời mọc, với ngọn cờ và những đội ngũ của ḿnh. Quan-trường của người Giu-đa là Na-ha-sôn, con trai của A-mi-na-đáp;
4. và quân-dội người, cứ theo kê sổ, cọng bảy mươi bốn ngàn sáu trăm người.
5. Chi phái Y-sa-ca phải đóng trại bên Giu-đa; quan trưởng của người Y-sa-ca là Na-tha-na-ên, con trai Xu-a;
6. và quân đội người, cứ theo kê sổ, cọng năm mươi bốn ngàn bốn trăm người.
7. Kế đến chi phái Sa-bu-lôn; quan trưởng của người Sa-bu-lôn là Ê-li-áp, con trai của Hê-lôn,
8. và quân đội ngươi, cứ theo kê sổ, cộng năm mươi bảy ngàn bốn trăm người.
9. Vậy, các người đă kê sổ theo trại quân Giu-đa, từng đội ngũ, cộng một trăm tám mươi sáu ngàn bốn trăm người. Họ phải đi tiên phong.
10. Ngọn cờ của trại quân Ru-bên và những đội ngũ ḿnh, phải đóng về hướng nam. Quan trưởng của người Ru-bên là Ê-li-su, con trai của Sê-đêu;
11. và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng bốn mươi sáu ngàn năm trăm người.
12. Chi phái Si-mê-ôn phải đóng trại bên Ru-bên; quan trưởng của người Si-mê-ôn là Sê-lu-mi-ên, con trai của Xu-ri-ha-đai;
13. và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng năm mươi chín ngàn ba trăm người.
14. Kế đến chi phái Gát; các quan trưởng của người Gát là Ê-li-a-sáp, con trai của Rê-u-ên;
15. và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng bốn mươi lăm ngàn sáu trăm năm mươi người.
16. Vậy, các người đă kê sổ theo trại quân Ru-bên, từng đội ngũ, cộng một trăm năm mươi mốt ngàn bốn trăm năm mươi người. Họ phải đi thứ nh́.
17. Sau ấy, hội mạc sẽ đi với trại quân Lê-vi, ở giữa các trại quân khác; trại quân Lê-vi sẽ đi theo thứ tự như đă đóng, mỗi người theo hàng ngũ và theo ngọn cờ ḿnh.
18. Ngọn cờ của trại quân Ép-ra-im và những quân đội người phải đóng về hướng tây; quan trưởng của người Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút;
19. và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng bốn mươi ngàn năm trăm người.
20. Chi phái Ma-na-se phải đóng trại bên Ép-ra-im; quan trưởng của người Ma-na-se là Ga-ma-li-ên, con trai của Phê-đát-su:
21. và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng ba mươi hai ngàn hai trăm người.
22. Kế đến chi phái Bên-gia-min; quan trưởng của người Bên-gia-min là A-bi-đan, con trai của Ghi-đeo-ni;
23. và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng ba mươi lăm ngàn bốn trăm người.
24. Vậy, các người đă kê sổ theo trại quân Ép-ra-im, từng đội ngũ, cộng một trăm tám ngàn một trăm người. Họ phải đi thứ ba.
25. Ngọn cờ của trại quân Đan và những quân đội họ phải đóng về hướng bắc. Quan trưởng của người Đan là A-hi-ê-xe, con trai của A-mi-sa-đai;
26. và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng sáu mươi hai ngàn bảy trăm người.
27. Chi phái A-se phải đóng trại bên Đan; quan trưởng của người A-se là Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran;
28. và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng bốn mươi mốt ngàn năm trăm người.
29. Kế đến chi phái Nép-ta-li, quan trưởng của người Nép-ta-li là A-hi-ra, con trai của Ê-nan;
30. và quân đội người, cứ theo kê sổ, cộng năm mươi ba ngàn bốn trăm người.
31. Vậy, các người đă kê sổ theo trại quân Đan, cộng một trăm năm mươi bảy ngàn sáu trăm người. Họ theo ngọn cờ ḿnh phải đi hậu binh.
32. Đó là những người trong dân Y-sơ-ra-ên mà người ta tu bộ tùy theo tông tộc ḿnh. Trong các trại quân hết thảy người đă kê sổ từng đội ngũ là sáu trăm ba ngàn năm trăm năm mươi người.
33. Nhưng người Lê-vi không nhập sổ chung với dân Y-sơ-ra-ên, tùy theo mạng của Đức Giê-hô-va đă truyền cho Môi-se.
34. Dân Y-sơ-ra-ên y theo mọi điều Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se, bèn đóng trại tùy theo ngọn cờ ḿnh, và mỗi người ra đi tùy theo họ hàng và tông tộc ḿnh.

Dân-số Kư 3    chọn đoạn khác

1. Nầy là ḍng dơi của A-rôn và Môi-se, về ngày Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se tạo trên núi Si-na-i.
2. Nầy là tên các con trai A-rôn: Trưởng nam là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma.
3. Đó là tên các con trai A-rôn, tức những thầy tế lễ đă chịu phép xức dầu, và được lập lên để làm chức tế lễ.
4. Vả, Na-đáp và A-bi-hu đă thác trước mặt Đức Giê-hô-va khi hai người dâng một thứ lửa lạ trước mặt Đức Giê-hô-va tại trong đồng vắng Si-na-i. Hai người nầy không có con. C̣n Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma làm chức tế lễ trước mặt A-rôn, là cha ḿnh.
5. Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng:
6. Hăy khiến chi phái Lê-vi lại gần, đặt trước thầy tế lễ A-rôn, để người Lê-vi sẽ phục sự người.
7. Người Lê-vi sẽ giữ chức phận của người và chức phận của cả hội chúng về trước hội mạc mà làm những công việc của đền tạm.
8. Cũng phải coi sóc hết thảy đồ đạc của hội mạc và mọi vật chi dân Y-sơ-ra-ên giao cho đặng dùng làm công việc của đền tạm.
9. Vậy, ngươi phải giao người Lê-vi cho A-rôn và cho các con trai người; v́ đă lấy họ từ trong ṿng dân Y-sơ-ra-ên mà ban trọn cho A-rôn rồi.
10. Vậy, ngươi sẽ lập A-rôn và các con trai người, để làm chức tế lễ; người ngoại đến gần sẽ bị xử tử.
11. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
12. Nầy, từ giữa dân Y-sơ-ra-ên ta chọn lấy người Lê-vi thế cho hết thảy con đầu ḷng của dân Y-sơ-ra-ên; vậy, người Lê-vi sẽ thuộc về ta.
13. V́ hết thảy con đầu ḷng đều thuộc về ta; ngày xưa khi ta hành hại các con đầu ḷng trong xứ Ê-díp-tô, ta đă biệt riêng ra thánh cho ta hết thảy con đầu ḷng trong Y-sơ-ra-ên, bất luận loài người hay thú vật; chúng nó đều sẽ thuộc về ta, Ta là Đức Giê-hô-va.
14. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se tại trong đồng vắng Si-na-i mà rằng:
15. Hăy kê sổ con cháu Lê-vi, tùy theo tông tộc và họ hàng chúng nó, kê hết thảy nam đinh từ một tháng sắp lên.
16. Môi-se bèn kê sổ người Lê-vi theo mạng của Đức Giê-hô-va, y như Ngài đă phán dặn người vậy.
17. Đây là các con trai của Lê-vi kể từng tên: Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
18. Đây là tên của các con trai Ghẹt-sôn, tùy theo họ hàng ḿnh: Líp-ni và Si-mê-y.
19. Đây là các con trai của Kê-hát tùy theo họ hàng ḿnh: Am-ram, Dít-sa, Hếp-rôn và U-xi-ên;
20. và các con trai của Mê-ra-ri, tùy theo họ hàng ḿnh, là: Mách-li và Mu-si. Đó là những họ hàng của người Lê-vi, tùy theo tông tộc của họ.
21. Họ hàng Líp-ni và họ hàng Si-mê-y thuộc về Ghẹt-sôn. Đó là hai họ hàng của Ghẹt-sôn vậy.
22. Những người trong họ Ghẹt-sôn được tu bộ, kể mọi nam đinh từ một tháng sắp lên, số là bảy ngàn năm trăm người.
23. Các họ hàng của Ghẹt-sôn đóng trại về phía tây, sau đền tạm.
24. Quan trưởng của tông tộc Ghẹt-sôn là Ê-li-a-sáp, con trai của La-ên.
25. Chức phận của con cháu Ghẹt-sôn trong hội mạc là coi sóc mọi vật chi can đến đền tạm và Trại, tức là tấm bong của Trại và bức màn của cửa hội mạc;
26. các bố vi của hành lang, và bức màn của cửa hành lang bao phủ chung quanh đền tạm và bàn thờ, cùng dây chạc về các việc của đền tạm.
27. Họ hàng Am-ram, họ hàng Dít-sa, họ hàng Hếp-rôn và họ hàng U-xi-ên thuộc về Kê-hát. Đó là những họ hàng của Kê-hát.
28. Cứ kể mọi nam đinh từ một tháng sắp lên, số là tám ngán sáu trăm người có chức phận săn sóc nơi thánh.
29. Các họ hàng của con cháu Kê-hát đóng trại bên hông đền tạm về phía nam.
30. Quan trưởng của tông tộc Kê-hát là Ê-li-sa-phan, con trai của U-xi-ên.
31. Người Kê-hát coi sóc ḥm bảng chứng, cái bàn, chân đèn, các bàn thờ, và những đồ đạc của nơi thánh để dùng về việc thờ phượng, luôn với bức màn và các vật chi can đến.
32. Tổng trưởng của người Lê-vi là Ê-lê-a-sa, con trai của thầy tế lễ A-rôn, được đặt lên quản trị những người coi sóc nơi thánh.
33. Họ hàng Mách-li và họ hàng Mu-si thuộc về Mê-ra-ri. Đó là hai họ hàng của Mê-ra-ri vậy.
34. Những người trong bọn Mê-ra-ri được tu bộ, kể mọi nam đinh từ một tháng sắp lên, số là sáu ngàn hai trăm người.
35. Quan trưởng của tông tộc Mê-ra-ri là Xu-ri-ên, con trai của A-bi-hai. Con cháu Mê-ra-ri đóng trại bên hông đền tạm về phía bắc,
36. có phần coi sóc các tấm ván của đền tạm, cây xà ngang, trụ, lỗ trụ, những đồ đạc, và mọi việc thuộc về đó,
37. những trụ ở chung quanh hành lang và lỗ trụ, những nọc và dây chạc của trụ.
38. Những người đóng trại trước đền tạm về phía đông, tức trước hội mạc về phía mặt trời mọc, là Môi-se, A-rôn và các con trai người, có chức phận săn sóc nơi thánh thế cho dân Y-sơ-ra-ên. Người ngoại đến gần sẽ bị xử tử.
39. Hết thảy người Lê-vi mà Môi-se và A-rôn vâng mạng Đức Giê-hô-va tu bộ, tùy theo họ hàng của họ, kể mọi nam đinh từ một tháng sắp lên, số là hai mươi hai ngàn người.
40. Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hăy kê sổ hết thảy con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên, từ một tháng sắp lên, và hăy dựng sổ tên chúng nó.
41. Ta là Đức Giê-hô-va. Ngươi phải chọn lấy cho ta người Lê-vi thế cho các con trưởng nam trong dân Y-sơ-ra-ên; cũng phải bắt súc vật của người Lê-vi thế cho mọi con súc vật đầu ḷng của dân Y-sơ-ra-ên.
42. Vậy, Môi-se kê sổ các con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn người.
43. Hết thảy những con trưởng nam kể từng tên, từ tuổi một tháng sắp lên, theo sự kê sổ họ, là hai mươi hai ngàn hai trăm bảy mươi ba người.
44. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
45. Hăy chọn lấy những người Lê-vi thế cho hết thảy con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên, và súc vật của người Lê-vi thế cho súc vật của dân Y-sơ-ra-ên; vậy, các người Lê-vi sẽ thuộc về ta. Ta là Đức Giê-hô-va.
46. C̣n về sự chuộc lại con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên, kê sổ hơn số người Lê-vi hai trăm bảy mươi ba,
47. th́ ngươi phải thâu mỗi người năm siếc-lơ, tùy theo siếc-lơ nơi thánh; một siếc-lơ là hai chục ghê-ra.
48. Ngươi phải giao bạc cho A-rôn và các con trai người; ấy là bạc chuộc lại những con trưởng nam trổi hơn.
49. Vậy, Môi-se thâu bạc chuộc lại những con trưởng nam trổi hơn số người Lê-vi đă chuộc lại.
50. Bạc mà người thâu về những con trưởng nam của dân Y-sơ-ra-ên, cộng được một ngàn ba trăm sáu mươi lăm siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh.
51. Môi-se vâng mạng Đức Giê-hô-va, giao bạc chuộc lại cho A-rôn và các con trai người, y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se.

Dân-số Kư 4    chọn đoạn khác

1. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn rằng:
2. Trong người Lê-vi hăy dựng sổ các con cháu Kê-hát, tùy theo họ hàng và tông tộc của chúng nó,
3. từ ba mươi tuổi sắp lên cho đến năm mươi, tức là hết thảy người nào có thể giúp công vào hội mạc.
4. Nầy sẽ là phần việc của con cháu Kê-hát tại trong hội mạc. Họ sẽ coi sóc nơi chí thánh.
5. Khi nào dời trại quân đi, A-rôn và các con trai người sẽ đến gỡ bức màn mà bao lấy ḥm bảng chứng;
6. đoạn, đắp lên một tấm phủ bằng da cá nược, trải trên một tấm nỉ toàn bằng màu điều xanh và xỏ đ̣n khiêng vào.
7. Cũng trải một tấm nỉ màu điều xanh trên cái bàn về bánh trần thiết; ở trên bàn th́ sắp đĩa, chén, tộ và chậu về những lễ quán; bánh hằng trần thiết cũng sẽ có ở trên nữa.
8. Rồi trải trên các vật đó một tấm nỉ màu đỏ sặm, đắp một tấm phủ bằng da cá nược và xỏ đ̣n khiêng vào.
9. Cũng phải lấy một tấm nỉ màu điều xanh mà đậy chân đèn thắp, các thếp đèn, kéo hớt tim, đồ đựng tro, và các b́nh dầu mà người ta dùng về chân đèn.
10. Rồi để chân đèn và hết thảy đồ phụ tùng trong một tấm phủ bằng da cá nược, để lên trên cái sề.
11. Họ phải trải trên bàn thờ bằng vàng một tấm nỉ màu điều xanh và đắp một tấm phủ bằng da cá nược rồi xỏ đ̣n khiêng vào.
12. Lại, cũng phải lấy hết thảy đồ đạc dùng về công việc nơi thánh, để trong một tấm nỉ màu điều xanh, rồi đắp một tấm phủ bằng da cá nược và để lên trên cái sề.
13. Phải hốt tro của bàn thờ, trải ở trên một tấm nỉ màu đỏ điều,
14. để lên trên hết thảy đồ đạc dùng về công việc của bàn thờ, tức là những lư hương, nĩa, và, chén, cùng những đồ phụ tùng của bàn thờ. Rồi đắp trên bàn thờ một tấm phủ bằng da cá nược và xỏ đ̣n khiêng vào.
15. Sau khi A-rôn và các con trai người đă đậy-điệm nơi thánh và các đồ đạc thánh xong, khi dời trại quân đi, th́ các con cháu Kê-hát phải đến đặng khiêng các đồ đạc đó; họ chẳng nên đụng vào những vật thánh, e phải chết chăng. Trong hội mạc, ấy là đồ mà các con cháu Kê-hát phải khiêng đi.
16. Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn, sẽ coi về dầu thắp đèn, hương-liệu, của lễ chay hằng hiến, dầu xức, cả đền tạm, và hết thảy vật chi ở trong nơi thánh với đồ phụ tùng của nơi thánh.
17. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se và A-rôn rằng:
18. Hăy làm thể nào cho tông tộc Kê-hát chớ bị truất khỏi chi phái Lê-vi,
19. và hăy làm điều nầy cho chúng nó, để khi đến gần nơi chí thánh, chúng nó được sống, chẳng phải chết: A-rôn và các con trai người phải đến cắt công việc cho mỗi người, và đồ chi họ phải khiêng đi.
20. Dẫu một lát, chúng nó chớ nên vào đặng xem những vật thánh, e phải chết chăng.
21. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:
22. Cũng hăy dựng sổ các con cháu Ghẹt-sôn, tùy theo tông tộc và họ hàng họ.
23. Từ ba mươi tuổi sắp lên cho đến năm mươi, ngươi khá kê sổ hết thảy những người nào có thể làm công việc trong hội mạc.
24. Nầy là chức việc của các họ hàng Ghẹt-sôn, hoặc phải làm hoặc phải khiêng đồ:
25. họ sẽ mang những tấm màn của đền tạm và hội mạc, tấm bong của hội mạc, tấm lá-phủ bằng da cá nược ở trên, và bức màn của cửa hội mạc;
26. các bố vi của hành lang ở chung quanh đền tạm và bàn thờ, bức màn của cửa hành lang, những dây chạc, và hết thảy đồ dùng về các vật đó, cùng làm các công việc về những món ấy.
27. Hết thảy công việc của con cháu Ghẹt-sôn, món chi họ phải khiêng đi, và việc chi họ phải làm điều sẽ theo lịnh A-rôn và các con trai người chỉ biểu; người phải giao cho họ coi sóc mọi món chi phải khiêng đi.
28. Trong hội mạc, ấy là công việc của các họ hàng con cháu Ghẹt-sôn. Họ sẽ giữ chức phận ḿnh dưới quyền cai trị của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn.
29. Ngươi phải kê sổ con cháu Mê-ra-ri, tùy theo họ hàng và tông tộc của họ,
30. từ ba mươi tuổi sắp lên cho đến năm mươi, tức là hết thảy người nào có thể giúp công vào hội mạc.
31. Về các công việc của con cháu Mê-ra-ri trong hội mạc, nầy là vật họ phải coi sóc và khiêng đi: những tấm ván của đền tạm, các xà ngang, trụ, lỗ trụ,
32. các trụ chung quanh hành lang và lỗ trụ, nọc, dây chạc, cùng hết thảy đồ đạc và các vật chi dùng về việc đó; các ngươi sẽ kê sổ từng tên những vật chi họ phải coi sóc và khiêng đi.
33. Đó là hết thảy việc của các họ hàng Mê-ra-ri, về những công việc trong hội mạc mà họ phải làm ở dưới quyền cai trị của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn.
34. Vậy, Môi-se, A-rôn và những hội trưởng kê sổ con cháu Kê-hát, tùy theo họ hàng và tông tộc của họ,
35. từ ba mươi tuổi sắp lên cho đến năm mươi, tức là hết thảy người nào có thể giúp công trong hội mạc;
36. và những người mà người ta kê sổ, tùy theo họ hàng ḿnh, cộng được hai ngàn bảy trăm năm mươi.
37. Đó là những người của các họ hàng Kê-hát đă bị kê sổ, tức là hết thảy người hầu việc trong hội mạc mà Môi-se và A-rôn kê sổ, y theo mạng của Đức Giê-hô-va đă cậy Môi-se truyền dạy.
38. C̣n con cháu của Ghẹt-sôn đă bị kê sổ, tùy theo họ hàng và tông tộc của họ,
39. từ ba mươi tuổi sắp lên cho đến năm mươi, tức là hết thảy người có thể giúp công trong hội mạc,
40. cộng được hai ngàn sáu trăm ba mươi.
41. Đó là những người về các họ hàng con cháu Ghẹt-sôn đă bị kê sổ, tức là mọi người hầu việc trong hội mạc mà Môi-se và A-rôn tu bộ y theo mạng của Đức Giê-hô-va.
42. C̣n những người về họ hàng con cháu Mê-ra-ri đă bị kê sổ, tùy theo họ hàng và tông tộc của họ,
43. từ ba mươi tuổi sắp lên cho đến năm mươi, tức là mọi người có thể giúp công trong hội mạc,
44. cộng được ba ngàn hai trăm.
45. Đó là những người về các họ hàng con cháu Mê-ra-ri đă bị kê sổ. Môi-se và A-rôn lấy bộ dân, y theo mạng của Đức Giê-hô-va đă cậy Môi-se truyền dạy.
46. Hết thảy những kẻ trong người Lê-vi mà Môi-se, A-rôn, và các quan trưởng Y-sơ-ra-ên tu bộ, tùy theo họ hàng và tông tộc của họ,
47. từ ba mươi tuổi sắp lên cho đến năm mươi, tức là mọi người đến đặng hầu việc và khiêng đồ trong hội mạc,
48. cộng được tám ngàn năm trăm tám mươi.
49. Người ta tu bộ người Lê-vi tùy theo mạng của Đức Giê-hô-va đă cậy Môi-se truyền dạy, cắt phần cho mỗi người việc ḿnh phải làm, và vật chi ḿnh phải khiêng đi; người ta tu bộ dân tùy theo lời Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se vậy.

Dân-số Kư 5    chọn đoạn khác

1. Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
2. Hăy biểu dân Y-sơ-ra-ên đuổi ra ngoài trại quân hết thảy người phung, người có bịnh bạch trược, và người v́ cớ đụng đến một xác chết nào đă bị ô uế.
3. Bất luận nam hay nữ, các ngươi phải đuổi họ ra ngoài trại quân, hầu cho họ không làm cho trại quân bị ô uế, là nơi ta ngự ở trong.
4. Dân Y-sơ-ra-ên bèn làm như vậy, đuổi họ ra khỏi trại quân, y như Đức Giê-hô-va đă truyền lịnh cho Môi-se vậy.
5. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:
6. Hăy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên như vầy: Khi một người nam hay nữ phạm một trong những tội người ta thường phạm, cho đến can phạm cùng Đức Giê-hô-va, và v́ cớ đó phải mắc tội,
7. th́ người ấy phải xưng tội ḿnh đă phạm ra, và trả tang vật lại đủ, và thêm một phần năm giá vật mà giao cho người ḿnh đă mắc tội cùng.
8. Nếu người nầy không c̣n, và không bà con nào để lănh tang vật đó lại, th́ vật ấy sẽ về Đức Giê-hô-va, tức là về thầy tế lễ, ngoại trừ con chiên đực về lễ chuộc tội mà thầy tế lễ sẽ dùng đặng chuộc tội cho người mắc tội đó.
9. Phàm lễ vật chi biệt riêng ra thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho thầy tế lễ, đều sẽ thuộc về người.
10. Những vật biệt riêng ra thánh mà mỗi người dâng sẽ thuộc về người; vật chi mỗi người ban cho thầy tế lễ, chắc sẽ thuộc về người vậy.
11. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:
12. Hăy nói cho dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nếu một người đàn bà lỗi đạo và phạm tội bất chánh cùng chồng,
13. nếu có một người nam gian dâm cùng nàng mà việc nhẹm khuất mắt chồng; nếu nàng bị ô uế kín nhiệm, không có chứng cớ đối cùng nàng, và nàng không bị bắt tại trận;
14. nếu tánh ghen phát nơi người chồng ghen vợ ḿnh, hoặc đă thật bị ô uế, hoặc không có bị ô uế,
15. th́ người nầy phải dẫn vợ ḿnh đến trước mặt thầy tế lễ, và v́ nàng đem theo một phần mười ê-pha bột mạch nha dùng làm của tế lễ. Người chớ nên chế dầu vào, và cũng chẳng nên bỏ nhũ hương lên trên, v́ là một của lễ chay về sự ghen tương, một của lễ chay kỷ niệm đặng nhắc tội gian ác.
16. Thầy tế lễ sẽ biểu người nữ đến gần, đứng trước mặt Đức Giê-hô-va.
17. Kế đó thầy tế lễ lấy nước thánh đổ vào chậu đất, hốt bụi ở trên đất của đền tạm mà bỏ trong nước.
18. Đoạn, thầy tế lễ phải biểu người nữ đứng trước mặt Đức Giê-hô-va, lột trần đầu nàng, để của lễ kỷ niệm trên ḷng bàn tay nàng, nghĩa là của lễ chay về sự ghen tương; và thầy tế lễ phải có nước đắng giáng rủa sả trong tay ḿnh.
19. Thầy tế lễ phải bắt người nữ thề, và nói cùng nàng rằng: Nếu chẳng một người nam nào nằm cùng ngươi, và nếu đương dưới quyền chồng ngươi không có lỗi đạo và không bị ô uế, th́ chẳng phải mắc một điều hại nào của nước đắng giáng rủa sả nầy.
20. C̣n nếu đương dưới quyền chồng, mà ngươi lỗi đạo; nếu ngươi bị ô uế, và nếu một người nào khác hơn chồng đă nằm cùng ngươi
21. bấy giờ thầy tế lễ phải bắt người nữ lấy một lời thề trù ẻo mà thề, và nói cùng nàng rằng: Cầu Đức Giê-hô-va khiến cho ngươi trở nên một mầm rủa sả và trù ẻo giữa ṿng dân sự ngươi, làm cho ngươi ốm ḷi hông và ph́nh bụng lên;
22. nước đắng giáng rủa sả nầy khá chun vào ruột gan làm cho bụng ngươi ph́nh lên và ốm ḷi hông. Người nữ sẽ nói rằng: A-men, a-men!
23. Kế đó, thầy tế lễ phải viết các lời trù ẻo nầy trong một cuốn sách, rồi lấy nước đắng bôi đi.
24. Thầy tế lễ sẽ biểu người nữ uống nước đắng giáng rủa sả, nước đắng giáng rủa sả sẽ vào trong ḿnh nàng đặng làm cay đắng cho nàng.
25. Đoạn, thầy tế lễ sẽ lấy khỏi tay người nữ của lễ chay về sự ghen tương, đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-va và dâng lên trên bàn thờ.
26. Rồi lấy một nắm của lễ chay kỷ niệm và xông trên bàn thờ; kế biểu người nữ uống nước đắng.
27. Vả, khi nào thầy tế lễ biểu người uống nước đắng rồi, nếu quả người có bị ô uế phạm tội bất chánh cùng chồng ḿnh, th́ nước đắng giáng rủa sả sẽ vào ḿnh làm cay đắng cho nàng, bụng nàng sẽ ph́nh lên, hông nàng ốm ḷi, và người nữ nầy sẽ làm một mầm rủa sả giữa ṿng dân sự ḿnh.
28. C̣n nếu người nữ không bị ô uế, vẫn thanh sạch, th́ nàng sẽ chẳng bị một điều hại nào, và sẽ sanh con.
29. Đó là luật lệ về sự ghen tương khi một người đàn bà, ở dưới quyền chồng ḿnh, lỗi đạo và bị ô uế;
30. hoặc khi nào tánh ghen phát sanh nơi người chồng mà ghen vợ ḿnh: người phải đem vợ đến trước mặt Đức Giê-hô-va, và thầy tế lễ sẽ làm cho nàng hết thảy điều chi luật lệ nầy truyền dạy.
31. Người chồng sẽ vô tội, c̣n người đàn bà đó sẽ mang lấy tội ḿnh.

Dân-số Kư 6    chọn đoạn khác

1. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:
2. Hăy nói cho dân Y-sơ-ra-ên rằng: Bất luận người nam hay nữ, khi hứa nguyện Na-xi-rê đặng biệt ḿnh riêng ra cho Đức Giê-hô-va,
3. th́ phải kiêng cữ rượu và vật uống say; chẳng nên uống hoặc giấm rượu, hoặc giấm của vật uống say; lại cũng chẳng nên uống một thứ nước nào bằng trái nho, hay là ăn nho tươi, hoặc nho khô.
4. Trọn trong lúc người biệt ḿnh riêng ra, chớ ăn món chi của nho sanh sản hết, từ hột đến da.
5. Trọn trong lúc hứa nguyện Na-xi-rê ḿnh, chớ nên dùng dao cạo đầu; người sẽ nên thánh, và phải để tóc mọc cho đến chừng nào kỳ biệt ḿnh riêng ra cho Đức Giê-hô-va đă được măn.
6. Trọn trong lúc người biệt ḿnh riêng ra cho Đức Giê-hô-va chớ đến gần người chết.
7. Người chớ v́ cha hoặc v́ mẹ, v́ anh hoặc v́ chị đă chết, mà làm cho ḿnh bị ô uế, v́ dấu chỉ sự biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời vẫn ở trên đầu người.
8. Trọn trong lúc hứa nguyện Na-xi-rê, người được biệt ra thánh cho Đức Giê-hô-va.
9. Nếu ai chết th́nh ĺnh gần bên người, làm cho ô uế đầu ḿnh đă biệt riêng ra thánh, th́ phải cạo đầu ḿnh trong ngày được sạch, tức là ngày thứ bảy;
10. qua ngày thứ tám, người phải đem hai chim cu hay là hai ḅ câu con đến cho thầy tế lễ tại cửa hội mạc.
11. Thầy tế lễ sẽ dâng con nầy làm của lễ chuộc tội, con kia làm của lễ thiêu, và chuộc tội cho người đă phạm, v́ cớ xác chết. Vậy, trong ngày đó người sẽ biệt đầu ḿnh riêng ra thánh.
12. Thế th́, người phải biệt riêng ra cho Đức Giê-hô-va những ngày về nguyện Na-xi-rê ḿnh lại, và dâng một con chiên đực giáp năm làm của lễ chuộc sự mắc lỗi, và những ngày trước không kể nữa, v́ sự Na-xi-rê ḿnh đă bị ô uế.
13. Nầy là luật lệ về người Na-xi-rê: Khi nào những ngày Na-xi-rê ḿnh đă măn, người ta phải đem người đến tại cửa hội mạc;
14. người phải dâng của lễ ḿnh cho Đức Giê-hô-va, tức là một con chiên con giáp năm không t́ vít, làm của lễ thiêu, một con chiên cái giáp năm không t́ vít, làm của lễ chuộc tội, và một con chiên đực không t́ vít, làm của lễ thù ân;
15. một giỏ bánh không men bằng bột lọc, bánh nhỏ tưới dầu, bánh tráng không men thoa dầu, luôn với của lễ chay và lễ quán cặp theo các lễ kia.
16. Thầy tế lễ sẽ đem những của lễ nầy đến trước mặt Đức Giê-hô-va, và dâng của lễ chuộc tội cùng của lễ thiêu của người;
17. rồi ngoại trừ giỏ bánh không men, dâng luôn con chiên đực làm của lễ thù ân, cùng dâng của lễ chay và lễ quán của người.
18. Tại cửa hội mạc, người Na-xi-rê phải cạo đầu ḿnh đă biệt riêng ra, lấy tóc bỏ vào lửa dưới của lễ thù ân.
19. Sau khi người Na-xi-rê cạo đầu rồi, thầy tế lễ sẽ lấy cái vai chín của chiên đực, một cái bánh nhỏ không men trong giỏ, một bánh tráng không men và để trong ḷng hai bàn tay người,
20. rồi đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-va: ấy là một vật thánh về thầy tế lễ với cái o đưa qua đưa lại và cái gị dâng giơ lên. Kế đó, người Na-xi-rê được phép uống rượu.
21. Đó là luật lệ về người Na-xi-rê đă hứa nguyện, và đây là của lễ người phải dâng cho Đức Giê-hô-va về nguyện Na-xi-rê ḿnh, ngoại trừ của lễ nào người có thể dâng thêm. Người phải theo luật lệ về sự Na-xi-rê ḿnh mà làm theo lời hứa nguyện của ḿnh vậy.
22. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
23. Hăy nói cùng A-rôn và các con trai người mà rằng: Các ngươi phải chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên như vầy:
24. Cầu xin Đức Giê-hô-va ban phước cho ngươi và phù hộ ngươi!
25. Cầu xin Đức Giê-hô-va chiếu sáng mặt Ngài trên ngươi, và làm ơn cho ngươi!
26. Cầu xin Đức Giê-hô-va đoái xem ngươi và ban b́nh an cho ngươi!
27. Họ phải đặt danh ta trên dân Y-sơ-ra-ên như vầy, th́ ta đây sẽ ban phước cho dân đó.

Dân-số Kư 7    chọn đoạn khác

1. Khi Môi-se đă dựng xong đền tạm, và đă xức dầu cùng biệt riêng ra thánh hết thảy đồ đạc của đền tạm, xức dầu và biệt riêng ra thánh bàn thờ và hết thảy đồ đạc của bàn thờ rồi,
2. th́ các trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên, tức là các quan trưởng về những chi phái mà đă cai trị cuộc tu bộ dân, đều đem dâng lễ vật của ḿnh.
3. Vậy, các quan trưởng dẫn lễ vật ḿnh đến trước mặt Đức Giê-hô-va: Sáu xe cộ, h́nh như cái kiệu, và mười hai con ḅ đực, nghĩa là mỗi hai quan trưởng đồng dâng một xe cộ, và mỗi một người dâng một con ḅ đực; họ dâng lễ vật đó trước đền tạm.
4. Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hăy thâu nhận các lễ vật của những người nầy, để dùng vào công việc hội mạc; và hăy giao cho người Lê-vi,
5. tức là cho mọi người tùy theo chức phận ḿnh.
6. Vậy, Môi-se bèn nhận lấy các xe cộ và những ḅ đực, giao cho người Lê-vi.
7. Người giao cho con cháu Ghẹt-sôn hai xe cộ và bốn con ḅ đực, tùy theo chức phận của họ.
8. Người giao cho con cháu Mê-ra-ri bốn xe cộ và tám con ḅ đực, tùy theo chức phận của họ, có Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn, làm quản lư.
9. Nhưng người không có giao chi cho con cháu Kê-hát, v́ họ mắc phần công việc về những vật thánh, và gánh vác những vật đó trên vai ḿnh.
10. Trong ngày bàn thờ được xức dầu, các quan trưởng dâng lễ vật ḿnh trước bàn thờ về cuộc khánh thành nó.
11. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Các quan trưởng phải đem lễ vật ḿnh về cuộc khánh thành bàn thờ, người nầy th́ ngày nay, người kia th́ ngày kia.
12. Người dâng lễ vật ḿnh ngày đầu, là Na-ha-sôn, con trai của A-mi-na-đáp, thuộc về chi phái Giu-đa.
13. Lễ-vật người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
14. một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
15. một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
16. một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
17. và về của lễ thù ân, hai con ḅ đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ vật của Na-ha-sôn, con trai A-mi-na-đáp.
18. Ngày thứ hai, Na-tha-na-ên, con trai của Xu-a, quan trưởng Y-sa-ca, dâng lễ vật ḿnh.
19. Người dâng một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
20. một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
21. một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
22. một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
23. và về của lễ thù ân, hai con ḅ đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ vật của Na-tha-na-ên. con trai Xu-a.
24. Ngày thứ ba, đến quan trưởng của con cháu Sa-bu-lôn, là Ê-li-áp, con trai của Hê-lôn.
25. Lễ-vật của người là một cái dĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
26. một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
27. một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
28. một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
29. và về của lễ thù ân, hai con ḅ đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ vật của Ê-li-áp, con trai Hê-lôn.
30. Ngày thứ tư, đến quan trưởng của con cháu Ru-bên, là Ê-lít-su, con trai Sê-đêu.
31. Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
32. một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
33. một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
34. một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
35. và về của lễ thù ân, hai con ḅ đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ vật của Ê-lít-su, con trai Sê-đêu.
36. Ngày thứ năm, đến quan trưởng của con cháu Si-mê-ôn, là Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-ha-đai.
37. Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
38. một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
39. một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
40. một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
41. và về của lễ thù ân, hai con ḅ đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ vật của Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-ha-đai.
42. Ngày thứ sáu, đến quan trưởng của con cháu Gát, là Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên.
43. Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
44. một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
45. một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
46. một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
47. và về của lễ thù ân, hai con ḅ đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ vật của Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên.
48. Ngày thứ bảy, đến quan trưởng của con cháu Ép-ra-im, là Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút.
49. Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
50. một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
51. một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
52. một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
53. và về của lễ thù ân, hai con ḅ đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ vật của Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút.
54. Ngày thứ tám, đến quan trưởng của con cháu Ma-na-se, là Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đát-su.
55. Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
56. một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
57. một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
58. một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
59. và về của lễ thù ân, hai con ḅ đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ vật của Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đát-su.
60. Ngày thứ chín, đến quan trưởng của con cháu Bên-gia-min, là A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni.
61. Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
62. một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
63. một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
64. một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
65. và về của lễ thù ân, hai con ḅ đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ vật của A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni.
66. Ngày thứ mười, đến quan trưởng của con cháu Đan, là A-hi-ê-xe, con trai A-mi-sa-đai.
67. Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
68. một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
69. một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
70. một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
71. và về của lễ thù ân, hai con ḅ đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ vật của A-hi-ê-xe, con trai A-mi-sa-đai.
72. Ngày thứ mười một, đến quan trưởng của con cháu A-se, là Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran.
73. Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mười siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
74. một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
75. một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
76. một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
77. và về của lễ thù ân, hai con ḅ đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ vật của Pha-ghi-ên, con trai Óc-ran.
78. Ngày thứ mười hai, đến quan trưởng của con cháu Nép-ta-li, là A-hi-ra, con trai Ê-nan.
79. Lễ-vật của người là một cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, một cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, dùng về của lễ chay;
80. một cái chén vàng nặng mười siếc-lơ, đầy thuốc thơm;
81. một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con giáp năm, dùng về của lễ thiêu;
82. một con dê đực dùng về của lễ chuộc tội;
83. và về của lễ thù ân, hai con ḅ đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên con giáp năm. Đó là lễ vật của A-hi-ra, con trai Ê-nan.
84. Ấy là những lễ vật của các quan trưởng dân Y-sơ-ra-ên dâng về cuộc khánh thành bàn thờ, khi bàn thờ được xức dầu: Mười hai đĩa bạc, mười hai chậu bạc, mười hai chén vàng;
85. mỗi cái đĩa bạc nặng một trăm ba mươi siếc-lơ, và mỗi cái chậu bạc nặng bảy chục siếc-lơ. Tổng cộng số bạc của các đĩa và chậu là hai ngàn bốn trăm siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh.
86. Mười hai cái chén vàng đầy thuốc thơm, mỗi cái mười siếc-lơ, theo siếc-lơ của nơi thánh; tổng cộng số vàng của chén nặng được một trăm hai mươi siếc-lơ.
87. Tổng cộng số ḅ đực về của lễ thiêu là mười hai con, với mười hai con chiên đực, mười hai con chiên con giáp năm cùng những của lễ chay cặp theo, và mười hai con dê đực dùng về của lễ chuộc tội.
88. Tổng cộng số ḅ đực về của lễ thù ân là hai mươi bốn con với sáu mươi con chiên đực, sáu mươi con dê đực, sáu mươi con chiên con giáp năm. Ấy là lễ vật dâng về cuộc khánh thành bàn thờ, sau khi bàn thờ được xức dầu rồi.
89. Khi Môi-se vào hội mạc đặng hầu chuyện cùng Đức Giê-hô-va, th́ người nghe Tiếng nói cùng ḿnh từ trên nắp thi ân để trên ḥm bảng chứng, ở giữa hai chê-ru-bin, người hầu chuyện cùng Đức Giê-hô-va vậy.

Dân-số Kư 8    chọn đoạn khác

1. Đức Giê-hô-va cũng phán cùng Môi-se rằng:
2. Hăy nói cùng A-rôn: Khi nào người đặt các đèn, th́ bảy ngọn đèn phải chiếu trên phía trước chân đèn.
3. A-rôn bèn làm như vậy; đặt bảy ngọn đèn trên phía trước chân đèn, y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se.
4. Vả, chân đèn đă làm theo cách nầy; làm bằng vàng đánh giát, cho đến cái chân và những cái hoa đều đánh giát. Ấy vậy, người ta làm chân đèn theo như kiểu mà Đức Giê-hô-va đă chỉ cho Môi-se xem.
5. Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
6. Hăy chọn lấy người Lê-vi ở trong ṿng dân Y-sơ-ra-ên và dọn cho họ được sạch.
7. Nầy là điều ngươi phải làm cho họ được sạch: Ngươi phải rảy nước rửa tội trên ḿnh họ; họ phải cạo hết thảy cùng ḿnh, giặt quần áo, và dọn cho ḿnh được sạch.
8. Đoạn, họ phải bắt một con ḅ đực với của lễ chay bằng bột lọc nhồi dầu cặp theo; c̣n ngươi bắt một con ḅ đực tơ thứ nh́ dùng về của lễ chuộc tội;
9. rồi biểu người Lê-vi đến gần trước hội mạc và nhóm cả hội chúng Y-sơ-ra-ên.
10. Vậy, người phải biểu người Lê-vi đến gần trước mặt Đức Giê-hô-va, rồi dân Y-sơ-ra-ên sẽ đặt tay trên ḿnh người Lê-vi.
11. A-rôn sẽ dâng người Lê-vi làm của lễ do phần dân Y-sơ-ra-ên mà đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-va, và họ sẽ được phần làm công việc của Đức Giê-hô-va.
12. Đoạn, người Lê-vi sẽ đặt tay trên đầu hai con ḅ đực, và ngươi phải dâng con nầy làm của lễ chuộc tội và con kia làm của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, để làm lễ chuộc tội cho người Lê-vi.
13. Kế đó, ngươi phải biểu người Lê-vi đứng trước mặt A-rôn và các con trai người, rồi dâng họ như một của lễ đưa qua đưa lại cho Đức Giê-hô-va.
14. Như vậy ngươi sẽ biệt riêng ra người Lê-vi với dân Y-sơ-ra-ên, và người Lê-vi sẽ thuộc về ta.
15. Sau việc ấy, người Lê-vi sẽ đến đặng làm công việc của hội mạc. Ấy, ngươi sẽ làm cho họ được sạch và dâng như của lễ đưa qua đưa lại vậy.
16. Bởi v́, giữa dân Y-sơ-ra-ên người Lê-vi ban trọn cho ta; ta đă chọn lấy họ về ta thế cho hết thảy con đầu ḷng của dân Y-sơ-ra-ên.
17. V́ chưng hết thảy con đầu ḷng trong dân Y-sơ-ra-ên đều thuộc về ta, bất luận người hay vật; ta đă biệt chúng nó riêng ra cho ta trong ngày ta hành hại mọi con đầu ḷng tại xứ Ê-díp-tô,
18. và ta đă chọn lấy người Lê-vi thế cho mọi con đầu ḷng của dân Y-sơ-ra-ên.
19. Bởi trong dân Y-sơ-ra-ên ta đă chọn người Lê-vi ban trọn cho A-rôn và các con trai người, đặng làm công việc của dân Y-sơ-ra-ên ở trong hội mạc, cùng làm lễ chuộc tội cho dân Y-sơ-ra-ên, hầu cho khi họ đến gần nơi thánh, chẳng có tai hại chi trong dân Y-sơ-ra-ên.
20. Vậy, Môi-se, A-rôn, và cả hội dân Y-sơ-ra-ên, đối cùng người Lê-vi làm hết mọi điều Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se về họ; dân Y-sơ-ra-ên đối cùng người Lê-vi đều làm như vậy.
21. Người Lê-vi bèn làm cho ḿnh được sạch khỏi tội, và giặt áo xống ḿnh; rồi A-rôn dâng họ như của lễ đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-va, và làm lễ chuộc tội cho, để dọn họ được sạch.
22. Sau rồi, người Lê-vi đến đặng làm công việc ḿnh trong hội mạc trước mặt A-rôn và trước mặt các con trai người. Đối cùng người Lê-vi, người ta làm y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se về họ.
23. Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
24. Nầy là lệ định về người Lê-vi: Từ hai mươi lăm tuổi sắp lên, người Lê-vi phải đến nhập ban trong công việc của hội mạc.
25. Nhưng đến năm mươi tuổi, người sẽ ra ban, chẳng làm công việc nữa;
26. người phải cứ giúp đỡ anh em ḿnh trong hội mạc, coi sóc việc chi đă giao cho, nhưng không nên làm công việc nữa. Ngươi phải đối cùng người Lê-vi mà làm như vậy về chức phận của họ.

Dân-số Kư 9    chọn đoạn khác

1. Tháng giêng năm thứ hai, sau khi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se trong đồng vắng Si-na-i rằng:
2. Dân Y-sơ-ra-ên phải giữ lễ Vượt-qua theo kỳ nhất định.
3. Các ngươi phải giữ lễ đó theo kỳ nhất định, tức là ngày mười bốn tháng nầy, vào buổi chiều tối; các ngươi phải làm theo hết thảy lệ định và luật pháp về lễ đó.
4. Vậy, Môi-se nói cùng dân Y-sơ-ra-ên để họ giữ lễ Vượt-qua.
5. Dân Y-sơ-ra-ên giữ lễ Vượt-qua trong tuần tháng giêng, ngày mười bốn, vào buổi chiều tối, tại đồng vắng Si-na-i, làm y mọi điều Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se.
6. Vả, có mấy người v́ cớ xác chết mà bị ô uế, không được giữ lễ Vượt-qua trong ngày đó, bèn đến trước mặt Môi-se và A-rôn,
7. mà thưa cùng Môi-se rằng: Chúng tôi bị lây ô uế v́ xác chết của loài người; sao tại trong dân Y-sơ-ra-ên chúng tôi phải bị cất phần dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va theo kỳ đă chỉ?
8. Môi-se đáp rằng: Hăy đợi để ta biết điều Đức Giê-hô-va sẽ truyền dạy về các ngươi.
9. Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng:
10. Hăy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Khi một người trong ṿng các ngươi hay là trong ṿng hậu đại các ngươi bị ô uế v́ cớ xác chết, hoặc mắc đi xa, th́ cũng buộc phải giữ lễ Vượt-qua cho Đức Giê-hô-va.
11. Mấy người đó phải giữ lễ nầy ngày mười bốn tháng hai, vào buổi chiều tối, ăn bánh không men cùng rau đắng,
12. chớ nên để chi c̣n dư lại đến sáng lai, và cũng chẳng nên bẻ găy những xương; phải giữ theo mọi luật lệ về lễ Vượt-qua vậy.
13. Nhưng c̣n ai tinh sạch và không có đi xa, nếu chẳng giữ lễ Vượt-qua th́ sẽ bị truất khỏi dân sự ḿnh: v́ người ấy chẳng dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va trong kỳ nhất định; người sẽ mang lấy tội ḿnh.
14. Khi một khách ngoại bang kiều ngụ giữa các ngươi mà muốn giữ lễ Vượt-qua cho Đức Giê-hô-va, th́ phải giữ theo lệ định và luật pháp về lễ Vượt-qua. Đồng có một luật lệ cho các ngươi, cho khách ngoại bang, và cho người nào sanh tại trong xứ.
15. Vả, ngày người ta dựng đền tạm, th́ trụ mây bao phủ đền tạm và Trại chứng cớ; ban chiều dường có một vầng lửa ở trên đền tạm cho đến sáng mai.
16. Hằng có như vậy; ban ngày trụ mây bao phủ đền tạm, và ban đêm giống như có lửa.
17. Mỗi khi trụ mây cất lên khỏi Trại, th́ dân Y-sơ-ra-ên ra đi; trong nơi nào trụ mây dừng lại, th́ dân Y-sơ-ra-ên hạ trại ở đó.
18. Dân Y-sơ-ra-ên ra đi theo mạng Đức Giê-hô-va, và hạ trại theo mạng Đức Giê-hô-va. Trọn trong lúc trụ mây ngự trên đền tạm, th́ dân Y-sơ-ra-ên cứ đóng trại.
19. Khi nào trụ mây ngự lâu trên đền tạm, th́ dân Y-sơ-ra-ên vâng theo mạng Đức Giê-hô-va, chẳng hề ra đi.
20. Nhưng khi nào trụ mây ngự ít ngày trên đền tạm, th́ dân Y-sơ-ra-ên cứ vâng theo mạng Đức Giê-hô-va mà hạ trại và ra đi.
21. Khi trụ mây ngự tại đó từ buổi chiều đến sáng mai, và khi đến sáng mai trụ mây cất lên, th́ ra đi; không cứ ngày hay đêm trụ mây cất lên, th́ họ ra đi.
22. Trụ mây ngự trên đền tạm hoặc hai ngày, hoặc một tháng, hoặc lâu hơn nữa, th́ dân Y-sơ-ra-ên cứ đóng trại, không hề ra đi; nhưng khi trụ mây cất lên, th́ họ ra đi.
23. Dân Y-sơ-ra-ên hạ trại và ra đi tùy theo mạng Đức Giê-hô-va; họ theo chương tŕnh của Đức Giê-hô-va, tùy mạng Ngài đă cậy Môi-se mà truyền cho.

Dân-số Kư 10    chọn đoạn khác

1. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
2. Hăy làm hai ống loa bằng bạc, đánh giát, dùng cho ngươi để nhóm hiệp hội chúng và truyền cho các trại quân ra đi.
3. Khi nào người ta thổi loa, toàn hội chúng sẽ nhóm lại gần bên ngươi, tại cửa hội mạc.
4. Nếu người ta thổi chỉ một ống loa, th́ các quan trưởng, tức là các quan tướng đội-quân Y-sơ-ra-ên phải nhóm lại gần bên ngươi;
5. khi các ngươi thổi tiếng vang, th́ những trại quân ở về hướng đông phải ra đi.
6. Khi các ngươi thổi tiếng vang lần thứ nh́, th́ những trại quân ở về hướng nam phải ra đi; người ta sẽ thổi tiếng vang khi nào các trại quân phải ra đi vậy.
7. Khi nhóm hội chúng, các ngươi phải thổi, nhưng đừng thổi tiếng vang.
8. Các con trai A-rôn, là những thầy tế lễ, sẽ thổi những ống loa. Từ đời nầy sang đời kia, ấy sẽ là một lệ định đời đời cho các ngươi.
9. Khi nào trong xứ các ngươi phải ra chiến trận cùng kẻ thù nghịch xông đánh ḿnh, th́ phải thổi loa tiếng vang; Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi sẽ nhớ lại các ngươi, và các ngươi sẽ được giải thoát khỏi kẻ thù nghịch.
10. Trong những ngày vui mừng, trong các lễ trọng thể và đầu tháng của các ngươi, th́ phải thổi loa khi dâng những của lễ thiêu và của lễ thù ân ḿnh; loa sẽ dùng làm kỷ niệm trước mặt Đức Chúa Trời của các ngươi. Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi.
11. Xảy trong ngày hai mươi tháng hai, năm thứ hai, th́ trụ mây cất lên khỏi đền tạm chứng cớ.
12. Dân Y-sơ-ra-ên, theo chương tŕnh đă định, ra từ đồng vắng Si-na-i, và trụ mây dừng lại tại đồng vắng Pha-ran.
13. Vậy, dân Y-sơ-ra-ên vâng mạng của Đức Giê-hô-va cậy Môi-se truyền cho, mà ra đi lần thứ nhất.
14. Ngọn cờ của trại quân Giu-đa, tùy theo các đội ngũ ḿnh, đi trước. Na-ha-sôn, con trai A-mi-na-đáp, thống lănh quân đội Giu-đa.
15. Na-tha-na-ên, con trai Xu-a, thống lănh quân đội của chi phái Y-sa-ca.
16. Ê-li-áp, con trai Hê-lôn, thống lănh quân đội của chi phái Sa-bu-lôn.
17. Bấy giờ, đền tạm đă tháo dỡ, rồi con cháu Ghẹt-sôn và con cháu Mê-ra-ri khiêng đền tạm, bèn ra đi.
18. Kế đó, ngọn cờ của trại quân Ru-bên ra đi, tùy theo các đội ngũ ḿnh. Ê-lít-su, con trai Sê-đêu, thống lănh quân đội Ru-bên.
19. Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-ha-đai, thống lănh quân đội của chi phái Si-mê-ôn.
20. Ê-li-sáp, con trai Đê-u-ên, thống lănh quân đội của chi phái Gát.
21. Bấy giờ, các người Kê-hát khiêng những vật thánh ra đi; người ta dựng đền tạm lên đương lúc đợi họ đến.
22. Đoạn, ngọn cờ của trại quân con cháu Ép-ra-im ra đi, tùy theo đội ngũ ḿnh. Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút, thống lănh quân đội Ép-ra-im.
23. Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đát-su, thống lănh quân đội của chi phái Ma-na-se.
24. A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni, thống lănh quân đội của chi phái Bên-gia-min.
25. Rốt lại, ngọn cờ của trại quân Đan ra đi, tùy theo các đội ngũ ḿnh; nó làm hậu binh của các trại quân khác. A-hi-ê-xe, con trai A-mi-sa-đai, thống lănh quân đội Đan.
26. Pha-ghi-ên, con trai Óc-ran, thống lănh quân đội của chi phái A-se.
27. A-hi-ra, con trai Ê-nan, thống lănh quân đội của chi phái Nép-ta-li.
28. Đó là thứ tự về sự cất binh đi của dân Y-sơ-ra-ên, tùy theo các đội ngũ ḿnh; ấy, họ ra đi là như vậy.
29. Vả, Môi-se nói cùng Hô-báp, con trai Rê-u-ên, người Ma-đi-an, tức là anh vợ ḿnh, mà rằng: Chúng tôi đi đến xứ mà Đức Giê-hô-va có phán rằng: Ta sẽ ban xứ đó cho các ngươi. Xin anh hăy đi cùng chúng tôi, chúng tôi sẽ đăi anh tử tế; v́ Đức Giê-hô-va có hứa ban ơn cho dân Y-sơ-ra-ên.
30. Hô-báp đáp rằng: Tôi không đi đâu, nhưng tôi sẽ đi về xứ sở tôi, là nơi bà con tôi.
31. Môi-se lại nói rằng: Tôi xin anh chớ bỏ chúng tôi, v́ anh biết nơi nào trong đồng vắng chúng tôi có thế hạ trại được; anh sẽ dường như con mắt cho chúng tôi vậy.
32. Nếu anh đi cùng chúng tôi, th́ chúng tôi sẽ làm cho anh hưởng ơn lành mà Đức Giê-hô-va sẽ làm cho chúng tôi.
33. Vậy, dân Y-sơ-ra-ên ra đi từ núi Đức Giê-hô-va, đi trong ba ngày đường; ḥm giao ước của Đức Giê-hô-va đi trước trong lúc ba ngày đường nầy, đặng t́m cho dân một nơi an nghỉ.
34. Trong lúc ban ngày, khi dân Y-sơ-ra-ên dời trại quân đi, th́ trụ mây của Đức Giê-hô-va ở trên họ.
35. Khi ḥm giao ước đi, th́ Môi-se nói rằng: Hỡi Đức Giê-hô-va, xin chổi dậy, để kẻ thù nghịch Ngài bị tản lạc, và kẻ nào ghét Ngài chạy trốn trước mặt Ngài!
36. Khi người ta để ḥm giao ước xuống, th́ Môi-se nói rằng: Hỡi Đức Giê-hô-va, xin trở lại cùng muôn vàn của Y-sơ-ra-ên!

Dân-số Kư 11    chọn đoạn khác

1. Vả, dân sự bèn lằm bằm, và điều đó chẳng đẹp tại Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va nghe, cơn thạnh nộ Ngài nổi lên, lửa của Đức Giê-hô-va cháy phừng phừng giữa dân sự và thiêu hóa đầu cùng trại quân.
2. Dân sự bèn kêu la cùng Môi-se; Môi-se cầu xin Đức Giê-hô-va, th́ lửa ngừng lại.
3. Người ta đặt tên chỗ nầy là Tha-bê-ra, v́ lửa của Đức Giê-hô-va đă cháy giữa dân sự.
4. Bọn dân tạp ở trong dân Y-sơ-ra-ên sanh ḷng tham muốn, đến nỗi dân Y-sơ-ra-ên lại khóc nữa mà rằng: Ai sẽ cho chúng tôi ăn thịt?
5. Chúng tôi nhớ những cá chúng tôi ăn nhưng không tại xứ Ê-díp-tô, những dưa chuột, dưa gang, củ kiệu, hành, và tỏi.
6. Bây giờ, linh hồn chúng tôi bị khô héo, không có chi hết! Mắt chỉ thấy ma-na mà thôi.
7. Vả, Ma-na h́nh như hột ng̣, sắc như trân châu.
8. Dân sự đi tản ra và hốt lấy, rồi nghiền bằng cối xay, hay là giă bằng cối giă, nấu trong một cái nồi và làm bánh; nếm giống như bánh nhỏ có pha dầu.
9. Khi ban tối mù sương xuống trên trại quân, th́ ma-na cũng xuống nữa.
10. Vậy, Môi-se nghe dân sự khóc, mỗi người ở trong nhà ḿnh, tại nơi cửa trại ḿnh: cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi lên phừng phừng,
11. và Môi-se lấy làm buồn bực về điều đó. Môi-se bèn thưa cùng Đức Giê-hô-va rằng: Sao Ngài làm cho tôi tớ Ngài buồn? Sao tôi chẳng được ơn trước mặt Ngài, và sao Ngài lại chất gánh nặng của hết thảy dân sự nầy trên ḿnh tôi?
12. Tôi há có thọ thai dân nầy sao? há có sanh đẻ nó sao? mà Ngài lại phán biểu tôi rằng: Hăy ẵm dân nầy trong ḷng người, như người cha nuôi bồng đứa trẻ bú, cho đến xứ mà Ngài có thề hứa ban cho tổ phụ của chúng nó.
13. Tôi sẽ có thịt ở đâu đặng phát cho cả dân sự nầy? bởi v́ họ khóc về tôi mà rằng: Hăy cho chúng tôi ăn thịt.
14. Tôi không thế một ḿnh gánh hết dân sự nầy, v́ thật là rất nặng nề cho tôi quá!
15. Nếu Chúa đăi tôi như vậy, và nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin thà giết tôi đi, để tôi không thấy sự khốn nạn tôi!
16. Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hăy nhóm hiệp cho ta bảy mươi người trong bực trưởng lăo Y-sơ-ra-ên, tức là những kẻ ngươi biết là trưởng lăo và cai quản dân sự; hăy dẫn các người ấy đến hội mạc, đứng tại đó với ngươi.
17. Đoạn, ta sẽ ngự xuống, nói chuyện tại đó với ngươi; ta sẽ lấy Thần cảm ngươi mà ban cho những người đó, để họ chịu gánh nặng về dân sự với ngươi, và ngươi không phải gánh một ḿnh.
18. Ngươi phải truyền cho dân sự rằng: Ngày mai phải dọn ḿnh ra thánh, th́ các ngươi sẽ ăn thịt. V́ chưng lỗ tai Đức Giê-hô-va có nghe các ngươi khóc mà rằng: Ai sẽ cho chúng tôi ăn thịt, v́ chúng tôi lấy làm sung sướng tại xứ Ê-díp-tô, bởi cớ đó, Đức Giê-hô-va sẽ ban thịt cho các ngươi, th́ các ngươi sẽ ăn.
19. Chẳng phải các ngươi sẽ ăn thịt một ngày, hai ngày, năm ngày, mười ngày hay là hai mươi ngày đâu;
20. nhưng cho đến một tháng trọn, cho đến chừng nào thịt tràn ra lỗ mũi, và các ngươi ngán đi, v́ các ngươi đă bỏ Đức Giê-hô-va ở giữa ḿnh, và khóc trước mặt Ngài, mà rằng: V́ sao chúng tôi đă ra khỏi xứ Ê-díp-tô?
21. Môi-se thưa rằng: Trong dân sự tôi đương ở đây, có sáu trăm ngàn người đàn ông, mà Ngài có phán rằng: Ta sẽ phát thịt cho dân nầy ăn trong một tháng trọn.
22. Người ta há sẽ giết chiên và ḅ đến đỗi được đủ cho họ sao? hay là người ta há sẽ gom hết thảy cá dưới biển đến nỗi được đủ cho họ sao?
23. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Tay của Đức Giê-hô-va đă vắn lại sao? Ngươi sẽ xem thử điều ta đă phán cùng ngươi có xảy đến hay chăng.
24. Môi-se bèn đi ra, thuật lại các lời Đức Giê-hô-va cho dân sự, rồi nhóm hiệp bảy mươi người trong bực trưởng lăo của dân sự, đặt để xung quanh Trại.
25. Đức Giê-hô-va bèn ngự xuống trong mây, phán cùng Môi-se; Ngài lấy Thần cảm người và ban cho bảy mươi người trưởng lăo. Vừa khi Thần ở trên bảy mươi người trưởng lăo, bèn được cảm động nói tiên tri, nhưng không cứ nói măi.
26. Có hai người ở lại trong trại quân; một người tên là Ên-đát, một người tên là Mê-đát, được Thần cảm động, nói tiên tri tại trại quân. Hai người nầy thuộc về bọn được biên tên, nhưng không có đến hội mạc.
27. Một đứa trai trẻ chạy thuật lại cùng Môi-se rằng: Ên-đát và Mê-đát nói tiên tri trong trại quân.
28. Giô-suê, con trai của Nun, là người hầu việc Môi-se, đáp lại mà rằng: Hỡi Môi-se, chúa tôi, hăy cấm chúng nó!
29. Môi-se đáp rằng: Ngươi ganh cho ta chăng? Ôi! chớ chi cả dân sự của Đức Giê-hô-va đều là người tiên tri, và chớ chi Đức Giê-hô-va ban Thần của Ngài cho họ!
30. Môi-se và mấy người trưởng lăo đều lui vào trại quân.
31. Đức Giê-hô-va bèn khiến một trận gió nổi từ biển, dẫn những chim cút đến vải trên trại quân và xung quanh, bên nầy trải ra dài chừng một ngày đường đi, và bên kia trải ra dài chừng một ngày đường đi, khỏi mặt đất chừng hai thước bề cao.
32. Dân sự đứng dậy lượm những cút trong ngày đó, đêm đó và trọn ngày sau; ai lượm ít hơn hết có mười ô-me; người ta căng nó khắp chung quanh trại quân.
33. Thịt vẫn c̣n nơi răng, chưa nhai, th́ cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi lên cùng dân sự, hành dân sự một tai vạ rất nặng.
34. Người ta đặt tên chỗ đó là Kíp-rốt Ha-tha-va; v́ tại đó người ta chôn dân sự sanh ḷng tham muốn.
35. Từ Kíp-rốt Ha-tha-va dân sự đi đến Hát-sê-rốt, rồi ngừng lại tại đó.

Dân-số Kư 12    chọn đoạn khác

1. Mi-ri-am và A-rôn nói hành Môi-se về việc người nữ Ê-thi-ô-bi mà người đă lấy; v́ người có lấy một người nữ Ê-thi-ô-bi làm vợ.
2. Hai người nói rằng: Đức Giê-hô-va chỉ dùng một ḿnh Môi-se mà thôi sao? Ngài há không dùng chúng ta mà phán nữa sao? Đức Giê-hô-va nghe điều đó.
3. Vả, Môi-se là người rất khiêm ḥa hơn mọi người trên thế gian.
4. Th́nh ĺnh Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, A-rôn và Mi-ri-am rằng: Cả ba hăy ra đến hội mạc. Cả ba đều đi.
5. Đức Giê-hô-va ngự xuống trong trụ mây đứng tại cửa hội mạc, rồi gọi A-rôn và Môi-se; hai người đều đến.
6. Ngài phán cùng hai người rằng: Hăy nghe rơ lời ta. Nếu trong các ngươi có một tiên tri nào, ta là Đức Giê-hô-va sẽ hiện ra cùng người trong sự hiện thấy, và nói với người trong cơn chiêm bao.
7. Tôi tớ Môi-se ta không có như vậy, người thật trung tín trong cả nhà ta.
8. Ta nói chuyện cùng người miệng đối miệng, một cách rơ ràng, không lời đố, và người thấy h́nh Đức Giê-hô-va. Vậy, các ngươi không sợ mà nói hành kẻ tôi tớ ta, là Môi-se sao?
9. Như vậy, cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi phừng phừng cùng hai người; Ngài ngự đi.
10. Khi trụ mây rút khỏi trên đền tạm, th́ ḱa, Mi-ri-am đă bị phung trắng như tuyết. A-rôn xây lại phía Mi-ri-am, thấy người đă có bịnh phung.
11. A-rôn bèn nói cùng Môi-se rằng: Ôi, lạy chúa tôi, xin chớ để trên chúng tôi tội mà chúng tôi đă dại phạm và đă mắc lấy.
12. Xin chớ để nàng như một đứa con sảo thịt đă hư hết phân nửa khi lọt ra khỏi ḷng mẹ.
13. Môi-se bèn kêu van cùng Đức Giê-hô-va rằng: Ôi, Đức Chúa Trời! Tôi cầu khẩn Ngài chữa cho nàng.
14. Đức Giê-hô-va đáp cùng Môi-se rằng: Nếu cha nàng nhổ trên mặt nàng, nàng há không mang hổ trong bảy ngày sao? Nàng phải cầm riêng ngoài trại quân trong bảy ngày, rồi sau sẽ được nhận vào lại.
15. Ấy vậy, Mi-ri-am bị cầm riêng ngoài trại quân trong bảy ngày, dân sự không ra đi cho đến chừng nào Mi-ri-am được nhận vào lại.
16. Sau việc đó, dân sự ra đi từ Hát-sê-rốt, và hạ trại trong đồng vắng Pha-ran.

Dân-số Kư 13    chọn đoạn khác

1. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
2. Hăy sai những người đi do thám xứ Ca-na-an, là xứ ta ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Về mỗi một chi phái, các ngươi phải sai một người đi; mỗi người làm quan trưởng của chi phái ḿnh.
3. Tùy theo mạng Đức Giê-hô-va, Môi-se từ đồng vắng Pha-ran sai các người nầy đi; hết thảy là quan trưởng của dân Y-sơ-ra-ên.
4. Đây là tên của các người ấy: Về chi phái Ru-bên, Sam-mua, con trai Xa-cu;
5. về chi phái Si-mê-ôn, Sa-phát, con trai của Hô-ri;
6. về chi phái Giu-đa, Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê;
7. về chi phái Y-sa-ca, Di-ganh, con trai của Giô-sép;
8. về chi phái Ép-ra-im, Hô-sê, con trai của Nun;
9. về chi phái Bên-gia-min, Phan-thi, con trai của Ra-phu;
10. về chi phái Sa-bu-lôn, Gát-đi-ên, con trai của Sô-đi;
11. về chi phái Giô-sép, nghĩa là về chi phái Ma-na-se, Ga-đi, con trai của Su-si;
12. về chi phái Đan, A-mi-ên, con trai của Ghê-ma-li;
13. về chi phái A-se, Sê-thu, con trai của Mi-ca-ên;
14. về chi phái Nép-ta-li, Nách-bi, con trai của Vấp-si;
15. về chi phái Gát, Gu-ên, con trai của Ma-ki.
16. Đó là tên những người mà Môi-se sai đi do thám xứ. Vả, Môi-se đặt tên cho Hô-sê, con trai Nun, là Giô-suê.
17. Vậy, Môi-se sai đi do thám xứ Ca-na-an, và dặn rằng: Từ đây hăy lên Nam phương, và vào miền núi;
18. rồi sẽ thấy xứ ra sao, dân sự ở đó nếu mạnh yếu thể nào, nếu số ít hay nhiều;
19. xứ dân đó ở thế nào, nếu tốt hay xấu; các thành dân đó ở làm sao, hoặc chỉ những nơi đóng trại hay là đồn lũy;
20. đất ra làm sao, nếu màu mỡ hay là xấu, có cây cối hay là không. Hăy can đảm và hái lấy trái cây xứ đó. Bấy giờ nhằm mùa nho sớm.
21. Vậy các người đó đi lên do thám xứ, từ đồng vắng Xin cho đến Rê-hốp, đi về Ha-mát.
22. Họ bắt từ hướng Nam đi lên, đến thành Hếp-rôn, là nơi có A-hi-man, Sê-sai và Tanh-mai, con cái của A-nác. Vả, thành Hếp-rôn đă xây từ bảy năm trước Xô-an, là thành của xứ Ê-díp-tô.
23. Các người đến khe Ếch-côn, cắt tại đó một nhành nho có một chùm nho; và hai người khiêng lấy bằng cây sào, luôn những trái lựu và trái vả.
24. Người ta gọi chỗ nầy là khe Ếch-côn, v́ có chùm nho mà dân Y-sơ-ra-ên đă cắt tại đó.
25. Các người đi do thám xứ trong bốn mươi ngày trở về.
26. Tới rồi, bèn đến cùng Môi-se, A-rôn và cả hội dân Y-sơ-ra-ên, trong đồng vắng Pha-ran, tại Ca-đe, mà thuật lại mọi sự cho hai người và cả hội chúng nghe, cùng đưa cho xem hoa quả của xứ.
27. Vậy, các người ấy thuật cho Môi-se rằng: Chúng tôi đi đến xứ mà người đă sai chúng tôi đi; ấy quả thật một xứ đượm sữa và mật, nầy hoa quả xứ đó đây.
28. Mà, dân sự ở trong xứ nầy vốn mạnh dạn, thành tŕ thật vững vàng và rất lớn; chúng tôi cũng có thấy con cái của A-nác ở đó.
29. Dân A-ma-léc ở miền Nam, dân Hê-tít, dân Giê-bu-sít và dân A-mô-rít ở trong núi; dân Ca-na-an ở gần biển và dọc dài theo mé Giô-đanh.
30. Ca-lép bèn làm cho dân sự, đương lằm bằm cùng Môi-se nín lặng đi, mà nói rằng: Chúng ta hăy đi lên và chiếm xứ đi, v́ chúng ta thắng hơn được.
31. Nhưng những người đi cùng Ca-lép nói rằng: Chúng ta không đi lên cự dân nầy được, v́ chúng nó mạnh hơn chúng ta.
32. Trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, các người đó phao phản xứ ḿnh đă do thám mà rằng: Xứ mà chúng tôi đă đi khắp đặng do thám, là một xứ nuốt dân sự ḿnh; hết thảy những người chúng tôi đă thấy tại đó, đều là kẻ h́nh vóc cao lớn.
33. Chúng tôi có thấy kẻ cao lớn, tức là con cháu của A-nác, thuộc về giống giềnh giàng; chúng tôi thấy ḿnh khác nào con cào cào, và họ thấy chúng tôi cũng như vậy.

Dân-số Kư 14    chọn đoạn khác

1. Cả hội chúng bèn cất tiếng la lên, và dân sự khóc lóc trong đêm đó.
2. Hết thảy dân Y-sơ-ra-ên lằm bằm cùng Môi-se và A-rôn; cả hội chúng nói cùng hai người rằng: Chớ chi chúng tôi đă chết trong xứ Ê-díp-tô, hay là đă chết trong đồng vắng nầy!
3. V́ cớ nào Đức Giê-hô-va dẫn chúng tôi vào xứ nầy đặng bị gươm mà ngă? Vợ và con nhỏ chúng tôi sẽ bị làm một miếng mồi. Về phần chúng tôi, há chẳng khá trở về xứ Ê-díp-tô hơn sao?
4. Rồi dân sự nói với nhau rằng: Chúng ta hăy lập lên một quan trưởng, và trở về xứ Ê-díp-tô đi.
5. Môi-se và A-rôn bèn sấp ḿnh xuống trước mặt cả hội dân Y-sơ-ra-ên.
6. Giô-suê, con trai của Nun, và Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê, là hai người trong bọn đi do thám xứ, bèn xé áo quần ḿnh.
7. Hai người nói cùng cả hội dân Y-sơ-ra-ên rằng: Xứ mà chúng tôi đă đi khắp đặng do thám thật là một xứ rất tốt;
8. nếu Đức Giê-hô-va đẹp ḷng cùng chúng ta, ắt sẽ đem chúng ta vào xứ nầy mà ban cho; ấy là một xứ đượm sữa và mật.
9. Chỉ các ngươi chớ dấy loạn cùng Đức Giê-hô-va, và đừng sợ dân của xứ, v́ dân đó sẽ là đồ nuôi chúng ta, bóng che chở họ đă rút đi khỏi họ rồi, và Đức Giê-hô-va ở cùng ta. Chớ sợ chi.
10. Bấy giờ cả hội chúng nói ném đá hai người nầy, nhưng sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra trên hội mạc, trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
11. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Dân nầy khinh ta và không tin ta cho đến chừng nào, mặc dầu các phép lạ ta làm giữa chúng nó?
12. Ta sẽ giáng cho dân sự nầy dịch lệ và tiêu diệt phần cơ nghiệp của nó đi; nhưng ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn hơn và mạnh hơn nó.
13. Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va rằng: Dân Ê-díp-tô có hay rằng Chúa cậy quyền năng Chúa đem dân nầy ra khỏi họ;
14. và có thuật điều đó cho dân xứ nầy. Ôi Đức Giê-hô-va! người ta biết rằng Chúa ngự giữa dân nầy, Chúa hiện ra cho mắt chúng thấy, trụ mây Chúa ở trên dân nầy, và Chúa đi trước, ban ngày trong một trụ mây, ban đêm trong một trụ lửa.
15. Nếu Chúa giết hết dân nầy như thể giết một người, th́ các nước đă nghe nói về Chúa sẽ nói rằng:
16. Đức Giê-hô-va không thể dẫn dân nầy vào xứ mà Ngài đă thề ban cho; bởi cớ đó, Ngài giết chết chúng nó trong đồng vắng.
17. Vả, bây giờ, tôi xin quyền năng của Chúa hiện ra cách oai nghiêm như Chúa đă nói rằng:
18. Đức Giê-hô-va vốn chậm nóng giận và đầy ơn; hay xá điều gian ác và tội lỗi; nhưng không kể kẻ có tội là vô tội, và nhơn tội tổ phụ phạt con cháu trải ba bốn đời.
19. Tôi xin Chúa tha tội gian ác của dân nầy tùy theo ơn lớn của Chúa, như Chúa đă tha từ xứ Ê-díp-tô đến đây.
20. Đức Giê-hô-va đáp rằng: Ta đă tha như lời ngươi xin.
21. Nhưng ta chỉ sự hằng sống ta mà quả quyết rằng, sự vinh quang của Đức Giê-hô-va sẽ đầy dẫy khắp trái đất!
22. Trong mọi người đă thấy sự vinh quang ta, phép lạ ta đă làm tại xứ Ê-díp-tô và nơi đồng vắng, là các ngươi đă thử ta mười lần và đă không nghe lời ta,
23. th́ chẳng một ai sẽ thấy xứ mà ta thề hứa cho tổ phụ chúng nó. Chẳng ai mà đă khinh ta sẽ thấy xứ đó đâu!
24. Nhưng v́ kẻ tôi tớ Ca-lép ta không đồng ḷng cùng chúng nó, theo ta một cách trung tín, th́ ta sẽ đem ngươi vào xứ mà người đă có đi, và ḍng dơi ngươi sẽ được xứ làm sản nghiệp.
25. Dân A-ma-léc và dân Ca-na-an ở trong trũng; ngày mai các ngươi hăy trở lui lại sau, đi đến đồng vắng về hướng Biển đỏ.
26. Đức Giê-hô-va cũng phán cùng Môi-se và A-rôn, mà rằng:
27. Ta sẽ chịu hội chúng hung dữ nầy hay lằm bằm cùng ta cho đến chừng nào? Ta đă nghe lời lằm bằm của dân Y-sơ-ra-ên oán trách ta.
28. Hăy nói với dân chúng: Đức Giê-hô-va nói rằng: Ta chỉ sự hằng-sống ta mà thề, ta sẽ đăi các ngươi tùy theo lời ta đă nghe các ngươi nói;
29. những thây các ngươi sẽ ngă nằm trong đồng vắng nầy. Các ngươi mà người ta đă tu bộ, hết thảy bao nhiêu cũng vậy, từ hai mươi tuổi sắp lên, là những kẻ đă lằm bằm cùng ta,
30. th́ chẳng hề được vào xứ mà ta đă thề cho các ngươi ở, ngoại trừ Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê, và Giô-suê, con trai của Nun.
31. Nhưng ta sẽ đem vào xứ những con trẻ của các ngươi mà các ngươi có nói rằng: Chúng nó sẽ bị làm một miếng mồi; rồi chúng nó sẽ biết xứ các ngươi đă chê bai.
32. C̣n những thây các ngươi sẽ ngă nằm trong đồng vắng nầy.
33. Con cái các ngươi sẽ chăn chiên nơi đồng vắng trong bốn mươi năm, và sẽ mang h́nh phạt v́ tội thông dâm của các ngươi, cho đến chừng nào thây của các ngươi đă ngă rạp hết trong đồng vắng.
34. Các ngươi đi do thám xứ bao nhiêu ngày, nghĩa là bốn mươi ngày, th́ các ngươi cũng sẽ mang h́nh phạt v́ tội gian ác ḿnh bấy nhiêu năm, nghĩa là bốn mươi năm, một năm đền cho một ngày; bấy giờ các ngươi sẽ biết ta đă xây khỏi các ngươi.
35. Ta, Đức Giê-hô-va, đă phán: Ta sẽ làm điều nầy cho cả hội chúng hung dữ nầy đă hiệp lại nghịch cùng ta; chúng nó sẽ bị hao ṃn và chết tại trong đồng vắng nầy.
36. Những người mà Môi-se đă sai đi do thám xứ, khi trở về có xui cho cả hội chúng lằm bằm cùng Môi-se,
37. và có phao phản xứ, những người nầy đều bị một tai vạ hành chết trước mặt Đức Giê-hô-va.
38. Nhưng trong bọn người đi do thám xứ, chỉ có Giô-suê, con trai của Nun, và Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê, c̣n sống được.
39. Môi-se thuật lại những lời nầy cho cả dân Y-sơ-ra-ên; rồi có một sự thảm sầu rất lớn trong dân sự.
40. Đoạn, dân sự dậy sớm đi lên chót núi mà nói rằng: Chúng tôi đây sẽ đi lên tới chỗ Đức Giê-hô-va đă phán-hứa, v́ chúng tôi có phạm tội.
41. Song Môi-se nói rằng: Sao các ngươi trái mạng Đức Giê-hô-va? Sự đó sẽ chẳng may mắn đâu.
42. Chớ đi lên đó, e các ngươi bị quân nghịch đánh bại chăng; v́ Đức Giê-hô-va không c̣n ở giữa các ngươi nữa.
43. Ḱa, dân A-ma-léc và dân Ca-na-an ở đằng trước các ngươi, các ngươi sẽ bị gươm ngă rạp, bởi v́ đă bội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va sẽ không ở cùng các ngươi.
44. Nhưng dân sự cố ư đi lên chót núi; c̣n ḥm giao ước của Đức Giê-hô-va và Môi-se không đi ra khỏi trại quân.
45. Dân A-ma-léc và dân Ca-na-an ở trong núi nầy đổ xuống, đánh bại và phân thây dân Y-sơ-ra-ên cho đến Họt-ma.

Dân-số Kư 15    chọn đoạn khác

1. Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
2. Hăy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Khi các ngươi vào xứ mà ta ban cho các ngươi đặng ở,
3. và các ngươi dâng cho Đức Giê-hô-va một của lễ dùng lửa đốt; hoặc một của lễ thiêu, hoặc một của lễ trả sự hứa nguyện, hoặc một của lễ lạc ư, hay là trong những lễ trọng thể, các ngươi muốn dâng cho Đức Giê-hô-va một của lễ có mùi thơm bằng ḅ hay chiên,
4. th́ ai dâng lễ vật ḿnh phải dâng cho Đức Giê-hô-va một của lễ chay bằng một phần mười ê-pha bột lọc nhồi với một phần tư hin dầu.
5. Về mỗi con chiên con, ngươi phải dâng một lễ quán bằng một phần tư hin rượu với của lễ thiêu hay là với của lễ khác.
6. Nhược bằng về một con chiên đực, th́ ngươi phải dùng một của lễ chay bằng hai phần mười ê-pha bột lọc nhồi với một phần ba hin dầu,
7. và một phần ba hin rượu làm lễ quán, mà dâng có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va.
8. Nhược bằng ngươi dâng một con ḅ tơ, hoặc làm của lễ thiêu, hoặc làm của lễ trả sự hứa nguyện hay là làm của lễ thù ân cho Đức Giê-hô-va,
9. th́ phải dâng chung với con ḅ tơ một của lễ chay bằng ba phần mười ê-pha bột lọc nhồi với nửa hin dầu,
10. và dâng nửa hin rượu làm lễ quán: ấy là một của lễ dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va.
11. Người ta cũng phải làm như vậy về mỗi con ḅ đực, mỗi con chiên đực, mỗi con chiên con, hay là mỗi con dê con.
12. Tùy theo số con sinh mà các ngươi sẽ dâng, th́ phải làm như vậy cho mỗi con.
13. Phàm người sanh ra trong xứ phải làm như vậy, khi nào dâng một của lễ dùng lửa đốt, có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va.
14. Nếu một khách ngoại bang kiều ngụ trong các ngươi hay là một người nào ở giữa các ngươi từ đời nầy sang đời kia, dùng lửa dâng một của lễ có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va, th́ phải làm y như các ngươi làm vậy.
15. Trong hội chúng chỉ đồng có một luật lệ cho các ngươi và cho khách ngoại bang kiều ngụ giữa các ngươi. Ấy sẽ là một lệ định đời đời cho ḍng dơi các ngươi trước mặt Đức Giê-hô-va; khách ngoại bang cũng đồng như các ngươi vậy.
16. Sẽ có một luật và một lệ như nhau cho các ngươi và cho khách ngoại bang kiều ngụ giữa các ngươi.
17. Đức Giê-hô-va cũng phán cùng Môi-se rằng:
18. Hăy nói cho dân Y-sơ-ra-ên rằng: Khi nào các ngươi đă vào xứ mà ta sẽ dẫn các ngươi vào,
19. và ăn bánh của xứ đó, th́ các ngươi phải lấy một lễ vật dâng giơ lên cho Đức Giê-hô-va.
20. Các ngươi phải lấy ra một cái bánh nhỏ làm lễ vật, tức là bánh đầu-tiên về bột nhồi của các ngươi; các ngươi phải dâng y một cách như dâng giơ lên lễ vật về sân đạp lúa vậy.
21. Từ đời nầy sang đời kia, các ngươi phải dâng giơ lên cho Đức Giê-hô-va một lễ vật về bột nhồi đầu tiên của các ngươi.
22. Khi các ngươi lầm lỡ phạm tội, không giữ hết thảy các điều răn nầy mà Đức Giê-hô-va đă truyền cho Môi-se,
23. nghĩa là mọi điều chi Đức Giê-hô-va đă cậy Môi-se truyền cho các ngươi, từ ngày Đức Giê-hô-va truyền những điều răn nầy cho và về ngày sau, trong những ḍng dơi sẽ đến của các ngươi,
24. nếu là tội phạm v́ lầm lỡ mà hội chúng không hay biết, th́ cả hội chúng tùy theo mạng lịnh phải dùng một con ḅ đực tơ dâng làm của lễ thiêu có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va, luôn với của lễ chay cùng lễ quán cặp theo; và một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
25. Thầy tế lễ sẽ làm lễ chuộc tội cho cả hội dân Y-sơ-ra-ên, th́ tội hội chúng sẽ được tha, v́ là một tội phạm lầm lỡ và v́ hội chúng đă đem đến trước mặt Đức Giê-hô-va lễ vật ḿnh, tức là một của lễ dùng lửa dâng cho Đức Giê-hô-va, luôn với của lễ chuộc tội đặng chữa sự lầm lỡ ḿnh.
26. Cả hội dân Y-sơ-ra-ên và khách ngoại bang kiều ngụ trong dân đó sẽ được tha tội, v́ là bởi lầm lỡ mà cả dân sự đă phạm tội.
27. Nhược bằng chỉ một người lầm lỡ phạm tội, th́ người đó phải dâng một con dê cái giáp năm làm của lễ chuộc tội;
28. thầy tế lễ sẽ làm lễ chuộc tội cho người đă lầm lỡ mà phạm tội như vậy trước mặt Đức Giê-hô-va, và khi đă làm lễ chuộc tội cho người, th́ người sẽ được tha.
29. Khi lầm lỡ mà phạm tội, th́ sẽ có đồng một luật lệ cho các ngươi, hoặc là sanh giữa dân Y-sơ-ra-ên hay là khách kiều ngụ trong dân đó.
30. Nhưng ai cố ư phạm tội, hoặc người sanh trong xứ, hay là khách ngoại bang, th́ ai đó khinh bỉ Đức Giê-hô-va; người sẽ bị truất khỏi dân sự ḿnh,
31. v́ người đă khinh bỉ lời Đức Giê-hô-va và trái mạng của Ngài: người hẳn sẽ bị truất diệt, tội gian ác người đổ lại trên ḿnh người.
32. Vả, dân Y-sơ-ra-ên đương ở tại đồng vắng, gặp một người lượm củi trong ngày sa-bát;
33. những kẻ gặp người đương lượm củi dẫn người đến Môi-se, A-rôn, và cả hội chúng.
34. Họ bắt người giam tù, v́ điều phải làm cho người chưa nhất định.
35. Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Người nầy phải phạt xử tử, cả hội chúng hăy ném đá người ngoài trại quân.
36. Vậy, cả hội chúng đem người ra ngoài trại quân mà ném đá, và người chết, y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se.
37. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:
38. Hăy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên và biểu họ từ đời nầy sang đời kia hăy làm một cái tua nơi các chéo áo ḿnh, và trên mỗi tua kết một sợi dây màu điều.
39. Các ngươi phải mang cái tua nầy; khi thấy nó các ngươi sẽ nhớ lại hết thảy điều răn của Đức Giê-hô-va mà làm theo, không theo tư dục của ḷng và mắt ḿnh, là điều làm cho các ngươi sa vào sự thông dâm.
40. Như vậy, các ngươi sẽ nhớ lại mà làm theo những điều răn của ta, và làm thánh cho Đức Chúa Trời của các ngươi.
41. Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi, Đấng đă đem các ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô đặng làm Đức Chúa Trời của các ngươi. Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi.

Dân-số Kư 16    chọn đoạn khác

1. Vả, Cô-rê, con trai của Dít-sê-ha, cháu của Kê-hát, chít của Lê-vi, giục theo ḿnh Đa-than và A-bi-ram, con trai của Ê-li-áp, cùng với Ôn, con trai của Phê-lết, cháu Ru-bên.
2. Các người nầy với hai trăm năm mươi người trong dân Y-sơ-ra-ên, vốn là quan tướng của hội, nghị viên của hội đồng, có danh giá, đều hiệp nhau dấy nghịch cùng Môi-se và A-rôn,
3. mà rằng: Thôi đủ rồi! v́ cả hội chúng đều là thánh, và Đức Giê-hô-va ngự ở trong; vậy sao các ngươi tự cao trên hội chúng của Đức Giê-hô-va?
4. Môi-se nghe điều đó, bèn sấp mặt xuống đất,
5. nói cùng Cô-rê và hết thảy kẻ hiệp với người mà rằng: Sáng mai, Đức Giê-hô-va sẽ tỏ cho biết ai thuộc về Ngài và ai là thánh; Ngài sẽ khiến người đó lại gần Ngài, tức khiến người nào mà Ngài đă chọn lấy đến gần Ngài.
6. Hỡi Cô-rê, hăy làm điều nầy: Ngươi và hết thảy kẻ hiệp với ngươi hăy cầm lư hương;
7. sáng mai hăy để lửa ở trong và bỏ hương ở trên trước mặt Đức Giê-hô-va. Người nào mà Đức Giê-hô-va sẽ chọn, ấy là người thánh. Hỡi con cháu Lê-vi, thôi đủ rồi!
8. Môi-se nói cùng Cô-rê rằng: Hỡi con cháu Lê-vi, bây giờ hăy nghe.
9. Về phần các ngươi, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đă biệt các ngươi riêng ra với hội chúng Y-sơ-ra-ên, và khiến các ngươi đến gần Ngài đặng làm công việc trong đền tạm của Đức Giê-hô-va, đặng chực hầu việc trước mặt hội chúng, việc ấy há là nhỏ mọn sao?
10. Ngài biểu ngươi, hết thảy anh em ngươi với con cháu Lê-vi đến gần Ngài, các ngươi lại c̣n kiếm chức tế lễ nữa sao?
11. V́ vậy, ngươi và toàn bè đảng của ngươi đều hiệp lại nghịch cùng Đức Giê-hô-va! V́ A-rôn là ai mà các ngươi lằm bằm cùng người?
12. Môi-se sai đ̣i Đa-than và A-bi-ram, con trai Ê-li-áp; nhưng hai người đáp rằng: Chúng tôi không đi lên đâu.
13. Há là điều nhỏ mọn mà ngươi đă đem chúng ta ra khỏi xứ đượm sữa và mật, đặng làm cho chúng ta chết trong đồng vắng, mà ngươi lại c̣n muốn lấn lướt trên chúng ta nữa sao?
14. Quả thật, ngươi không có dẫn chúng ta đến trong một xứ đượm sữa và mật đâu, ngươi không cho chúng ta đồng ruộng hay là vườn nho làm sản nghiệp đâu! Ngươi toan khoét mắt của dân nầy ư? Chúng ta không đi lên đâu.
15. Môi-se nổi giận lắm, thưa cùng Đức Giê-hô-va rằng: Xin đừng kể đến của lễ chay chúng nó nữa; tôi không có bắt nơi chúng nó một con lừa nào, và tôi cũng không có làm hại một ai trong bọn chúng nó.
16. Đoạn, Môi-se nói cùng Cô-rê rằng: Ngày mai ngươi và toàn bè đảng ngươi với A-rôn hăy ra mắt Đức Giê-hô-va.
17. Mỗi người hăy lấy lư hương ḿnh bỏ hương ở trong, rồi mỗi người dâng lư hương ḿnh trước mặt Đức Giê-hô-va, tức là hai trăm năm mươi cái lư hương. Ngươi và A-rôn, mỗi người cũng phải có lư hương ḿnh.
18. Vậy, mỗi người lấy lư hương ḿnh để lửa vào, bỏ hương trên, rồi đứng tại cửa hội mạc luôn với Môi-se và A-rôn.
19. Cô-rê hiệp cả hội chúng nghịch lại Môi-se và A-rôn tại cửa hội mạc; sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra cùng cả hội chúng.
20. Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn rằng:
21. Hăy tách khỏi giữa hội chúng nầy, th́ ta sẽ tiêu diệt nó trong một lát.
22. Hai người bèn sấp mặt xuống mà rằng: Ôi Đức Chúa Trời, là Chúa của thần linh mọi xác thịt! chỉ có một người phạm tội mà Chúa lại nổi giận cùng cả hội chúng sao?
23. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
24. Hăy nói cùng hội chúng mà rằng: Hăy dan ra khỏi chung quanh chỗ ở của Cô-rê, Đa-than, và A-bi-ram.
25. Môi-se đứng dậy, đi lại phía Đa-than và A-bi-ram; các trưởng lăo Y-sơ-ra-ên đi theo người.
26. Người nói cùng hội chúng rằng: Bây giờ, hăy dan ra khỏi trại của các người hung ác nầy, và chớ đụng đến vật chi thuộc về họ, e các ngươi sẽ chết v́ những tội của họ chăng.
27. Vậy, dân sự dan ra khỏi tứ phía chỗ ở của Cô-rê, Đa-than, và A-bi-ram. Đa-than và A-bi-ram ra đứng tại cửa trại với vợ, con trai và con nít ḿnh.
28. Môi-se bèn nói rằng: Nhờ điều nầy các ngươi sẽ biết rằng Đức Giê-hô-va có sai ta đặng làm các điều nầy, và ta chẳng làm sự chi tự ta.
29. Nếu các kẻ đó chết như mọi người khác chết, nếu họ đồng chịu số phận chung như mọi người, th́ Đức Giê-hô-va không có sai ta.
30. Nhưng nếu Đức Giê-hô-va làm một sự thật mới, nếu đất hả miệng ra nuốt họ và mọi món chi thuộc về họ, nếu họ c̣n đương sống mà xuống âm phủ, th́ các ngươi sẽ biết rằng những người nầy có khinh bỉ Đức Giê-hô-va.
31. Vừa khi Môi-se nói dứt các lời nầy, đất ngay dưới chân họ bèn nứt ra;
32. hả miệng nuốt họ, gia quyến và hết thảy phe Cô-rê cùng tài sản của chúng nó.
33. Các người đó c̣n đương sống và mọi vật chi thuộc về họ đều xuống âm phủ; đất lấp lại và chúng nó bị diệt khỏi hội chúng.
34. Cả Y-sơ-ra-ên ở xung quanh nghe tiếng họ la, đều chạy trốn, v́ nói rằng: Chúng ta hăy coi chừng, kẻo đất nuốt chúng ta chăng!
35. Rồi một ngọn lửa từ Đức Giê-hô-va ḷe ra thiêu hóa hai trăm năm mươi người đă dâng hương.
36. Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
37. Hăy nói với Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn, biểu lượm các lư hương ra khỏi chỗ lửa cháy, và đổ lửa của các lư hương nơi xa, v́ lư hương đă nên thánh.
38. C̣n những lư hương của các người đă phạm tội cùng sanh mạng ḿnh, người ta phải lấy làm thành những tấm dát mỏng để bọc bàn thờ. Bởi các lư hương đă dâng trước mặt Đức Giê-hô-va đă thành thánh; những tấm dát đó sẽ dùng làm một dấu cho dân Y-sơ-ra-ên.
39. Vậy, Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, lấy những lư hương bằng đồng của các người bị thiêu đă dâng lên, và người ta làm thành những tấm dát ṃng để bọc bàn thờ.
40. Ấy là một kỷ niệm cho dân Y-sơ-ra-ên, để người nào ngoại ḍng A-rôn chớ đến gần đặng xông hương trước mặt Đức Giê-hô-va, kẻo e đồng số phận cùng Cô-rê và bè đảng người, theo lời Đức Giê-hô-va đă cậy Môi-se truyền dạy.
41. Ngày mai, cả hội dân Y-sơ-ra-ên lằm bằm cùng Môi-se và A-rôn mà rằng: Hai người đă làm chết dân của Đức Giê-hô-va.
42. Khi hội chúng đương hiệp nhau nghịch cùng Môi-se và A-rôn, th́ ngó về hướng hội mạc, xảy thấy trụ mây bao phủ hội mạc, và sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra.
43. Môi-se và A-rôn đến đứng trước hội mạc,
44. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
45. Hăy dan ra khỏi giữa hội chúng nầy, th́ ta sẽ tiêu diệt nó trong một lát. Nhưng hai người sấp mặt xuống đất,
46. rồi Môi-se nói cùng A-rôn rằng: Hăy cầm lấy lư hương để lửa từ trên bàn thờ vào, bỏ hương lên trên, mau mau đi đến hội chúng và làm lễ chuộc tội cho họ; v́ sự thạnh nộ của Đức Giê-hô-va đă nổi lên, và tai vạ đă phát khởi.
47. A-rôn bèn cầm lấy lư hương y như Môi-se đă biểu, chạy đến giữa hội chúng; ḱa, tai vạ đă phát khởi giữa dân sự. A-rôn bèn bỏ hương vào, và làm lễ chuộc tội cho dân sự.
48. Người đứng giữa kẻ chết và kẻ sống, th́ tai vạ bèn ngừng lại.
49. Có mười bốn ngàn bảy trăm người chết v́ tai vạ nầy, trừ ra những kẻ đă bị chết v́ cớ Cô-rê.
50. Đoạn, A-rôn trở về cùng Môi-se tại cửa hội mạc, rồi tai vạ ngừng lại.

Dân-số Kư 17    chọn đoạn khác

1. Kế đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
2. Hăy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên và biểu rằng: Mỗi chi phái của họ phải đem nộp cho ngươi một cây gậy; nghĩa là mười hai cây gậy bởi các quan trưởng của mỗi chi phái.
3. Ngươi phải đề tên mỗi người trên cây gậy của ḿnh, và đề tên A-rôn trên cây gậy của Lê-vi; v́ phải có một cây gậy cho mỗi trưởng tộc.
4. Ngươi phải để các gậy đó trong hội mạc, trước ḥm bảng chứng, là nơi ta gặp ngươi.
5. Hễ người nào ta chọn lấy, th́ cây gậy người đó sẽ trổ hoa; vậy ta sẽ làm cho nín đi trước mặt ta những lời lằm bằm của dân Y-sơ-ra-ên đă phát ra đối nghịch cùng các ngươi.
6. Môi-se nói cùng dân Y-sơ-ra-ên, th́ hết thảy trưởng tộc, tùy theo chi phái ḿnh, đem nộp cho người một cây gậy, tức là mười hai cây. Gậy của A-rôn ở giữa các cây gậy khác.
7. Môi-se để những gậy đó trong Trại bảng chứng trước mặt Đức Giê-hô-va.
8. Ngày mai, khi Môi-se vào Trại bảng chứng, xảy thấy cây gậy A-rôn về nhà Lê-vi đă trổ hoa: nó có nứt mụt, sanh hoa và trái hạnh-nhân chín.
9. Môi-se bèn rút các cây gậy khỏi trước mặt Đức Giê-hô-va, đem đưa cho cả dân Y-sơ-ra-ên; các người đều thấy và mỗi người lấy gậy ḿnh lại.
10. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hăy đem cây gậy của A-rôn để lại trước ḥm bảng chứng, đặng giữ làm một dấu cho con cái phản nghịch; ngươi phải làm cho nín đi những lời lằm bằm đối nghịch cùng ta, hầu cho dân chúng chẳng chết.
11. Môi-se làm như vậy, tức làm y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn ḿnh.
12. Dân Y-sơ-ra-ên nói cùng Môi-se rằng: Nầy, chúng tôi bị diệt, chúng tôi bị chết, chúng tôi chết mất hết thảy!
13. Phàm ai đến gần đền tạm của Đức Giê-hô-va đều chết. Có lẽ chúng tôi phải chết hết sao?

Dân-số Kư 18    chọn đoạn khác

1. Đức Giê-hô-va bèn phán cùng A-rôn rằng: Ngươi, các con trai ngươi, và tông tộc ngươi phải mang lấy những tội lỗi phạm trong nơi thánh; c̣n ngươi và các con trai ngươi phải mang lấy những tội lỗi phạm trong chức tế lễ.
2. Cũng hăy biểu đến gần ngươi các anh em ḿnh, là chi phái Lê-vi, tức tông tộc ngươi, đặng các người đó hiệp với ngươi và hầu việc ngươi; nhưng ngươi và các con trai ngươi phải ở trước Trại bảng chứng.
3. Các người đó sẽ ǵn giữ điều chi ngươi truyền dạy, và điều nào thuộc về cả Trại; chỉ không nên lại gần những vật thánh, cũng đừng lại gần bàn thờ, e khi chúng nó phải chết, và các ngươi cũng chết luôn chăng.
4. Vậy, các người đó sẽ hiệp với ngươi coi sóc điều chi thuộc về hội mạc, và giữ công việc của Trại; một người ngoại nào chẳng nên đến gần các ngươi.
5. Các ngươi phải coi sóc điều chi thuộc về nơi thánh và bàn thờ để đừng có sự thạnh nộ cùng dân Y-sơ-ra-ên nữa.
6. C̣n ta đây, trong dân Y-sơ-ra-ên ta đă chọn lấy anh em các ngươi, là những người Lê-vi, mà ban cho các ngươi, v́ đă dâng cho Đức Giê-hô-va rồi, đặng làm công việc của hội mạc.
7. Nhưng ngươi và các con trai ngươi phải kỹ lưỡng lo cho xong chức tế lễ, quản trị các điều chi thuộc về bàn thờ, và vật chi ở phía trong màn; các ngươi phải làm việc ḿnh tại đó. Chức tế lễ của các ngươi là một việc ta phong cho như một của ban: người ngoại nào đến gần sẽ bị xử tử.
8. Đức Giê-hô-va lại phán cùng A-rôn rằng: Nầy ta cử ngươi coi sóc các lễ vật của ta thâu lấy về mọi-vật mà dân Y-sơ-ra-ên đă biệt riêng ra thánh; cứ một lệ định đời đời ta ban những lễ vật nầy cho ngươi và cho các con trai ngươi như một phần riêng mà phép xức dầu truyền cho.
9. Trong các vật rất thánh không có thiêu hóa mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho ta, nầy là phần sẽ thuộc về ngươi: Hết thảy lễ vật của họ, nào của lễ chay, nào của lễ chuộc tội, nào của lễ chuộc sự mắc lỗi; những vật rất thánh nầy đều sẽ thuộc về ngươi và các con trai ngươi.
10. Ngươi phải ăn nó trong nơi rất thánh; mọi người nam phải ăn lấy, ấy sẽ làm một vật thánh cho ngươi.
11. Vật nầy cũng sẽ thuộc về ngươi: Phàm lễ vật nào mà dân Y-sơ-ra-ên dâng giơ lên và đưa qua đưa lại, th́ ta cứ một lệ định đời đời mà ban cho ngươi và các con trai con gái ngươi. Ai trong nhà ngươi tinh sạch sẽ được ăn các món đó.
12. Ta cũng đă ban cho ngươi những vật đầu mùa mà dân Y-sơ-ra-ên sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va, hết thảy phần dầu, rượu ngọt và lúa miến nhất hạng.
13. Mọi hoa quả đầu mùa của đất sanh sản mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Đức Giê-hô-va, đều sẽ thuộc về ngươi; ai trong nhà ngươi tinh sạch sẽ được ăn lấy.
14. Phàm vật chi mà dân Y-sơ-ra-ên phú dâng sẽ thuộc về ngươi.
15. Mọi con đầu ḷng của các xác thịt, hoặc ngươi, hoặc vật mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Đức Giê-hô-va, đều sẽ thuộc về ngươi; nhưng ngươi phải chuộc lại con đầu ḷng của loài người, và cũng phải chuộc lại con đầu ḷng của thú vật ô uế.
16. Về sự chuộc lại, ngươi phải chuộc lại những con từ một tháng trở đi, theo giá định của ngươi, là năm siếc-lơ bạc, theo siếc-lơ của nơi thánh là hai mươi ghê-ra.
17. Nhưng ngươi chớ chuộc lại con đầu ḷng của ḅ cái, hoặc con đầu ḷng của chiên cái hay là con đầu ḷng của dê cái; ấy là những vật thánh. Ngươi phải rưới huyết nó trên bàn thờ, và xông mỡ nó làm của lễ dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va.
18. Thịt nó sẽ thuộc về ngươi như cái o dâng đưa qua đưa lại và cái gị hữu.
19. Ta cứ lệ định đời đời ban cho ngươi, các con trai và các con gái ngươi, hết thảy lễ vật thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng giơ lên cho Đức Giê-hô-va: ấy là một giao ước bằng muối đời đời, không bỏ được, trước mặt Đức Giê-hô-va cho ngươi và cho ḍng dơi ngươi.
20. Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng A-rôn rằng: Ngươi sẽ không có cơ nghiệp trong xứ dân Y-sơ-ra-ên; và chẳng sẽ có phần cho ngươi giữa dân đó; ta là phần của ngươi, và là cơ nghiệp của ngươi ở giữa dân Y-sơ-ra-ên.
21. C̣n về con cháu Lê-vi, nầy ta đă ban cho làm cơ nghiệp, mọi thuế một phần mười của Y-sơ-ra-ên làm lương về công việc ḿnh làm trong hội mạc.
22. Dân Y-sơ-ra-ên chớ lại gần hội mạc nữa, e phải mắc tội và chết chăng.
23. Nhưng ấy là người Lê-vi sẽ làm công việc của hội mạc; bằng có phạm tội, th́ tự mang lấy; chúng nó sẽ không có phần cơ nghiệp giữa dân Y-sơ-ra-ên; ấy sẽ là một lệ định đời đời trải qua các thế đại.
24. V́ ta đă ban cho người Lê-vi làm cơ nghiệp, những thuế một phần mười của dân Y-sơ-ra-ên dâng giơ lên cho Đức Giê-hô-va. Bởi cớ đó, ta đă phán về họ rằng: Họ sẽ không có cơ nghiệp giữa dân Y-sơ-ra-ên.
25. Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
26. Ngươi cũng phải truyền cho người Lê-vi rằng: Khi nào các ngươi đă lănh của dân Y-sơ-ra-ên thuế một phần mười mà ta đă ban về phần dân đó đặng làm cơ nghiệp của các ngươi, th́ hăy lấy một phần mười của vật thuế một phần mười, làm của lễ dâng giơ lên cho Đức Giê-hô-va.
27. Lễ-vật dâng giơ lên của các ngươi sẽ kể như lúa ḿ lấy nơi sân đạp lúa, và như sự đầy dẫy của hầm rượu.
28. Thế th́, trong những thuế một phần mười mà các ngươi lănh nơi dân Y-sơ-ra-ên, th́ cũng phải lấy ra một phần mười làm lễ vật dâng giơ lên cho Đức Giê-hô-va, và giao lễ vật của Đức Giê-hô-va đó cho A-rôn, thầy tế lễ.
29. Trong những lễ vật lănh được, các ngươi phải lấy ra phần tốt nhất, biệt riêng ra thánh mà dâng giơ lên cho Đức Giê-hô-va.
30. Ngươi phải nói cùng người Lê-vi rằng: Khi nào các ngươi đă dâng giơ lên phần tốt nhất của thuế một phần mười, th́ sẽ kể cho người Lê-vi như huê lợi của sân đạp lúa, và như huê lợi của hầm rượu vậy.
31. Các ngươi và gia quyến các ngươi phải ăn nó trong nơi nào cũng được, v́ là công giá ḿnh về việc các ngươi làm trong hội mạc.
32. Bởi cớ ấy, khi các ngươi đă dâng giơ lên phần tốt nhất, các ngươi sẽ không mắc tội, sẽ không làm ô uế những vật thánh của dân Y-sơ-ra-ên, và các ngươi không chết đâu.

Dân-số Kư 19    chọn đoạn khác

1. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se và A-rôn rằng:
2. Nầy là lệ định của luật pháp mà Đức Giê-hô-va có truyền rằng: Hăy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên và biểu dẫn đến người một con ḅ cái tơ sắc hoe, không tật không vít, và chưa mang ách.
3. Đoạn phải giao nó cho Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, dẫn ra ngoài trại quân, rồi người ta giết nó trước mặt người.
4. Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, sẽ dùng ngón tay nhúng huyết nó rảy bảy lần phía trước của hội mạc.
5. Người ta sẽ thiêu con ḅ cái tơ đó trước mắt người, là thiêu da, thịt, và huyết với phẩn nó.
6. Kế đó, thầy tế lễ sẽ lấy cây hương nam, chùm kinh giới, và màu đỏ sặm, liệng vào giữa đám lửa thiêu con ḅ cái tơ.
7. Đoạn, thầy tế lễ phải giặt áo xống và tắm ḿnh trong nước, sau rồi vào trại quân, bị ô uế đến chiều tối.
8. Kẻ nào thiêu con ḅ cái tơ phải giặt áo xống và tắm ḿnh trong nước, bị ô uế đến chiều tối.
9. Một người tinh sạch sẽ hốt tro con ḅ cái tơ đổ ngoài trại quân, trong một nơi tinh sạch; người ta phải giữ tro đó cho hội dân Y-sơ-ra-ên để dùng làm nước tẩy uế: ấy là một của lễ chuộc tội.
10. Kẻ nào hốt tro con ḅ cái tơ phải giặt áo xống ḿnh và bị ô uế đến chiều tối. Điều nầy sẽ làm một lệ định đời đời cho dân Y-sơ-ra-ên và cho khách ngoại bang kiều ngụ giữa dân đó.
11. Ai đụng đến một xác chết của người nào sẽ bị ô uế trong bảy ngày.
12. Ngày thứ ba và ngày thứ bảy, người ấy phải dùng nước nầy làm cho ḿnh được sạch, th́ sẽ được sạch; c̣n nếu ngày thứ ba và ngày thứ bảy không làm cho ḿnh được sạch, th́ người vẫn không tinh sạch.
13. Phàm người nào đụng đến xác chết của người nào và không làm cho ḿnh được sạch, th́ sẽ gây cho đền tạm của Đức Giê-hô-va bị ô uế. Người đó sẽ bị truất khỏi Y-sơ-ra-ên; v́ nước tẩy uế không có rảy trên ḿnh người, nên người vẫn ô uế; sự ô uế của người vẫn ở trên ḿnh người vậy.
14. Nầy là luật pháp khi có một người nào chết trong trại: bất kỳ ai vào trại và mọi vật chi ở trong đều sẽ bị ô uế trong bảy ngày.
15. Phàm b́nh đựng nào để trống, không có nắp đậy buộc theo, sẽ bị ô uế.
16. Ngoài đồng, ai đụng đến hoặc một người bị gươm giết, hoặc một xác chết, hoặc hài cốt loài người hay là một cái mả, th́ sẽ bị ô uế trong bảy ngày.
17. Về kẻ bị ô uế, người ta phải lấy tro của con sinh đă bị thiêu đặng chuộc tội, để trong một cái b́nh và đổ nước chảy lên trên.
18. Đoạn, một người tinh sạch sẽ lấy chùm kinh giới nhúng vào nước, rồi rảy trên trại, trên các b́nh, trên những người có tại đó, và trên người đă đụng, hoặc những hài cốt, hoặc một người bị giết, hoặc một xác chết hay là một cái mả.
19. Ngày thứ ba và ngày thứ bảy, người tinh sạch phải rảy nước đó trên người bị ô uế, và ngày thứ bảy người tinh sạch sẽ làm cho người được sạch, Người đương được sạch phải giặt áo xống ḿnh, tắm ḿnh trong nước, và đến chiếu tối mới được tinh sạch.
20. C̣n người nào sẽ bị ô uế mà không làm cho ḿnh được sạch, một người như vậy sẽ bị truất khỏi hội chúng; v́ người đă làm cho nơi thánh của Đức Giê-hô-va bị ô uế. Nước tẩy uế không có rưới trên ḿnh người: người vẫn ô uế.
21. Ấy sẽ là một lệ định đời đời cho dân sự. Người nào rảy nước tẩy uế sẽ giặt áo xống ḿnh: kẻ nào đụng đến nước tẩy uế sẽ bị ô uế đến chiều tối.
22. Phàm vật chi mà người ô uế đụng đến, đều sẽ bị lây ô uế; c̣n ai đụng đến người đó sẽ bị lây ô uế đến chiều tối.

Dân-số Kư 20    chọn đoạn khác

1. Tháng giêng, cả hội dân Y-sơ-ra-ên tới đồng vắng Xin; và dừng lại tại Ca-đe. Mi-ri-am qua đời và được chôn tại đó.
2. Vả, không có nước cho hội chúng uống; chúng bèn dấy loạn cùng Môi-se và A-rôn.
3. Dân sự căi-lộn cùng Môi-se mà rằng: Anh em chúng tôi đă chết trước mặt Đức Giê-hô-va, chớ chi chúng tôi cũng đồng chết luôn thể!
4. Sao người đem hội chúng của Đức Giê-hô-va vào đồng vắng nầy, làm cho chúng tôi và súc vật của chúng tôi phải chết?
5. Sao người khiến chúng tôi đi lên khỏi xứ Ê-díp-tô đặng dẫn đến chỗ độc nầy, là nơi người ta không gieo mạ được, và chẳng có cây vả, cây nho, cây lựu, và cũng không có nước uống?
6. Môi-se và A-rôn bèn lui khỏi mặt hội chúng, đến tại cửa hội mạc, sấp mặt xuống đất; và sự vinh quang của Đức Giê-hô-va cùng hai người.
7. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
8. Hăy cầm lấy cây gậy ngươi, rồi với A-rôn anh ngươi, hăy truyền nhóm hội chúng, và hai ngươi phải nói cùng ḥn đá trước mặt hội chúng, th́ ḥn đá sẽ chảy nước ra; ngươi sẽ khiến nước từ ḥn đá chảy ra cho hội chúng và súc vật của họ uống.
9. Vậy, Môi-se cầm lấy cây gậy ở trước mặt Đức Giê-hô-va, như Ngài đă phán dặn.
10. Môi-se và A-rôn truyền nhóm hội chúng đến trước ḥn đá mà nói rằng: Hỡi dân phản nghịch! hăy nghe, chúng ta há dễ khiến nước chảy từ ḥn đá nầy ra cho các ngươi được sao?
11. Môi-se giơ tay lên, đập ḥn đá hai lần bằng cây gậy ḿnh. Nước bèn chảy tràn ra nhiều, hội chúng uống, và súc vật họ uống nữa.
12. Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn rằng: Bởi v́ hai ngươi không có tin đến ta, đặng tôn ta nên thánh trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, v́ cớ đó, hai ngươi sẽ không đem hội chúng nầy vào xứ mà ta đă cho nó đâu.
13. Ấy đó là nước của Mê-ri-ba, tức là nơi dân Y-sơ-ra-ên căi-tră cùng Đức Giê-hô-va; Ngài tự nên thánh trước mặt dân đó.
14. Đoạn, từ Ca-đe, Môi-se sai sứ giả đi đến vua Ê-đôm đặng nói rằng: Y-sơ-ra-ên, là em vua, có nói như vầy: Vua biết các sự tai nạn đă xảy đến cho chúng tôi,
15. và tổ phụ chúng tôi đi xuống xứ Ê-díp-tô là làm sao? Chúng tôi đă ở lâu tại xứ Ê-díp-tô, nhưng dân xứ đó bạc đăi chúng tôi và tổ phụ chúng tôi.
16. Chúng tôi có kêu la cùng Đức Giê-hô-va; Ngài có nghe thấu tiếng kêu, bèn sai một thiên sứ dẫn chúng tôi ra khỏi xứ Ê-díp-tô. Nầy, chúng tôi hiện ở tại Ca-đe, là thành ở nơi đầu bờ cơi của vua.
17. Xin cho phép chúng tôi đi ngang qua xứ của vua; chúng tôi sẽ chẳng đi ngang qua đồng ruộng, sẽ chẳng đi ngang vườn nho, và chúng tôi cũng sẽ chẳng uống nước các giếng; chúng tôi sẽ đi theo đường cái của vua, không xây qua bên hữu, cũng không xây qua bên tả cho đến chừng nào đă đi ngang khỏi bờ cơi của vua.
18. Nhưng Ê-đôm đáp rằng: Ngươi chớ khá đi ngang ranh ta; bằng cượng, ta sẽ cầm gươm ra đón ngươi.
19. Dân Y-sơ-ra-ên tâu rằng: Chúng tôi đi theo đường cái; nếu chúng tôi và bầy súc vật chúng tôi uống nước của vua, th́ chúng tôi sẽ trả tiền. Xin chỉ để đi bộ ngang qua, không chi khác nữa.
20. Nhưng Ê-đôm đáp rằng: Ngươi chẳng được qua đâu! Ê-đôm bèn đem quân chúng rất đông, tay cầm binh khí, ra đón Y-sơ-ra-ên.
21. Ấy vậy, Ê-đôm không cho phép Y-sơ-ra-ên đi ngang bờ cơi ḿnh; Y-sơ-ra-ên trở đi khỏi người.
22. Cả hội dân Y-sơ-ra-ên đi từ Ca-đe đến núi Hô-rơ.
23. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn trên núi Hô-rơ, tại bờ cơi xứ Ê-đôm, mà rằng:
24. A-rôn sẽ về nơi tổ phụ ḿnh, v́ người không được vào xứ mà ta đă ban cho dân Y-sơ-ra-ên đâu; bởi v́ tại nước Mê-ri-ba, các ngươi đă bội nghịch điều răn ta.
25. Hăy bắt A-rôn và Ê-lê-a-sa, con trai người, biểu đi lên núi Hô-rơ;
26. đoạn hăy lột áo xống A-rôn mặc cho Ê-lê-a-sa, con trai người. Ấy tại đó A-rôn sẽ được tiếp về và qua đời.
27. Vậy, Môi-se làm y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn; ba người đi lên núi Hô-rơ, cả hội chúng đều thấy.
28. Môi-se lột áo xống A-rôn, mặc cho Ê-lê-a-sa, con trai người. A-rôn chết tại đó, trên chót núi; rồi Môi-se và Ê-lê-a-sa xuống.
29. Cả hội chúng thấy A-rôn đă tắt hơi rồi, bèn khóc người trong ba mươi ngày.

Dân-số Kư 21    chọn đoạn khác

1. Khi vua A-rát, người Ca-na-an, ở nơi Nam phương, hay rằng Y-sơ-ra-ên theo đường do thám đi đến, bèn hăm đánh Y-sơ-ra-ên, và bắt mấy người cầm tù.
2. Y-sơ-ra-ên bèn hứa nguyện cùng Đức Giê-hô-va rằng: Nếu Chúa phó dân nầy vào tay tôi, tất tôi sẽ diệt các thành của nó.
3. Đức Giê-hô-va nhậm lời dân Y-sơ-ra-ên và phó dân Ca-na-an cho. Người ta diệt hết dân đó và các thành của nó, đặt tên chỗ nầy là Họt-ma.
4. Đoạn, dân Y-sơ-ra-ên đi từ núi Hô-rơ về hướng Biển đỏ, đặng đi ṿng theo xứ Ê-đôm; giữa đường dân sự ngă ḷng.
5. Vậy, dân sự nói nghịch cùng Đức Chúa Trời và Môi-se mà rằng: Làm sao người khiến chúng tôi lên khỏi xứ Ê-díp-tô đặng chết trong đồng vắng? V́ đây không có bánh, cũng không có nước, và linh hồn chúng tôi đă ghê gớm thứ đồ ăn đạm bạc nầy.
6. Đức Giê-hô-va sai con rắn lửa đến trong dân sự, cắn dân đó đến đỗi người Y-sơ-ra-ên chết rất nhiều.
7. Dân sự bèn đến cùng Môi-se mà nói rằng: Chúng tôi có phạm tội, v́ đă nói nghịch Đức Giê-hô-va và người. Hăy cầu xin Đức Giê-hô-va để Ngài khiến rắn ĺa xa chúng tôi. Môi-se cầu khẩn cho dân sự.
8. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hăy làm lấy một con rắn lửa, rồi treo nó trên một cây sào. Nếu ai bị cắn và nh́n nó, th́ sẽ được sống.
9. Vậy, Môi-se làm một con rắn bằng đồng, rồi treo lên một cây sào; nếu người nào đă bị rắn cắn mà nh́n con rắn bằng đồng, th́ được sống.
10. Kế đó, dân Y-sơ-ra-ên đi và đóng trại tại Ô-bốt.
11. Đoạn, đi từ Ô-bốt và đóng trại tại Y-giê-A-ba-rim, tại đồng vắng, đối ngang Mô-áp về hướng mặt trời mọc.
12. Họ đi từ đó đóng trại tại đèo Xê-rết.
13. Rồi tự đó đi và đóng trại phía bên kia Ạt-nôn, ở trong đồng vắng, vừa ra bờ cơi dân A-mô-rít; v́ Ạt-nôn là giáp-ranh của dân Mô-áp và dân A-mô-rít.
14. Bởi cớ đó, trong sách chiến trận của Đức Giê-hô-va có nói rằng: Va-hép ở tại Su-pha, và trũng Ạt-nôn,
15. cùng những triền trũng chạy xuống phía A-rơ, và đụng ranh Mô-áp.
16. Từ đó dân Y-sơ-ra-ên đến Bê-re, ấy đó là cái giếng mà Đức Giê-hô-va đă phán cùng Môi-se rằng: Hăy nhóm hiệp dân sự, ta sẽ cho chúng nó nước.
17. Y-sơ-ra-ên bèn hát bài nầy: Hỡi giếng, hăy tuôn lên! hăy ca hát cho nó!
18. Giếng mà các vua chúa đă khai, Các tước vị của dân sự đă đào Với phủ việt cùng cây gậy ḿnh!
19. Kế đó, từ đồng vắng dân Y-sơ-ra-ên đến Ma-tha-na; rồi từ Ma-tha-na đến Na-ha-li-ên; từ Na-ha-li-ên đến Ba-mốt;
20. và từ Ba-mốt đến trũng ở trong bờ cơi Mô-áp, tại chót núi Phích-ga, là nơi người ta nh́n thấy đồng bằng của sa mạc.
21. Vả, Y-sơ-ra-ên sai sứ giả đến Si-hôn, vua dân A-mô-rít, đặng nói rằng:
22. Xin cho phép chúng tôi đi ngang qua xứ vua, chúng tôi sẽ không xây vào đồng ruộng, hay là vào vườn nho, và chúng tôi cũng sẽ không uống nước các giếng, cứ đi đường cái của vua cho đến chừng nào qua khỏi bờ cơi vua.
23. Nhưng Si-hôn không cho phép Y-sơ-ra-ên đi ngang qua bờ cơi ḿnh, bèn hiệp hết dân sự ḿnh đi ra đón Y-sơ-ra-ên về hướng đồng vắng; người đến Gia-hát, chiến trận cùng Y-sơ-ra-ên.
24. Song Y-sơ-ra-ên dùng lưỡi gươm đánh bại người, và chiếm xứ người từ Ạt-nôn đến Gia-bốc, đến dân Am-môn; v́ bờ cơi dân Am-môn bền vững.
25. Y-sơ-ra-ên chiếm hết các thành nầy, và ở trong các thành dân A-mô-rít, là ở tại Hết-bôn và trong các thành địa-hạt.
26. V́ Hết-bôn là thành của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, là vua đă giao chiến cùng vua trước của Mô-áp, chiếm lấy khắp hết xứ người đến Ạt-nôn.
27. Bởi cớ đó, những nhà văn sĩ nói rằng: Hăy đến Hết-bôn! Thành Si-hôn phải xây cất và lập vững!
28. V́ có một đám lửa bởi thành Hết-bôn, Một ngọn lửa bởi thành Si-hôn mà ra; Nó thiêu đốt A-rơ của Mô-áp, Các chúa của nơi cao Ạt-nôn
29. Hỡi Mô-áp, khốn thay cho ngươi! Hỡi dân Kê-móc, ngươi đă diệt mất! Người đă nộp con trai ḿnh làm kẻ trốn tránh, Và con gái ḿnh làm phu tù cho Si-hôn, vua A-mô-rít.
30. Chúng ta đă bắn tên nhằm chúng nó. Hết-bôn đă bị hủy diệt cho đến Đi-bôn. Chúng ta đă làm tàn hại đến Nô-phách, Lửa đă lan đến Mê-đê-ba.
31. Vậy, Y-sơ-ra-ên ở trong xứ dân A-mô-rít.
32. Môi-se sai đi do thám Gia-ê-xe, chiếm các thành bổn hạt và đuổi dân A-mô-rít ở tại đó.
33. Đoạn, dân Y-sơ-ra-ên trở lại đi lên về hướng Ba-san, Óc, vua Ba-san, và cả dân sự người đi ra đón đặng chiến trận tại Ết-rê-i.
34. Nhưng Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Đừng sợ người, v́ ta đă phó người, luôn dân sự và xứ người vào tay ngươi; ngươi khá làm cho người như đă làm cho Si-hôn, vua dân A-mô-rít ở tại Hết-bôn.
35. Vậy, dân Y-sơ-ra-ên đánh bại Óc, các con trai người và cả dân sự người, cho đến chừng không c̣n người nào ở lại; dân Y-sơ-ra-ên chiếm lấy xứ người vậy.

Dân-số Kư 22    chọn đoạn khác

1. Đoạn dân Y-sơ-ra-ên đi, đến đóng trại trong đồng bắng Mô-áp, bên kia sông Giô-đanh, đối-diện Giê-ri-cô.
2. Ba-lác, con trai Xếp-bô, thấy hết mọi điều Y-sơ-ra-ên đă làm cho dân A-mô-rít.
3. Mô-áp lấy làm sợ sệt lắm và kinh khủng trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, v́ dân đó rất đông.
4. Vậy, Mô-áp nói cùng các trưởng lăo Ma-đi-an rằng: Bây giờ, đoàn dân đông nầy sẽ nuốt hết thảy chung quanh ta, khác nào con ḅ ăn cỏ trong đồng vậy. Đương lúc đó, Ba-lác, con trai Xếp-bô, làm vua Mô-áp.
5. Người sai sứ giả đến cùng Ba-la-am, con trai Bê-ô, ở Phê-thô-rơ, tại trên mé sông, trong xứ của con cái dân sự ḿnh, đặng gọi người mà nói rằng: Nầy một dân đă ra khỏi xứ Ê-díp-tô, phủ khắp mặt đất, và đóng lại đối ngang ta.
6. Vậy, ta xin ngươi hăy đến bây giờ, rủa sả dân nầy cho ta, v́ nó mạnh hơn ta. Có lẽ ta sẽ đánh bại dân nầy và đuổi nó khỏi xứ được; v́ ta biết rằng kẻ nào ngươi chúc phước cho, th́ được phước; c̣n kẻ nào ngươi rủa sả, th́ bị rủa sả.
7. Vậy, các trưởng lăo Mô-áp đi cùng các trưởng lăo Ma-đi-an, trong tay có lễ vật cho thầy bói, đến cùng Ba-la-am mà thuật lại những lời của Ba-lác.
8. Người đáp rằng: Hăy ở lại đây đêm nay th́ ta sẽ trả lời theo như lời Đức Giê-hô-va sẽ phán cùng ta. Các trưởng lăo Mô-áp ở lại nhà Ba-la-am.
9. Vả, Đức Chúa Trời đến cùng Ba-la-am và phán rằng: Những người ngươi có trong nhà là ai?
10. Ba-la-am thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Ba-lác, con trai Xếp-bô, vua Mô-áp, đă sai đến tôi đặng nói rằng:
11. Nầy, một dân đă ra khỏi xứ Ê-díp-tô, phủ khắp mặt đất; hăy đến bây giờ, rủa sả dân đó cho ta; có lẽ ta sẽ đánh bại dân nầy và đuổi nó được.
12. Đức Chúa Trời phán cùng Ba-la-am rằng: Ngươi chớ đi với chúng nó, chớ rủa sả dân nầy, v́ dân nầy được ban phước.
13. Sớm mai Ba-la-am dậy, nói cùng các sứ thần của Ba-lác rằng: Hăy trở về xứ các ngươi, v́ Đức Giê-hô-va không cho ta đi cùng các ngươi.
14. Vậy, các sứ thần Mô-áp dậy, trở về Ba-lác mà tâu rằng: Ba-la-am từ chối đến cùng chúng tôi.
15. Ba-lác lại sai nhiều sứ thần hơn và tôn trọng hơn những người trước,
16. đến cùng Ba-la-am mà rằng: Ba-lác, con trai Xếp-bô, có nói như vầy: Ta xin ngươi, chớ có chi ngăn cản ngươi đến cùng ta,
17. v́ ta sẽ tôn ngươi rất vinh hiển, và làm theo mọi điều ngươi sẽ nói cùng ta. Ta xin ngươi hăy đến rủa sả dân nầy.
18. Ba-la-am đáp cùng các sứ thần của Ba-lác rằng: Dầu Ba-lác sẽ cho ta nhà người đầy vàng và bạc, ta cũng chẳng được vượt qua mạng của Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của ta, đặng làm một việc hoặc nhỏ hay lớn.
19. Song ta xin các ngươi cũng ở lại đêm nay, đặng ta biết Đức Giê-hô-va sẽ phán điều chi cùng ta nữa.
20. Trong lúc ban đêm, Đức Chúa Trời giáng đến Ba-la-am mà phán rằng: Nếu các người ấy đến đặng gọi ngươi, hăy đứng dậy đi với chúng nó; nhưng chỉ hăy làm theo lời ta sẽ phán.
21. Vậy, sớm mai, Ba-la-am dậy, thắng lừa cái ḿnh và đi với các sứ thần Mô-áp.
22. Nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời nổi phừng lên, v́ người ra đi; thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng trên đường đặng cản người. Vả, người đă cỡi lừa cái ḿnh, và có hai đứa đầy tớ đi theo.
23. Lừa cái thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng trên đường có cây gươm trần nơi tay, bèn tẻ đường đi vào trong ruộng; Ba-la-am đánh nó đặng dẫn nó vào đường lại.
24. Nhưng thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng trong đường nhỏ của vườn nho có vách bên nầy và bên kia.
25. Lừa thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va th́ nép vào vách và ép chân Ba-la-am; người đánh nó.
26. Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đi tới xa hơn, đứng trong một ngả rất hẹp không chỗ nào trở qua bên hữu hay là bên tả;
27. lừa thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va bèn nằm quị dưới Ba-la-am. Nhưng Ba-la-am nổi giận, đánh lừa bằng một cây gậy.
28. Bấy giờ, Đức Giê-hô-va mở miệng lừa ra, nó nói cùng Ba-la-am rằng: Tôi có làm chi cho người, mà người đă đánh tôi ba lần?
29. Ba-la-am đáp cùng lừa cái rằng: Ấy là tại mầy khinh nhạo ta. Chớ chi ta có cây gươm trong tay, ta đă giết mầy rồi!
30. Lừa nói cùng Ba-la-am rằng: Tôi há chẳng phải là lừa của người mà người đă cỡi luôn đến ngày nay sao? Tôi há có thói làm như vậy cùng người chăng? Người đáp: Không.
31. Đức Giê-hô-va bèn mở mắt Ba-la-am ra, thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng trong đường, tay cầm một cây gươm. Người cúi đầu và sấp mặt xuống đất.
32. Thiên sứ của Đức Giê-hô-va nói: Sao ngươi đă đánh lừa cái ngươi ba lần? Nầy, ta đi ra đặng cản ngươi, v́ ta thấy ngươi đi theo một con đường dẫn ḿnh đến nơi hư nát.
33. Vả, con lừa cái có thấy ta, đi tẻ trước mặt ta ba lần, nếu nó không đi tẻ trước mặt ta, chắc ta đă giết ngươi rồi và để nó sống.
34. Ba-la-am bèn thưa cùng thiên sứ của Đức Giê-hô-va rằng: Tôi có phạm tội, v́ chẳng biết người đă đứng trong đường đặng cản tôi, bây giờ, nếu người không bằng ḷng tôi đi, tôi sẽ trở về.
35. Thiên sứ của Đức Giê-hô-va nói cùng Ba-la-am rằng: Hăy đi cùng các người đó, nhưng chỉ hăy nói điều chi ta sẽ phán dặn ngươi. Ba-la-am bèn đi cùng các sứ thần của Ba-lác.
36. Khi Ba-lác hay rằng Ba-la-am đến, bèn đi ra tới thành Mô-áp ở gần khe Ạt-nôn, tức là ở tận bờ cơi của xứ, mà nghinh tiếp người.
37. Ba-lác nói cùng Ba-la-am rằng: Ta há chẳng sai sứ vời ngươi sao? Sao ngươi không đến ta? Ta há không tôn vinh hiển cho ngươi được sao?
38. Ba-la-am đáp cùng Ba-lác rằng: Nầy tôi đă đến cùng vua, bây giờ tôi há có thể nói ra lời ǵ chăng? Tôi sẽ nói điều chi Đức Chúa Trời đặt trong miệng tôi vậy.
39. Ba-la-am đi cùng Ba-lác, đến Ki-ri-át-Hút-sốt.
40. Ba-lác giết những ḅ và chiên, sai dâng cho Ba-la-am và các sứ thần đă đi với người.
41. Khi đến sáng mai, Ba-lác đem Ba-la-am lên Ba-mốt-Ba-anh, là nơi người thấy đầu cùng trại quân Y-sơ-ra-ên.

Dân-số Kư 23    chọn đoạn khác

1. Ba-la-am nói cùng Ba-lác rằng: Hăy cất tại đây cho tôi bảy cái bàn thờ, cùng sắm sẵn cho tôi bảy con ḅ đực và bảy con chiên đực.
2. Ba-lác làm như Ba-la-am đă nói; hai người dâng một con ḅ đực và một con chiên đực trên mỗi bàn thờ.
3. Đoạn, Ba-la-am nói cùng Ba-lác rằng: Vua hăy đứng gần của lễ thiêu của vua, tôi sẽ đi; có lẽ Đức Giê-hô-va sẽ hiện ra cùng tôi chăng, tôi sẽ thuật lại cùng vua điều chi Ngài cho tôi thấy. Người đi lên một nơi cao trống trải.
4. Đức Chúa Trời hiện ra cùng Ba-la-am, và Ba-la-am thưa cùng Ngài rằng: Tôi có lập bảy cái bàn thờ, và trên mỗi bàn thờ tôi có dâng một con ḅ đực và một con chiên đực.
5. Đức Giê-hô-va để lời trong miệng Ba-la-am và phán rằng: Hăy trở về cùng Ba-lác và nói như vậy.
6. Ba-la-am bèn trở về cùng Ba-lác; nầy, người và các sứ thần Mô-áp đứng gần của lễ thiêu vua.
7. Ba-la-am bèn nói lời ca ḿnh mà rằng: Ba-lác, vua Mô-áp, sai vời tôi từ A-ram, Từ những núi Đông-phương, và nói: Hăy đến rủa sả Gia-cốp cho ta! Hăy đến, giận mắng Y-sơ-ra-ên!
8. Kẻ mà Đức Chúa Trời không rủa sả, tôi sẽ rủa sả làm sao? Kẻ mà Đức Chúa Trời không giận mắng, tôi sẽ giận mắng làm sao?
9. V́ từ đỉnh các núi, tôi thấy người, Từ đầu cao g̣ đống, tôi nh́n người: Ḱa, là một dân ở riêng ra, Sẽ không nhập số các nước.
10. Ai đếm được bụi cát của Gia-cốp, Ai tu bộ được phần tư của Y-sơ-ra-ên? Người công chánh thác thể nào, tôi nguyện thác thể ấy; Cuối cùng người nghĩa làm sao, tôi nguyện cuối cùng tôi làm vậy!
11. Bấy giờ, Ba-lác nói cùng Ba-la-am rằng: Ngươi đă làm chi với ta? Ta thỉnh ngươi để rủa sả những thù nghịch ta, ḱa ngươi lại chúc phước cho!
12. Người đáp rằng: Tôi há không nên cẩn thận nói điều Giê-hô-va đặt vào miệng tôi sao?
13. Ba-lác bèn nói: Vậy, hăy đến cùng ta trong một chỗ khác, là nơi ngươi sẽ thấy dân nầy, v́ ngươi chỉ đă thấy ở đầu cùng nó, chớ không thấy hết; ở đó hăy rủa sả nó cho ta.
14. Vậy, người dẫn Ba-la-am đến đồng Xô-phim, trên chót núi Phích-ga, lập bảy cái bàn thờ, và trên mỗi cái dâng một con ḅ đực và một con chiên đực.
15. Ba-la-am bèn nói cùng Ba-lác rằng: Hăy đứng đây gần của lễ thiêu của vua, c̣n tôi sẽ đi lại đó, đón Đức Giê-hô-va.
16. Đức Giê-hô-va hiện ra cùng Ba-la-am, mà rằng: Hăy trở về cùng Ba-lác và nói như vậy.
17. Ba-la-am trở về cùng Ba-lác; người và các sứ thần Mô-áp đứng gần của lễ thiêu của vua. Ba-lác hỏi: Đức Giê-hô-va có phán chi?
18. Ba-la-am bèn nói lời ca ḿnh mà rằng: Hỡi Ba-lác, hăy đứng dậy và nghe! Hỡi con trai Xếp-bô, hăy lắng tai!
19. Đức Chúa Trời chẳng phải là người để nói dối, Cũng chẳng phải là con loài người đặng hối cải. Điều Ngài đă nói, Ngài há sẽ chẳng làm ư? Điều Ngài đă phán, Ngài há sẽ chẳng làm ứng nghiệm sao?
20. Nầy, tôi đă lănh mạng chúc phước; Ngài đă ban phước, tôi chẳng cải đâu.
21. Ngài chẳng xem tội ác nơi Gia-cốp, Và không thấy tà vạy trong Y-sơ-ra-ên; Giê-hô-va, Đức Chúa Trời người, ở cùng người, Trong Y-sơ-ra-ên có tiếng reo mừng của vua.
22. Ấy là Đức Chúa Trời đă rút dân đó ra khỏi xứ Ê-díp-tô; Chúng có sức mạnh như ḅ rừng vậy
23. Không có phù chú nơi Gia-cốp, Cũng chẳng có bói-khoa trong Y-sơ-ra-ên, V́ đến kỳ định, sẽ nói về Gia-cốp và Y-sơ-ra-ên rằng: Việc Đức Chúa Trời làm lạ là dường nào!
24. Ḱa, một thứ dân hưng lên như sư tử cái, Và dược lên khác nào sư tử đực; Chỉ khi nào đă xé được mồi mới nằm xuống, Và uống huyết những kẻ bị thương.
25. Bấy giờ, Ba-lác nói cùng Ba-la-am rằng: Chớ rủa sả họ, nhưng cũng đừng chúc phước cho nữa.
26. Ba-la-am đáp cùng Ba-lác rằng: Tôi há chẳng có nói: Tôi phải làm mọi điều Đức Giê-hô-va sẽ phán dặn sao?
27. Ba-lác lại nói cùng Ba-la-am rằng: Vậy, hăy lại, ta dẫn ngươi đến một chỗ khác; có lẽ Đức Chúa Trời sẽ ưng cho ngươi rủa sả dân nầy tại đó chăng.
28. Ba-lác bèn dẫn Ba-la-am đến chót núi Phê-ô, đối ngang đồng vắng.
29. Ba-la-am nói cùng Ba-lác rằng: Tại đây, hăy lập cho tôi bảy cái bàn thờ, và sắm sẵn bảy con ḅ đực và bảy con chiên đực.
30. Vậy, Ba-lác làm theo như Ba-la-am đă nói; trên mỗi bàn thờ, người dâng một con ḅ đực và một con chiên đực.

Dân-số Kư 24    chọn đoạn khác

1. Ba-la-am thấy rơ Đức Giê-hô-va ưng ban phước cho Y-sơ-ra-ên, th́ không cậy đến phù chú như những lần khác; nhưng người xây mặt về hướng đồng vắng,
2. nhướng mắt lên thấy Y-sơ-ra-ên đóng trại từng chi phái, và Thần Đức Chúa Trời cảm động người,
3. bèn nói lời ca ḿnh mà rằng: Lời ca của Ba-la-am, con trai Bê-ô, Lời ca của người có mắt mở ra,
4. Lời ca của người nghe lời Đức Chúa Trời, Xem sự hiện thấy của Đấng Toàn năng, Sấp ḿnh xuống và mắt mở ra:
5. Hỡi Gia-cốp! trại ngươi tốt dường bao! Hỡi Y-sơ-ra-ên! nhà tạm ngươi đẹp biết mấy!
6. Nó trương ra như trũng núi, Khác nào cảnh vườn ở nơi mé sông, Tợ cây trầm hương mà Đức Giê-hô-va đă trồng, Tỉ như cây hương nam ở nơi mé nước.
7. Nước chảy tràn ngoài thùng chứa, Hột giống của người nhuần tưới dư dật, Vua người sẽ trổi cao hơn A-gát, Nước người được cao lên.
8. Đức Chúa Trời đă dẫn người ra khỏi xứ Ê-díp-tô, Người có sức mạnh như ḅ rừng, Sẽ nuốt các nước, tức kẻ thù nghịch ḿnh, Bẻ găy xương chúng nó, đánh chúng nó bằng mũi tên ḿnh.
9. Người sụm xuống, nằm như sư tử đực, khác nào sư tử cái: Ai dễ khiến ngồi lên? Phước cho kẻ nào chúc phước ngươi, Rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi.
10. Bấy giờ, Ba-lác nổi giận cùng Ba-la-am, vỗ tay mà nói cùng Ba-la-am rằng: Ta đă thỉnh ngươi đặng rủa sả kẻ thù nghịch ta; nầy, ngươi lại chúc phước cho chúng nó đă ba lần rồi!
11. Vậy, bây giờ, khá chạy trở về xứ ngươi! Ta đă nói ta sẽ tôn ngươi vinh hiển, nhưng nầy, Đức Giê-hô-va đă cản ngươi nhận lănh.
12. Ba-la-am đáp cùng Ba-lác rằng: Tôi há chẳng có nói cùng các sứ giả vua đă sai đến tôi rằng:
13. Dầu Ba-lác cho tôi nhà người đầy bạc và vàng, tôi cũng chẳng được vượt qua mạng Đức Giê-hô-va để làm tự ư điều phải hay là điều quấy; tôi phải nói điều chi Đức Giê-hô-va sẽ phán!
14. Nầy, bây giờ, tôi trở cùng dân tôi, hăy lại, tôi sẽ cáo cho vua biết điều dân nầy ngày sau cùng sẽ làm cho dân sự vua.
15. Người bèn nói lời ca ḿnh mà rằng: Lời ca của Ba-la-am, con trai Bê-ô, Lời ca của người có mắt mở ra;
16. Lời ca của người nghe lời Đức Chúa Trời, Biết sự tri thức của Đấng Chí cao, Xem sự hiện thấy của Đấng Toàn năng, Sấp ḿnh xuống mà mắt tự mở ra:
17. Tôi thấy Người, nhưng chẳng phải bây giờ; Tôi xem Người, nhưng chẳng phải ở gần; Một ngôi sao hiện ra từ Gia-cốp, Một cây phủ việt trồi lên từ Y-sơ-ra-ên; Người sẽ đâm lủng Mô-áp từ đầu nầy tới đầu kia, Hủy diệt dân hay dấy giặc nầy.
18. Người sẽ được Ê-đôm làm cơ nghiệp; Sẽ được Sê-i-rơ, là kẻ thù nghịch ḿnh, làm sản nghiệp. Y-sơ-ra-ên sẽ tỏ ra sự cường thạnh ḿnh.
19. Đấng ra từ Gia-cốp sẽ cầm quyền, Người sẽ diệt những dân sót của thành.
20. Ba-la-am cũng thấy A-ma-léc, bèn nói lời ca ḿnh rằng: A-ma-léc đứng đầu các nước; Nhưng sau cùng người sẽ bị diệt vong.
21. Kế đó, Ba-la-am thấy người Kê-nít, bèn nói lời ca ḿnh rằng: Chỗ ở ngươi là bền vững, Ổ ngươi đóng trong ḥn đá.
22. Nhưng Ca-in sẽ bị hư nát, Cho đến khi A-su-rơ bắt dẫn tù ngươi.
23. Người c̣n nói lời ca ḿnh rằng: Ôi! khi Đức Chúa Trời đă làm các điều nầy, ai sẽ c̣n sống?
24. Nhưng sẽ có những tàu từ gành Kít-tim đến, Hà khắc A-su, hà khắc Hê-be. Rồi chính người cũng sẽ bị tuyệt diệt.
25. Đoạn, Ba-la-am đứng dậy đi về bổn xứ. Ba-lác cũng lên đường.

Dân-số Kư 25    chọn đoạn khác

1. Dân Y-sơ-ra-ên ở tại Si-tim, khởi thông dâm cùng những con gái Mô-áp.
2. Con gái mời dân sự ăn sinh lễ cúng các thần ḿnh; dân sự ăn và qú lạy trước các thần chúng nó.
3. Y-sơ-ra-ên cũng thờ thần Ba-anh-Phê-ô, cơn giận của Đức Giê-hô-va bèn nổi lên cùng Y-sơ-ra-ên.
4. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hăy bắt các đầu trưởng của dân sự, và treo lên trước mặt Đức Giê-hô-va, đối cùng mặt trời, để cơn giận của Đức Giê-hô-va xây khỏi Y-sơ-ra-ên.
5. Vậy, Môi-se nói cùng các quan án Y-sơ-ra-ên rằng: Mỗi người trong các ngươi phải giết những kẻ nào thuộc về bọn cúng thờ Ba-anh-Phê-ô.
6. Nầy, một người trong dân Y-sơ-ra-ên dẫn một người nữ Ma-đi-an đến giữa anh em ḿnh, hiện trước mắt Môi-se và cả hội dân Y-sơ-ra-ên, đương khi hội chúng khóc tại cửa hội mạc.
7. Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, thầy tế lễ, thấy sự nầy, bèn đứng dậy giữa hội chúng, cầm một cây giáo,
8. đi theo người Y-sơ-ra-ên vào trong trại, đâm ngang dạ dưới của người Y-sơ-ra-ên và người nữ; tai vạ giữa dân Y-sơ-ra-ên bèn ngừng lại.
9. Vả, có hai mươi bốn ngàn người chết về tai vạ nầy.
10. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
11. Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, thầy tế lễ, đă xây dân Y-sơ-ra-ên khỏi cơn giận ta, v́ ḷng kỵ tà thúc giục ḷng người; vậy, ta không có diệt dân Y-sơ-ra-ên trong cơn kỵ tà của ta.
12. Bởi cớ đó, hăy cáo cùng người rằng: Ta ưng cho người sự giao ước b́nh yên ta;
13. ấy về phần người và ḍng dơi người sẽ là sự giao ước về một chức tế lễ đời đời, bởi v́ người có ḷng sốt sắng về Đức Chúa Trời ḿnh, và có chuộc tội cho dân Y-sơ-ra-ên.
14. Vả, người Y-sơ-ra-ên bị giết chung với người nữ Ma-đi-an, tên là Xim-ri, con trai Sa-lu, quan trưởng của một tông tộc, người Si-mê-ôn.
15. Tên người nữ Ma-đi-an bị giết là Cốt-bi, con gái Xu-rơ, đầu trưởng của một tông tộc Ma-đi-an.
16. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:
17. Hăy khuấy rối người Ma-đi-an và hăm đánh chúng nó;
18. v́ chúng nó đă lấy mưu chước ḿnh mà khuấy rối các ngươi, dỗ dành các ngươi về việc cúng thờ Phê-ô, và trong việc của Cốt-bi, con gái quan trưởng Ma-đi-an, là chị chúng nó đă bị giết trong ngày tai vạ, v́ cớ việc cúng thờ Phê-ô.

Dân-số Kư 26    chọn đoạn khác

1. Xảy sau tai vạ nầy, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và Ê-lê-a-sa, con trai A-rôn, thầy tế lễ, mà rằng:
2. Hăy dựng sổ cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tùy theo tông tộc của họ, tức là hết thảy người trong Y-sơ-ra-ên đi ra trận được.
3. Vậy, Môi-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, nói cùng dân Y-sơ-ra-ên trong đồng Mô-áp gần sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô, mà rằng:
4. Hăy tu bộ dân sự từ hai mươi tuổi sắp lên, như Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên, mà đă ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
5. Ru-bên, con trưởng nam của Y-sơ-ra-ên. Con trai Ru-bên là Hê-nóc; do nơi người sanh ra họ Hê-nóc; do nơi Pha-lu sanh họ Pha-lu;
6. do nơi Hết-rôn sanh họ Hết-rôn; do nơi Cạt-mi sanh ra họ Cạt-mi.
7. Đó là các họ của Ru-bên, và những tên người mà người ta tu bộ, cộng được bốn mươi ba ngàn bảy trăm ba mươi.
8. Con trai Pha-lu là Ê-li-áp.
9. Các con trai của Ê-li-áp là Nê-mu-ên, Đa-than và A-bi-ram. Ấy là Đa-than và A-bi-ram nầy, trưởng của hội chúng dấy loạn cùng Môi-se và A-rôn, tại phe đảng Cô-rê, khi họ dấy loạn cùng Đức Giê-hô-va.
10. Ấy, khi đất hả miệng ra nuốt hai người và Cô-rê cùng những kẻ đă hiệp đảng chết luôn, lúc lửa thiêu nuốt hai trăm rưởi người; họ làm gương như vậy.
11. Nhưng các con trai Cô-rê không chết.
12. Các con trai Si-mê-ôn, tùy theo họ hàng ḿnh: do nơi Nê-mu-ên sanh ra họ Nê-mu-ên; do nơi Gia-min sanh ra họ Gia-min; do nơi Gia-kin sanh ra họ Gia-kin;
13. do nơi Xê-rách sanh ra họ Xê-rách; do nơi Sau-lơ sanh ra họ Sau-lơ.
14. Đó là các họ của Si-mê-ôn: số là hai mươi hai ngàn hai trăm người.
15. Các con trai của Gát, tùy theo họ hàng ḿnh: do nơi Xê-phôn sanh ra họ Xê-phôn; do nơi Ha-ghi sanh ra họ Ha-ghi; do nơi Su-ni sanh ra họ Su-ni;
16. do nơi Óc-ni sanh ra họ Óc-ni; do nơi Ê-ri sanh ra họ Ê-ri;
17. do nơi A-rốt sanh ra họ A-rốt; do nơi A-rê-li sanh ra họ A-rê-li.
18. Đó là các họ của những con trai Gát, tùy theo tu bộ: số là bốn mươi ngàn năm trăm người.
19. Các con trai Giu-đa: Ê-rơ và Ô-nan; nhưng Ê-rơ và Ô-nan đă qua đời tại xứ Ca-na-an.
20. Các con trai Giu-đa, tùy theo họ hàng ḿnh: do nơi Sê-la sanh ra họ Sê-la; do nơi Phê-rết sanh ra họ Phê-rết; do nơi Xê-rách sanh ra họ Xê-rách.
21. Các con trai của Pha-rết: do nơi Hết-rôn sanh ra họ Hết-rôn; do nơi Ha-mun sanh ra họ Ha-mun.
22. Đó là các họ của Giu-đa, tùy theo tu bộ: số là bảy mươi sáu ngàn năm trăm người.
23. Các con trai Y-sa-ca, tùy theo họ hàng ḿnh: do nơi Thô-la sanh ra họ Thô-la; do nơi Phu-va sanh ra họ Phu-va;
24. do nơi Gia-súp sanh ra họ Gia-súp; do nơi Sim-rôn sanh ra họ Sim-rôn.
25. Đó là các họ Y-sa-ca, tùy theo tu bộ: số là sáu mươi bốn ngàn ba trăm người.
26. Các con trai Sa-bu-lôn, tùy theo họ hàng ḿnh: do nơi Sê-rết sanh ra họ Sê-rết; do nơi Ê-lôn sanh ra họ Ê-lôn; do nơi Gia-lê-ên sanh ra họ Gia-lê-ên.
27. Đó là các họ của Sa-bu-lôn tùy theo tu bộ: số là sáu mươi ngàn năm trăm người.
28. Các con trai Giô-sép, tùy theo họ hàng ḿnh, là Ma-na-se và Ép-ra-im.
29. Các con trai Ma-na-se: do nơi Ma-ki sanh ra họ Ma-ki, Ma-ki sanh Ga-la-át: do nơi Ga-la-át sanh ra họ Ga-la-át.
30. Nầy là các con trai Ga-la-át: do nơi Giê-xe sanh ra họ Giê-xe; do nơi Hê-léc sanh ra họ Hê-léc;
31. do nơi Ách-ri-ên sanh ra họ Ách-ri-ên; do nơi Si-chem sanh ra họ Si-chem;
32. do nơi Sê-mi-đa sanh ra họ Sê-mi-đa; do nơi Hê-phe sanh ra họ Hê-phe.
33. Vả, Xê-lô-phát, con trai Hê-phe, không có con trai, nhưng có con gái. Tên các con gái Xê-lô-phát là Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa.
34. Đó là các họ Ma-na-se, tùy theo tu bộ: số là năm mươi hai ngàn bảy trăm người.
35. Nầy là các con trai Ép-ra-im, tùy theo họ hàng ḿnh: do nơi Su-thê-lách sanh ra họ Su-thê-rách; do nơi Bê-ke sanh ra họ Bê-ke; do nơi Tha-chan sanh ra họ Tha-chan.
36. Nầy là con trai của Su-thê-lách: do nơi Ê-ran sanh ra họ Ê-ran.
37. Đó là họ của các con trai Ép-ra-im, tùy theo tu bộ: số là ba mươi hai ngàn năm trăm người. Ấy là các con trai Giô-sép, tùy theo họ hàng ḿnh vậy.
38. Các con trai Bên gia-min, tùy theo họ hàng ḿnh: do nơi Bê-la sanh ra họ Bê-la; do nơi Ách-bên sanh ra họ Ách-bên, do nơi A-chi-ram sanh ra họ A-chi-ram;
39. do nơi Sê-phu-pham sanh ra họ Sê-phu-pham; do nơi Hu-pham sanh ra họ Hu-pham.
40. Các con trai Bê-la là A-rết và Na-a-man; do nơi A-rết sanh ra họ A-rết; do nơi Na-a-man sanh ra họ Na-a-man.
41. Đó là các con trai Bên-gia-min, tùy theo họ hàng và tùy theo tu bộ: số là bốn mươi lăm ngàn sáu trăm người.
42. Nầy là các con trai của Đan, tùy theo họ hàng ḿnh: do nơi Su-cham sanh ra họ Su-cham. Đó là họ của Đan;
43. họ Su-cham, tùy theo tu bộ: số là sáu mươi bốn ngàn bốn trăm người.
44. Các con trai A-se, tùy theo họ hàng ḿnh: do nơi Di-ma sanh ra họ Di-ma; do nơi Dích-vi sanh ra họ Dích-vi; do nơi Bê-ri-a sanh ra họ Bê-ri-a.
45. Các con trai Bê-ri-a: do nơi Hê-be sanh ra họ Hê-be; do nơi Manh-ki-ên sanh ra họ Manh-ki-ên.
46. Tên của con gái A-se là Sê-rách.
47. Đó là những họ của các con trai A-se, tùy theo tu bộ: số là năm mươi ba ngàn bốn trăm người.
48. Các con trai Nép-ta-li, tùy theo họ hàng ḿnh: do nơi Giát-sê-ên sanh ra họ Giát-sê-ên; do nơi Gu-ni sanh ra họ Gu-ni;
49. do nơi Dít-se sanh ra họ Dít-se: do nơi Si-lem sanh ra họ Si-lem.
50. Đó là các họ của Nép-ta-li, tùy theo họ hàng và tu bộ ḿnh: số là bốn mươi lăm ngàn bốn trăm người.
51. Đó là những người trong dân Y-sơ-ra-ên mà người ta tu bộ lại: số là sáu trăm một ngàn bảy trăm ba mươi người.
52. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
53. Phải tùy theo số các danh mà chia xứ ra cho những người nầy làm sản nghiệp;
54. chi phái nào số dân đông th́ ngươi phải cho một sản nghiệp lớn hơn, chi phái nào số dân ít, th́ phải cho một sản nghiệp nhỏ hơn, tức là phải cho mỗi chi phái sản nghiệp ḿnh cân phân cùng số tu bộ.
55. Nhưng phải bắt thăm mà chia xứ ra; dân Y-sơ-ra-ên sẽ lănh phần sản nghiệp ḿnh theo tên của các chi phái tổ tông.
56. Phải tùy sự bắt thăm mà chia sản nghiệp ra cho mỗi chi phái, hoặc số dân đông hay ít.
57. Nầy là người Lê-vi mà người ta tu bộ lại, tùy theo họ hàng ḿnh: do nơi Ghẹt-sôn sanh ra họ Ghẹt-sôn; do nơi Kê-hát sanh ra họ Kê-hát; do nơi Mê-ra-ri sanh ra họ Mê-ra-ri.
58. Nầy là các họ Lê-vi: họ Líp-ni, họ Hếp-rôn, họ Mách-li, họ Mu-si, họ Cô-rê. Vả, Kê-hát sanh Am-ram.
59. Tên vợ Am-ram là Giô-kê-bết, con gái của Lê-vi, sanh trong xứ Ê-díp-tô; nàng sanh cho Am-ram, A-rôn, Môi-se và chị của hai người là Mi-ri-am.
60. C̣n A-rôn sanh Na-đáp và A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma.
61. Nhưng Na-đáp và A-bi-hu chết trong khi dâng một thứ lửa lạ trước mặt Đức Giê-hô-va.
62. Những nam đinh mà người ta tu bộ từ một tháng sắp lên, cộng được hai mươi ba ngàn; v́ người Lê-vi không được kể vào số tu bộ của dân Y-sơ-ra-ên, bởi người Lê-vi không được phần sản nghiệp giữa dân Y-sơ-ra-ên.
63. Đó là sự tu bộ mà Môi-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, làm về dân Y-sơ-ra-ên trong đồng bằng Mô-áp gần Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô.
64. Trong các người nầy không có một ai thuộc về bọn mà Môi-se và A-rôn, thầy tế lễ, đă kiểm soát khi hai người tu bộ dân Y-sơ-ra-ên tại đồng vắng Si-na-i.
65. V́ Đức Giê-hô-va có phán về bọn đó rằng: Chúng nó hẳn sẽ chết trong đồng vắng! Vậy, chẳng c̣n lại một tên, trừ ra Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, và Giô-suê, con trai Nun.

Dân-số Kư 27    chọn đoạn khác

1. Các con gái của Xê-lô-phát, là con trai Hê-phe, cháu của Ga-la-át, chắt của Ma-ki, chít của Ma-na-se, thuộc về họ hàng Ma-na-se, là con trai của Giô-sép, đến gần; đây là tên của con gái người: Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa.
2. Các con gái đó đến ra mắt Môi-se, Ê-lê-a-sa thầy tế lễ, các quan trưởng, và cả hội chúng tại cửa hội mạc, mà nói rằng:
3. Cha chúng tôi đă chết trong đồng vắng; người chẳng phải về phe đảng của kẻ hiệp lại nghịch cùng Đức Giê-hô-va tức là phe đảng Cô-rê; nhưng người chết v́ tội lỗi ḿnh, và không có con trai.
4. Cớ sao danh cha chúng tôi bị trừ ra khỏi giữa họ người, bởi không có con trai? Hăy cho chúng tôi một phần sản nghiệp giữa anh em của cha chúng tôi.
5. Môi-se bèn đem cớ sự của các con gái ấy đến trước mặt Đức Giê-hô-va.
6. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
7. Các con gái Xê-lô-phát nói có lư; ngươi phải cho chúng nó một phần sản nghiệp giữa anh em của cha chúng nó, tức là phải giao cho chúng nó sản nghiệp của cha chúng nó.
8. Ngươi cũng phải nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Khi một người nào chết không có con trai, th́ các ngươi phải giao sản nghiệp của người lại cho con gái người.
9. Nhược bằng không có con gái, th́ phải giao sản nghiệp cho anh em người.
10. Ví bằng người không có anh em, th́ phải giao sản nghiệp cho chú bác người.
11. Nếu không có chú bác, th́ phải giao sản nghiệp người cho người bà con gần hơn hết; và người ấy sẽ được lấy làm của. Ấy sẽ là một luật lệ để định cho dân Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se.
12. Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hăy lên trên núi A-ba-rim nầy và nh́n xem xứ mà ta đă ban cho dân Y-sơ-ra-ên.
13. Ngươi sẽ nh́n xem xứ đó, rồi ngươi cũng sẽ được về cùng tổ phụ, như A-rôn, anh ngươi, đă được về vậy;
14. bởi v́, tại đồng vắng Xin, các ngươi có bội nghịch mạng lịnh ta, trong lúc hội chúng căi cọ, và v́ trước mặt chúng nó, các ngươi không tôn ta nên thánh về việc nước. Ấy là nước về sự căi cọ tại Ca-đe, trong đồng vắng Xin.
15. Môi-se thưa cùng Đức Giê-hô-va rằng:
16. Lạy Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của thần linh mọi xác thịt, xin Ngài lập trên hội chúng một người
17. để vào ra trước mặt chúng nó khiến chúng nó ra vào, hầu cho hội chúng của Đức Giê-hô-va chớ như con chiên không người chăn.
18. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Hăy chọn lấy Giô-suê con trai của Nun, người có Thần cảm động; phải đặt tay trên ḿnh người;
19. rồi đem người ra mắt Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và cả hội chúng, truyền lịnh cho người trước mặt họ,
20. và trao phần vinh hiển ngươi lại cho người, hầu cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên nghe người.
21. Người phải ra mắt Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, rồi người sẽ v́ Giô-suê cầu hỏi sự xét đoán của u-rim trước mặt Đức Giê-hô-va; theo lịnh Ê-lê-a-sa, người và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên sẽ đi ra và đi vào.
22. Vậy, Môi-se làm y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn ḿnh, chọn lấy Giô-suê để trước mặt Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và trước mặt cả hội chúng,
23. đặt tay trên ḿnh người, và truyền lịnh cho, y như Đức Giê-hô-va đă cậy Môi-se phán dặn vậy.

Dân-số Kư 28    chọn đoạn khác

1. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:
2. Hăy truyền lịnh nầy cho dân Y-sơ-ra-ên mà rằng: Các ngươi phải lo dâng cho ta trong kỳ định lễ vật và thực vật của ta, cùng các của lễ dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho ta.
3. Vậy, ngươi phải nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nầy là của lễ dùng lửa đốt mà các ngươi sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va: Mỗi ngày, hai con chiên con đực giáp năm, không t́ vít, làm của lễ thiêu hằng hiến.
4. Ngươi phải dâng con nầy vào buổi sớm mai và con kia vào buổi chiều tối;
5. c̣n về của lễ chay, th́ phải dâng một phần mười ê-pha bột lọc nhồi với một phần tư hin dầu ô-li-ve ép.
6. Ấy là của lễ thiêu hằng hiến đă lập tại núi Si-na-i. là một của lễ dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va.
7. Lễ quán sẽ bằng một phần tư hin rượu cho mỗi một chiên con. Ngươi phải dâng lễ quán bằng rượu cho Đức Giê-hô-va trong nơi thánh.
8. Ngươi phải dâng chiên con kia vào buổi chiều tối, và làm một của lễ chay và một lễ quán như buổi sớm mai; ấy là một của lễ dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va.
9. Ngày sa-bát, ngươi phải dâng hai chiên con đực giáp năm, không t́ vít, và hai phần mười ê-pha bột lọc nhồi dầu làm của lễ chay với lễ quán cặp theo.
10. Ấy là của lễ thiêu về mỗi ngày sa-bát, ngoại trừ của lễ thiêu hằng hiến và lễ quán cặp theo.
11. Mỗi đầu tháng, các ngươi phải dâng cho Đức Giê-hô-va hai con ḅ đực tơ, một con chiên đực, và bảy chiên con đực giáp năm, không t́ vít, làm của lễ thiêu;
12. ba phần mười ê-pha bột lọc nhồi dầu dùng làm của lễ chay về mỗi con ḅ đực; hai phần mười ê-pha bột lọc nhồi dầu dùng làm của lễ chay về con chiên đực;
13. một phần mười ê-pha bột lọc nhồi dầu dùng làm của lễ chay về mỗi con chiên con. Ấy là một của lễ thiêu có mùi thơm, tức một của lễ dùng lửa dâng cho Đức Giê-hô-va.
14. Lễ quán sẽ bằng phân nửa hin rượu nho về mỗi con ḅ đực, một phần ba hin về con chiên đực và một phần tư hin về mỗi con chiên con. Ấy là của lễ thiêu về các đầu tháng trong năm.
15. Ngoại trừ của lễ thiêu hằng hiến và lễ quán cặp theo, cũng phải dâng cho Đức Giê-hô-va một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
16. Ngày mười bốn tháng giêng, phải giữ lễ Vượt-qua cho Đức Giê-hô-va.
17. Qua ngày mười lăm sẽ là ngày lễ; phải ăn bánh không men trong bảy ngày.
18. Ngày thứ nhứt các ngươi sẽ có sự hội hiệp thánh: chớ nên làm một công việc xác thịt nào.
19. Các ngươi phải dâng cho Đức Giê-hô-va hai con ḅ đực tơ, và bảy chiên con đực giáp năm, đều không t́ vít, làm của lễ thiêu.
20. Của lễ chay sẽ bằng bột lọc nhồi dầu; các ngươi phải dâng ba phần mười ê-pha về một con ḅ đực, hai phần mười ê-pha về con chiên đực,
21. và một phần mười ê-pha về mỗi chiên con,
22. luôn một con dê đực làm của lễ chuộc tội, đặng làm lễ chuộc tội cho các ngươi.
23. Các ngươi phải dâng các lễ vật nầy, ngoài của lễ thiêu buổi sớm mai, là một của lễ thiêu hằng hiến.
24. Mỗi bữa trong bảy ngày, các ngươi phải dâng những lễ vật ngần ấy, như thực vật về của lễ dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va. Người ta phải dâng lễ vật đó ngoài của lễ thiêu hằng hiến và lễ quán cặp theo.
25. Ngày thứ bảy các ngươi sẽ có sự hội hiệp thánh, chớ nên làm một công việc xác thịt nào.
26. Trong kỳ lễ của các tuần, nhằm ngày hoa quả đầu mùa, khi các ngươi dâng cho Đức Giê-hô-va của lễ chay mới, th́ phải có sự hội hiệp thánh; chớ nên làm một công việc xác thịt nào.
27. Các ngươi sẽ dùng hai con ḅ đực tơ, một con chiên đực, và bảy chiên con đực giáp năm, đặng làm của lễ thiêu có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va;
28. của lễ chay sẽ bằng bột lọc nhồi dầu, ba phần mười ê-pha về mỗi con ḅ đực, hai phần mười ê-pha về con chiên đực,
29. một phần mười ê-pha về mỗi con chiên con;
30. cũng phải dâng một con dê đực, để làm lễ chuộc tội cho ḿnh.
31. Ngoài của lễ thiêu hằng hiến và của lễ chay cặp theo, các ngươi cũng phải dâng mấy lễ vật đó, không t́ vít, và thêm những lễ quán cặp theo.

Dân-số Kư 29    chọn đoạn khác

1. Ngày mồng một tháng bảy, các ngươi sẽ có sự nhóm hiệp thánh; chớ nên làm một công việc xác thịt nào; về phần các ngươi, ấy sẽ là một ngày người ta thổi kèn vậy.
2. Các ngươi phải dùng một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, và bảy chiên con đực giáp năm, không t́ vít, dâng làm của lễ thiêu có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va,
3. luôn với của lễ chay bằng bột lọc nhồi dầu, ba phần mười ê-pha về con ḅ đực, hai phần mười ê-pha về con chiên đực,
4. một phần mười ê-pha về mỗi con chiên con;
5. và dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội, để làm lễ chuộc tội cho các ngươi;
6. các ngươi phải dâng những lễ vật nầy ngoài của lễ thiêu đầu tháng, và của lễ chay cặp theo, của lễ thiêu hằng hiến, và của lễ chay với lễ quán cặp theo, tùy theo những lệ đă định về mấy của lễ đó, mà làm của lễ dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va.
7. Ngày mồng mười tháng bảy nầy, các ngươi sẽ có sự nhóm hiệp thánh, phải ép linh hồn ḿnh, chớ nên làm một công việc xác thịt nào.
8. Các ngươi phải dâng một con ḅ đực tơ, một con chiên đực, và bảy chiên con đực giáp năm, không t́ vít, làm của lễ thiêu có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va:
9. của lễ chay sẽ bằng bột lọc nhồi dầu, ba phần mười ê-pha về con ḅ đực, hai phần mười ê-pha về con chiên đực,
10. một phần mười ê-pha về mỗi con chiên con.
11. Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội, ngoài của lễ chuộc tội mà người ta dâng trong ngày chuộc tội, của lễ thiêu hằng hiến và của lễ chay với lễ quán cặp theo.
12. Ngày rằm tháng bảy, các ngươi sẽ có sự nhóm hiệp thánh. Chớ nên làm một công việc xác thịt nào, nhưng các ngươi phải giữ một lễ cho Đức Giê-hô-va trong bảy ngày.
13. Các ngươi phải dùng mười ba con ḅ đực tơ, hai con chiên đực, và mười bốn chiên con đực giáp năm, không t́ vít, dâng làm của lễ thiêu, tức là của lễ dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va:
14. của lễ chay cặp theo sẽ bằng bột lọc nhồi dầu, ba phần mười ê-pha về mỗi con ḅ đực, hai phần mười ê-pha về mỗi con chiên đực,
15. và một phần mười ê-pha về mỗi con chiên con.
16. Các ngươi cũng phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội, ngoài của lễ thiêu hằng hiến, và của lễ chay với lễ quán cặp theo.
17. Ngày thứ hai, các ngươi phải dâng mười hai con ḅ đực tơ, hai con chiên đực, mười bốn chiên con đực giáp năm, không t́ vít,
18. với của lễ chay và các lễ quán về những ḅ đực, chiên đực, và chiên con cứ theo số như lệ đă định.
19. Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội, ngoài của lễ thiêu hằng hiến cùng lễ quán cặp theo.
20. Ngày thứ ba, các ngươi phải dâng mười một con ḅ đực, hai con chiên đực, mười bốn chiên con đực giáp năm, không t́ vít,
21. với của lễ chay và các lễ quán về những ḅ đực, chiên đực và chiên con, cứ theo số như lệ đă định.
22. Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội, ngoài của lễ thiêu hằng hiến, cùng của lễ chay và lễ quán cặp theo.
23. Ngày thứ tư, các ngươi phải dâng mười con ḅ đực, hai con chiên đực, mười bốn chiên con đực giáp năm, không t́ vít,
24. với của lễ chay và các lễ quán về những ḅ đực, chiên đực, và chiên con, cứ theo số như lệ đă định.
25. Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội, ngoài của lễ thiêu hằng hiến, cùng của lễ chay và lễ quán cặp theo.
26. Ngày thứ năm, các ngươi phải dâng chín con ḅ đực, hai con chiên đực, mười bốn chiên con đực giáp năm, không t́ vít,
27. với của lễ chay và các lễ quán về những ḅ đực, chiên đực, và chiên con, cứ theo số như lệ đă định.
28. Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội, ngoài của lễ thiêu hằng hiến, cùng của lễ chay và lễ quán cặp theo.
29. Ngày thứ sáu, các ngươi phải dâng tám con ḅ đực, hai con chiên đực, mười bốn chiên con đực giáp năm, không t́ vít,
30. với của lễ chay và các lễ quán về những ḅ đực; chiên đực, và chiên con, cứ theo số như lệ đă định.
31. Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội, ngoài của lễ thiêu hằng hiến, cùng của lễ chay và lễ quán cặp theo.
32. Ngày thứ bảy, các ngươi phải dâng bảy con ḅ đực, hai con chiên đực, mười bốn chiên con đực giáp năm, không t́ vít,
33. với của lễ chay và các lễ quán về những ḅ đực, chiên đực, và chiên con, cứ theo số như lệ đă định.
34. Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội, ngoài của lễ thiêu hằng hiến, cùng của lễ chay và lễ quán cặp theo.
35. Ngày thứ tám, các ngươi phải có sự nhóm hiệp trọng thể; chớ nên làm một công việc xác thịt nào;
36. phải dùng một con ḅ đực, một con chiên đực, và bảy chiên con đực giáp năm, không t́ vít, dâng làm của lễ thiêu, tức là của lễ dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va,
37. với của lễ chay và các lễ quán về những ḅ đực, chiên đực, và chiên con, cứ theo số như lệ đă định.
38. Các ngươi phải dâng một con dê đực làm của của lễ chuộc tội, ngoài của lễ thiêu hằng hiến, cùng của lễ chay và lễ quán cặp theo.
39. Đó là những lễ vật mà các ngươi phải dâng cho Đức Giê-hô-va trong những ngày lễ trọng thể ḿnh, đặng làm của lễ thiêu, của lễ chay, lễ quán, và làm của lễ thù ân, ngoài những của lễ hứa nguyện, và những của lễ lạc ư của các ngươi.
40. (30:1) Môi-se nói cùng dân Y-sơ-ra-ên mọi điều Đức Giê-hô-va đă phán dặn người.

Dân-số Kư 30    chọn đoạn khác

1. (30:2) Môi-se cũng nói cùng những quan trưởng của các chi phái Y-sơ-ra-ên rằng: Này là điều mà Đức Giê-hô-va đă phán:
2. (30:3) Khi một người nào có hứa nguyện cùng Đức Giê-hô-va, hoặc phát thề buộc lấy ḷng ḿnh phải giữ một sự ǵ, th́ chớ nên thất tín. Mọi lời ra khỏi miệng người, người phải làm theo.
3. (30:4) Khi một người nữ, trong buổi c̣n thơ ấu, ở nhà cha ḿnh, có hứa nguyện cùng Đức Giê-hô-va, và buộc lấy ḷng ḿnh phải giữ một điều chi,
4. (30:5) nếu người cha đă biết lời hứa nguyện nàng, và sự buộc ḷng nàng tự chịu lấy, mà đối với nàng vẫn làm thinh, th́ nàng phải làm y lời hứa nguyện, và giữ mọi sự buộc ḷng ḿnh mà nàng tự chịu lấy.
5. (30:6) C̣n nhược bằng ngày nào cha màng biết mà cấm đi, th́ nàng sẽ không mắc lời hứa nguyện ḿnh hay là các sự buộc ḷng giữ mà nàng đă tự chịu lấy; Đức Giê-hô-va sẽ tha tội cho nàng, v́ cha nàng cấm nàng vậy.
6. (30:7) Nếu người nữ ấy đă kết hôn, hoặc v́ hứa nguyện, hoặc v́ lời chi lỡ ra khỏi môi mà nàng đă chịu lấy một sự buộc ḿnh,
7. (30:8) nhược bằng ngày nào chồng nàng hay mà đối cùng nàng vẫn làm thinh, th́ nàng phải làm y lời hứa nguyện, và giữ những sự buộc ḷng ḿnh mà nàng tự chịu lấy.
8. (30:9) C̣n nếu ngày nào chồng đă biết, cấm nàng đi, hủy lời hứa nguyện mà nàng mắc đó và lời ǵ lỡ ra khỏi môi, mà v́ cớ đó nàng đă buộc lấy ḿnh, th́ Đức Giê-hô-va sẽ tha tội cho nàng.
9. (30:10) Lời hứa nguyện của một người đàn bà góa hoặc một người đàn bà bị để, mọi điều chi người đă buộc ḿnh, th́ phải giữ lấy.
10. (30:11) Nếu một người đàn bà đă hứa nguyện trong nhà chồng ḿnh, hoặc phát thề buộc lấy ḷng ḿnh phải giữ một sự ǵ,
11. (30:12) và nếu chồng đă hay, vẫn làm thinh cùng nàng, không cấm, th́ nàng phải làm y lời hứa nguyện và giữ mọi sự buộc ḷng mà nàng đă tự chịu lấy.
12. (30:13) Nhưng nhược bằng ngày nào chồng nàng hay biết, hủy đi, th́ mọi lời đă ra khỏi môi về những sự hứa nguyện, và về sự buộc ḷng ḿnh sẽ bị hủy đi; chồng nàng đă hủy các lời đó, th́ Đức Giê-hô-va sẽ tha tội cho nàng.
13. (30:14) Chồng nàng có thể ưng hay hủy mọi sự hứa nguyện, và mọi lời thề mà nàng sẽ buộc ḿnh đặng ép linh hồn ḿnh.
14. (30:15) Nhược bằng chồng vẫn làm thinh cùng nàng ngày nay qua ngày mai, như vậy chồng ưng các sự hứa nguyện của nàng; chồng ưng, v́ không nói chi ngày mà người đă hay biết.
15. (30:16) C̣n nếu chồng hủy các sự hứa nguyện một ít lâu sau khi đă hay biết th́ chồng sẽ mang sự h́nh phạt về tội lỗi của vợ ḿnh.
16. (30:17) Đó là các lệ định mà Đức Giê-hô-va truyền cho Môi-se về một người chồng và vợ ḿnh, một người cha và con gái ḿnh, buổi thơ ấu khi c̣n ở nhà cha.

Dân-số Kư 31    chọn đoạn khác

1. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:
2. Hăy báo thù dân Ma-đi-an cho dân Y-sơ-ra-ên; rồi ngươi sẽ được về cùng tổ phụ.
3. Vậy, Môi-se truyền cho dân sự rằng: Trong các ngươi hăy sắm sửa binh khí mà ra trận hăm đánh dân Ma-đi-an đặng báo thù dân đó cho Đức Giê-hô-va.
4. Về mỗi chi phái Y-sơ-ra-ên, các ngươi phải sai một ngàn lính ra trận.
5. Vậy, trong dân Y-sơ-ra-ên người ta cứ mỗi chi phái chọn một ngàn lính, là mười hai ngàn người sắm sửa binh khí đặng ra trận.
6. Môi-se sai mười hai ngàn người đó ra trận, tức là sai một ngàn người về mỗi chi phái, với Phi-nê-a, con trai của Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, đem đi theo ḿnh, những khí giới thánh cùng kèn có tiếng vang.
7. Vậy, chúng giao chiến cùng dân Ma-đi-an, y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se, và giết hết thảy nam đinh.
8. Trong các người bị giết chúng cũng giết năm vua Ma-đi-an, là: Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ, và Rê-ba; cũng lấy gươm giết Ba-la-am, con trai của Bê-ô.
9. Dân Y-sơ-ra-ên bắt đàn bà và con nít Ma-đi-an dẫn theo, cướp hết thảy súc vật, bầy chiên và của cải họ,
10. đốt hết những thành, nhà ở, và hương thôn chúng nó,
11. cũng lấy đem theo hết thảy của đoạt được, bất kỳ người hay vật.
12. Chúng dẫn những kẻ bị bắt và những của đoạt được đến cho Môi-se, cho Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và cho hội dân Y-sơ-ra-ên đương đóng trại tại đồng bằng Mô-áp, gần sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô.
13. Bấy giờ, Môi-se, Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và hết thảy hội trưởng đi ra đón rước chúng binh ngoài trại quân.
14. Môi-se nổi giận cùng các quân trưởng, tức là quan tướng một ngàn quân và quan tướng một trăm quân đi đánh giặc nầy trở về.
15. Môi-se nói cùng họ rằng: Các ngươi để hết thảy người nữ c̣n sống sao?
16. Ḱa, ấy là chúng nó theo mưu kế của Ba-la-am mà dụ dỗ dân Y-sơ-ra-ên cùng thờ Phê-ô, và phạm một tội trọng cùng Đức Giê-hô-va; và tội đó xui cho hội chúng của Đức Giê-hô-va bị tai vạ.
17. Vậy bây giờ, hăy giết hết thảy nam đinh trong bọn con trẻ, và giết người nữ nào đă kết bạn cùng một người nam;
18. nhưng hăy để sống cho các ngươi hết thảy con gái chưa hề kết bạn cùng người nam.
19. C̣n về phần các ngươi, hăy đóng trại ngoài trại quân trong bảy ngày. Ai có giết một người và có đụng đến một xác chết, th́ ai đó cùng kẻ bị bắt, phải dọn cho ḿnh được sạch ngày thứ ba và ngày thứ bảy.
20. Cũng phải làm cho sạch hết thảy áo xống, mọi vật bằng da, mọi vật bằng lông dê, và mọi đồ đạc bằng cây.
21. Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, nói cùng những lính trận đi về, mà rằng: Nầy là điều luật pháp dạy mà Đức Giê-hô-va đă truyền cho Môi-se:
22. vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, ch́,
23. tức là mọi vật đưa vào lửa được, th́ các ngươi phải đưa ngang qua lửa đặng luyện nó; nhưng người ta cũng phải dùng nước tẩy uế mà làm cho nó được sạch nữa. C̣n mọi vật chi không đưa qua lửa được, th́ phải ngâm nó trong nước.
24. Ngày thứ bảy các ngươi phải giặt áo xống ḿnh, th́ sẽ được sạch; đoạn mới được vào trại quân.
25. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:
26. Ngươi, Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và các quan trưởng của những tông tộc, hăy dựng sổ về của giặc mà người ta đă đoạt được, nào người, nào vật,
27. rồi chia của đó cho các người đă ra trận và cho cả hội chúng.
28. Trong phần thuộc về quân binh đă ra trận, hoặc người, hoặc ḅ, hoặc lừa hay chiên, ngươi phải cứ thâu một phần trong năm trăm mà đóng thuế cho Đức Giê-hô-va,
29. tức phải thâu thuế đó trong phân nửa thuộc về quân binh và giao cho Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, làm lễ vật dâng cho Đức Giê-hô-va.
30. C̣n trong phân nửa kia thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, hoặc người, hoặc ḅ, hoặc lừa hay chiên, tức các súc vật, ngươi phải cứ mỗi năm chục mà để riêng ra một, và giao cho người Lê-vi có chức phận coi sóc đền tạm của Đức Giê-hô-va.
31. Môi-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, làm y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se.
32. Vả, của giặc c̣n lại mà quân binh cướp lấy được, là sáu trăm bảy mươi lăm ngàn con chiên cái;
33. bảy mươi hai ngàn con ḅ,
34. sáu mươi mốt ngàn con lừa đực.
35. Người nữ chưa kết bạn cùng người nam nào, hết thảy được ba mươi hai ngàn người.
36. Phân nửa thuộc về kẻ đă đi trận, là ba trăm ba mươi bảy ngàn năm trăm con chiên cái,
37. đóng thuế cho Đức Giê-hô-va là sáu trăm bảy mươi lăm con;
38. ba mươi sáu ngàn con ḅ, đóng thuế cho Đức Giê-hô-va là bảy mươi hai con;
39. ba ngàn năm trăm con lừa đực, và đóng thuế cho Đức Giê-hô-va sáu mươi mốt con;
40. mười sáu ngàn người, và đóng thuế cho Đức Giê-hô-va là ba mươi hai người.
41. Môi-se giao cho Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ của thuế làm lễ vật dâng cho Đức Giê-hô-va, y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se.
42. Phân nửa kia thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, tức là phân nửa mà Môi-se chia ra với phân nửa của quân binh đă đi trận,
43. phân nửa nầy thuộc về hội chúng, số là ba trăm ba mươi bảy ngàn năm trăm con chiên cái,
44. ba mươi sáu ngàn con ḅ,
45. ba mươi ngàn năm trăm con lừa,
46. và mười sáu ngàn người.
47. Trong phân nửa nầy thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, Môi-se cứ mỗi năm chục th́ để riêng ra một, bất luận người hay vật, và giao cho người Lê-vi có chức phận coi sóc đền tạm của Đức Giê-hô-va, y như Đức Giê-hô-va đă phán dặn ḿnh.
48. Những quan trưởng, tức là quan tướng một ngàn quân và quan tướng một trăm quân, đến gần Môi-se
49. mà rằng: Những kẻ tôi tớ ông đă dựng sổ chiến sĩ, là người ở dưới quyền chúng tôi, và không thiếu một tên.
50. Mỗi người trong chúng tôi có đem đến đồ bằng vàng ḿnh đă được, hoặc dây chuyền, hoặc ṿng, hoặc cà-rá, hoặc hoa tai, hoặc kiềng, làm lễ vật dâng cho Đức Giê-hô-va đặng chuộc tội cho ḿnh trước mặt Ngài.
51. Môi-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, bèn nhận lănh vàng, và hết thảy đồ trang sức làm công kỹ.
52. Hết thảy vàng về lễ vật mà những quan tướng một ngàn quân và quan tướng một trăm quân dâng cho Đức Giê-hô-va, cộng là mười sáu ngàn bảy trăm năm mươi siếc-lơ.
53. Vả, mỗi người trong quân binh đều có cướp lấy vật cho ḿnh.
54. Vậy, Môi-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, nhận lănh vàng của quan tướng ngàn quân và trăm quân, rồi đem vào hội mạc làm kỷ niệm về dân Y-sơ-ra-ên trước mặt Đức Giê-hô-va.

Dân-số Kư 32    chọn đoạn khác

1. Vả, con cháu Ru-bên cùng con cháu Gát có bầy súc vật rất nhiều; thấy xứ Gia-ê-xe và xứ Ga-la-át là đất tiện hiệp nuôi bầy súc vật:
2. bèn đến thưa cùng Môi-se, Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và các hội trưởng mà rằng:
3. A-ta-rốt, Đi-bôn, Gia-ê-xe, Nim-ra, Hết-bôn, Ê-lê-a-sa, Sê-bam, Nê-bô và Bê-ôn,
4. xứ mà Đức Giê-hô-va đă đánh bại trước mặt hội chúng Y-sơ-ra-ên, là một xứ tiện hiệp nuôi bầy súc vật, và các tôi tớ ông có bầy súc vật.
5. Lại tiếp rằng: Nếu chúng tôi được ơn trước mặt ông, chớ chi ban xứ nầy cho kẻ tôi tớ ông làm sản nghiệp, xin đừng biểu chúng tôi đi ngang qua sông Giô-đanh.
6. Nhưng Môi-se đáp cùng con cháu Gát và con cháu Ru-bên rằng: Anh em các ngươi há sẽ đi trận, c̣n các ngươi ở lại đây sao?
7. Sao các ngươi xui dân Y-sơ-ra-ên trở ḷng, không khứng đi qua xứ mà Đức Giê-hô-va đă cho?
8. Ấy, tổ phụ các ngươi cũng làm như vậy khi ở từ Ca-đe-Ba-nê-a, ta sai họ đi do thám xứ.
9. V́ tổ phụ các ngươi lên đến đèo Ếch-côn, thấy xứ, rồi xui dân Y-sơ-ra-ên trở ḷng, không khứng vào xứ mà Đức Giê-hô-va đă ban cho.
10. Trong ngày đó, cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va phừng lên và Ngài thề rằng:
11. Những người đi lên khỏi xứ Ê-díp-tô, từ hai mươi tuổi sắp lên, sẽ chẳng hề thấy xứ mà ta đă thề ban cho Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp, v́ các người đó không theo ta cách trung thành,
12. trừ ra Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê, là người Kê-nít, và Giô-suê, con trai của Nun: hai người đó đă theo Đức Giê-hô-va cách trung thành.
13. Ấy vậy, cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi phừng phừng cùng dân Y-sơ-ra-ên, Ngài làm cho dân đó đi lưu lạc trong đồng vắng bốn mươi năm, cho đến chừng nào cả ḍng dơi đă làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va bị tiêu diệt hết.
14. Nầy các ngươi dấy lên thế cho tổ phụ ḿnh, là ḍng dơi tội nhân, đặng gia thêm sức thạnh nộ của Đức Giê-hô-va cùng Y-sơ-ra-ên nữa.
15. V́ nhược bằng các ngươi đi tẻ Ngài ra, th́ Ngài sẽ cứ để dân nầy ở trong đồng vắng, và các ngươi làm cho dân chết sạch hết vậy.
16. Nhưng các người đó đến gần Môi-se mà rằng: Tại đây, chúng tôi sẽ dựng chuồng cho súc vật và thành cho con trẻ chúng tôi;
17. rồi chúng tôi cầm binh khí lập tức đặng đi trước dân Y-sơ-ra-ên cho đến chừng nào đưa dân ấy vào cơi đă phân định cho họ. C̣n con trẻ chúng tôi phải ở trong thành kiên cố, v́ cớ dân bổn xứ.
18. Chúng tôi không trở về nhà chúng tôi trước khi mọi người trong dân Y-sơ-ra-ên chưa lănh được sản nghiệp ḿnh.
19. Chúng tôi sẽ chẳng được chi với dân Y-sơ-ra-ên về bên kia sông Giô-đanh hay là xa hơn, v́ chúng tôi được sản nghiệp ḿnh ở bên nầy sông Giô-đanh, về phía đông.
20. Môi-se đáp cùng các người rằng: Nếu các ngươi làm điều đó, nếu cầm binh khí đặng đi chiến trận trước mặt Đức Giê-hô-va,
21. nếu mọi người cầm binh khí đi ngang qua sống Giô-đanh trước mặt Đức Giê-hô-va, cho đến khi nào đuổi quân-nghịch chạy khỏi trước mặt Ngài,
22. và nếu chỉ trở về sau khi xứ đă phục trước mặt Đức Giê-hô-va, th́ đối cùng Đức Giê-hô-va và Y-sơ-ra-ên, các ngươi sẽ không bị trách móc chi, và đất nầy sẽ làm sản nghiệp cho các ngươi trước mặt Đức Giê-hô-va.
23. C̣n nếu không làm như vậy, nầy các ngươi sẽ phạm tội cùng Đức Giê-hô-va, và phải biết rằng tội chắc sẽ đổ lại trên các ngươi.
24. Vậy, hăy cất thành cho con trẻ ḿnh, cùng dựng chuồng cho bầy súc vật và làm điều các ngươi đă nói.
25. Con cháu Gát và con cháu Ru-bên bèn nói cùng Môi-se rằng: Các tôi tớ ông sẽ làm điều mà chúa tôi phán dặn.
26. Con trẻ, vợ, bầy chiên, và hết thảy súc vật chúng tôi sẽ ở đây trong những thành xứ Ga-la-át;
27. c̣n hết thảy tôi tớ ông sẽ cầm binh khí, đi ngang qua, sẵn ngừa mà chiến trận trước mặt Đức Giê-hô-va, như chúa tôi đă phán dặn.
28. Vậy, Môi-se về phần các người đó truyền lịnh cho Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, cho Giô-suê, con trai Nun, và cho các quan trưởng của những chi phái dân Y-sơ-ra-ên,
29. mà rằng: Nếu con cháu Gát và con cháu Ru-bên cầm binh khí đi ngang qua sông Giô-đanh với các ngươi đặng chiến trận trước mặt Đức Giê-hô-va, và nếu xứ phục các ngươi, th́ các ngươi phải ban cho họ xứ Ga-la-át làm sản nghiệp.
30. Nhưng nếu họ không cầm binh khí mà đi ngang qua với các ngươi, th́ họ sẽ có sản nghiệp giữa các ngươi trong xứ Ca-na-an.
31. Con cháu Gát và con cháu Ru-bên thưa rằng: Chúng tôi sẽ làm điều chi mà Đức Giê-hô-va đă phán cùng kẻ tôi tớ ông.
32. Chúng tôi sẽ cầm binh khí đi qua trong xứ Ca-na-an trước mặt Đức Giê-hô-va; nhưng chúng tôi sẽ lănh sản nghiệp ḿnh về phía bên nầy sông Giô-đanh.
33. Ấy vậy, Môi-se ban cho con cháu Gát, con cháu Ru-bên, và phân nữa chi phái Ma-na-se, là con trai của Giô-sép, nước của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, và nước của Óc, vua xứ Ba-san, tức là ban xứ với những thành nó và các thành địa-hạt ở chung quanh.
34. Con cháu Gát bèn xây cất Đi-bôn, A-ta-rốt, A-rô-e,
35. Ạt-rốt-Sô-phan, Gia-ê-xe, Giô-bê-ha,
36. Bết-Nim-ra, và Bết-Ha-ran, là những thành kiên cố. Cũng dựng chuồng cho bầy súc vật nữa.
37. Con cháu Ru-bên xây cất Hết-bôn, Ê-lê-a-lê, Ki-ri-a-ta-im,
38. Nê-bô, Ba-anh-Mê-ôn, tên các thành nầy bị đổi, và Síp-ma; rồi đặt tên cho các thành nào ḿnh xây cất.
39. Con cháu Ma-ki, là con trai Ma-na-se, đi vào chiếm xứ Ga-la-át và đuổi người A-mô-rít ở trong đó ra.
40. Vậy, Môi-se ban xứ Ga-la-át cho Ma-ki, là con trai Ma-na-se, và người ở tại đó.
41. Giai-rơ, là con trai Ma-na-se, đi chiếm các thôn dân A-mô-rít, đặt tên là thôn Giai-rơ.
42. Nô-bách đi lấy thành Kê-nát với các thành địa hạt, đặt tên là Nô-bách theo chánh danh ḿnh.

Dân-số Kư 33    chọn đoạn khác

1. Nầy là các nơi đóng trại của dân Y-sơ-ra-ên khi họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô tùy theo các đội ngũ, có Môi-se và A-rôn quản lư.
2. Môi-se vâng mạng Đức Giê-hô-va chép sự hành tŕnh của dân chúng, tùy theo các nơi đóng trại. Vậy, nầy là các nơi đóng trại tùy theo sự hành tŕnh của họ.
3. Ngày rằm tháng giêng, tức ngày sau lễ Vượt-qua, dân Y-sơ-ra-ên ra đi từ Ram-se, cách dạn dĩ, có mắt của hết thảy người Ê-díp-tô thấy.
4. Người Ê-díp-tô chôn những kẻ mà Đức Giê-hô-va đă hành hại giữa bọn ḿnh, tức là hết thảy con đầu ḷng: Đức Giê-hô-va đă đoán xét các thần chúng nó.
5. Dân Y-sơ-ra-ên đi từ Ram-se đến đóng trại tại Su-cốt;
6. rồi đi từ Su-cốt đến đóng trại tại Ê-tam, ở cuối đồng vắng.
7. Kế đó, đi từ Ê-tam ṿng về hướng Phi-Ha-hi-rốt, đối ngang cùng Ba-anh-Sê-phôn, và đóng trại trước Mít-đôn.
8. Dân Y-sơ-ra-ên bỏ Phi-Ha-hi-rốt, đi qua giữa biển về hướng đồng vắng đi ba ngày đường ngang đồng vắng Ê-tam, rồi đóng trại tại Ma-ra.
9. Đoạn, đi từ Ma-ra đến Ê-lim; vả, tại Ê-lim có mười hai cái suối và bảy chục cây chà-là, bèn đóng trại tại đó.
10. Dân sự đi từ Ê-lim và đóng trại gần Biển đỏ.
11. Đoạn, di từ Biển đỏ và đóng trại tại đồng vắng Sin.
12. Đi từ đồng vắng Sin và đóng trại tại Đáp-ca.
13. Đi từ Đáp-ca và đóng trại tại A-lúc.
14. Đi từ A-lúc và đóng trại tại Rê-phi-đim, là nơi không có nước cho dân sự uống.
15. Dân Y-sơ-ra-ên đi từ Rê-phi-đim và đóng trại trong đồng vắng Si-na-i.
16. Kế đó, đi từ đồng vắng Si-na-i và đóng trại tại Kíp-rốt Ha-tha-va.
17. Đi từ Kíp-rốt-Ha-tha-va và đóng trại tại Hát-sê-rốt.
18. Đoạn, đi từ Hát-sê-rốt và đóng trại tại Rít-ma.
19. Đi từ Rít-ma và đóng trại tại Ri-môn Phê-rết.
20. Đi từ Ri-môn-Phê-rết và đóng trại tại Líp-na.
21. Đi từ Líp-na và đóng trại tại Ri-sa.
22. Kế đó, đi từ Ri-sa và đóng trại tại Kê-hê-la-tha.
23. Đi từ Kê-hê-la-tha đóng trại tại núi Sê-phe.
24. Đi từ núi Sê-phe và đóng trại tại Ha-ra-đa.
25. Đi từ Ha-ra-đa và đóng trại tại Mác-hê-lốt.
26. Đoạn, đi từ Mác-hê-lốt và đóng trại tại Ta-hát.
27. Đi từ Ta-hát và đóng trại tại Ta-rách.
28. Đi từ Ta-rách và đóng trại tại Mít-ga.
29. Đi từ Mít-ga và đóng trại tại Hách-mô-na.
30. Đi từ Hách-mô-na và đóng trại tại Mô-sê-rốt.
31. Đi từ Mô-sê-rốt và đóng trại tại Bê-be-Gia-can.
32. Đi từ Bê-ne-Gia-can và đóng trại tại Hô-Ghi-gát.
33. Đi từ Hô-Ghi-gát và đóng trại tại Dốt-ba-tha.
34. Đi từ Dốt-ba-tha và đóng trại tại Áp-rô-na.
35. Đoạn, đi từ Áp-rô-na và đóng trại tại Ê-xi-ôn-Ghê-be.
36. Đi từ Ê-xi-ôn-Ghê-be và đóng trại tại đồng vắng Xin, nghĩa là tại Ca-đe.
37. Kế đó, đi từ Ca-đe và đóng trại tại núi Hô-rơ, ở chót đầu xứ Ê-đôm.
38. A-rôn, thầy tế lễ, theo mạng Đức Giê-hô-va lên trên núi Hô-rơ, rồi qua đời tại đó, nhằm ngày mồng một tháng năm, năm thứ bốn mươi sau khi dân Y-sơ-ra-ên đă ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
39. Khi A-rôn qua đời trên núi Hô-rơ, người đă được một trăm hai mươi ba tuổi.
40. Bấy giờ, vua A-rát, là người Ca-na-an, ở miền nam xứ Ca-na-an, hay rằng dân Y-sơ-ra-ên đến.
41. Dân Y-sơ-ra-ên đi từ núi Hô-rơ và đóng trại tại Xa-mô-na.
42. Đi từ Xa-mô-na và đóng trại tại Phu-nôn.
43. Đi từ Phu-nôn và đóng trại tại Ô-bốt.
44. Kế đó, đi từ Ô-bốt và đóng trại tại Y-giê-A-ba-rim, trên bờ cơi Mô-áp.
45. Đi từ Y-giê-A-ba-rim và đóng trại tại Đi-bôn-Gát.
46. Đi từ Đi-bôn-Gát và đóng trại tại Anh-môn-Đíp-la-tha-im.
47. Kế ấy, đi từ Anh-môn-Đíp-la-tha-im và đóng trại tại núi A-ba-rim trước Nê-bô.
48. Đi từ núi A-ba-rim và đóng trại tại đồng bằng Mô-áp gần sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô.
49. Dân Y-sơ-ra-ên đóng trại gần đông Giô-đanh, từ Bết-Giê-si-mốt chi A-bên-Si-tim trong đồng Mô-áp.
50. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se trong đồng Mô-áp gần sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô, mà rằng:
51. Hăy truyền cùng dân Y-sơ-ra-ên mà rằng: Khi nào các ngươi đă đi ngang qua sông Giô-đanh đặng vào xứ Ca-na-an rồi,
52. th́ phải đuổi hết thảy dân của xứ khỏi trước mặt các ngươi, phá hủy hết thảy h́nh tượng chạm và h́nh đúc, cùng đạp đổ các nơi cao của chúng nó.
53. Các ngươi sẽ lănh xứ làm sản nghiệp và ở tại đó; v́ ta đă ban xứ cho các ngươi đặng làm cơ nghiệp.
54. Phải bắt thăm chia xứ ra tùy theo họ hàng các ngươi. Hễ ai số đông, các ngươi phải cho một sản nghiệp lớn hơn; c̣n hễ ai số ít, th́ phải cho một sản nghiệp nhỏ hơn. Mỗi người sẽ nhận lănh phần ḿnh bắt thăm được; phải cứ những chi phái tổ phụ các ngươi mà chia xứ ra.
55. C̣n nếu các ngươi không đuổi dân của xứ khỏi trước mặt ḿnh, th́ những kẻ nào trong bọn họ mà các ngươi c̣n chừa lại, sẽ như gai trong con mắt, và như chông nơi hông các ngươi, chúng nó sẽ theo bắt riết các ngươi tại trong xứ các ngươi ở;
56. rồi xảy đến ta sẽ hành hại các ngươi khác nào ta đă toan hành hại chúng nó vậy.

Dân-số Kư 34    chọn đoạn khác

1. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:
2. Hăy truyền điều nầy cho dân Y-sơ-ra-ên mà rằng: Các ngươi sẽ vào xứ Ca-na-an đặng lănh xứ làm sản nghiệp, tức là xứ Ca-na-an khắp bốn bề:
3. Miền nam sẽ thuộc về các ngươi, từ đồng vắng Xin chạy dài theo Ê-đôm. Ấy vậy, giới hạn của các ngươi về phía nam sẽ chạy từ đầu Biển-mặn về bên hướng đông.
4. Giới hạn nầy chạy ṿng phía nam của núi Ạc-ráp-bim, đi ngang về hướng Xin và giáp phía nam Ca-đe-Ba-nê-a; đoạn chạy qua Hát-sa-Át-đa, và đi ngang hướng Át-môn.
5. Từ Át-môn giới hạn chạy ṿng về lối suối Ê-díp-tô và giáp biển.
6. C̣n về giới hạn phía tây th́ các ngươi sẽ có biển lớn dùng làm hạn, ấy sẽ là giới hạn về phía Tây.
7. Nầy là giới hạn của các ngươi về phía Bắc: Từ biển lớn, các ngươi sẽ chấm núi Hô-rơ làm hạn;
8. từ núi Hô-rơ, các ngươi sẽ chấm tại đầu Ha-mát làm hạn; rồi giới hạn sẽ giáp tại Xê-đát.
9. Giới hạn sẽ chạy về hướng Xíp-rôn và ăn cuối Hát-sa-Ê-nan, đó là giới hạn của các ngươi về phía Bắc.
10. Phía đông các ngươi sẽ chấm ranh ḿnh từ Hát-sa-Ê-nan tới Sê-pham;
11. rồi chạy từ Sê-pham xuống đến Ríp-la về hướng đông của A-in; đoạn chạy xuống và giáp gành biển Ki-nê-rết về phía đông.
12. Rốt lại, giới hạn sẽ chạy xuống về phía sông Giô-đanh và giáp Biển-mặn. Đó là xứ các ngươi sẽ có, cùng các giới hạn nó xung quanh vậy.
13. Môi-se bèn truyền lịnh nầy cho dân Y-sơ-ra-ên mà rằng: Ấy đó là xứ các ngươi sẽ bắt thăm chia ra mà Đức Giê-hô-va đă phán dặn cho chín chi phái và phân nửa của một chi phái.
14. V́ chi phái con cháu Ru-bên, tùy theo tông tộc ḿnh, và chi phái con cháu Gát, tùy theo tông tộc ḿnh, cùng phân nửa chi phái Ma-na-se đă lănh phần sản nghiệp ḿnh rồi.
15. Hai chi phái và nửa chi phái nầy đă nhận lănh sản nghiệp ḿnh ở phía bên kia sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô về hướng đông, tức về phía mặt trời mọc.
16. Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:
17. Đây là tên những người sẽ đứng chia xứ: Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và Giô-suê, con trai Nun.
18. Các ngươi cũng phải cứ mỗi chi phái chọn một quan trưởng đặng chia xứ ra.
19. Đây là tên các người đó: Về chi phái Giu-đa, Ca-lép, con trai Giê-phu-nê;
20. về chi phái con cháu Si-mê-ôn, Sê-mu-ên, con trai A-mi-hút;
21. về chi phái Bên-gia-min, Ê-li-đát, con trai Kít-lon;
22. về chi phái con cháu Đan, một quan trưởng tên là Bu-ki, con trai Giốc-li;
23. về con cháu Giô-sép; về chi phái con cháu Ma-na-se, một quan trưởng tên là Ha-ni-ên, con trai Ê-phát;
24. và về chi phái con cháu Ép-ra-im, một quan trưởng tên là Kê-mu-ên, con trai Síp-tan;
25. về chi phái con cháu Sa-bu-lôn, một quan trưởng tên là Ê-lít-sa-phan, con trai Phác-nát;
26. về chi phái con cháu Y-sa-ca, một quan trưởng tên là Pha-ti-ên, con trai A-xan;
27. về chi phái con cháu A-se, một quan trưởng tên là A-hi-hút, con trai Se-lu-mi;
28. và về chi phái con cháu Nép-ta-li, một quan trưởng tên là Phê-đa-ên, con trai A-mi-hút.
29. Đó là những người mà Đức Giê-hô-va phán biểu đứng chia sản nghiệp cho dân Y-sơ-ra-ên trong xứ Ca-na-an.

Dân-số Kư 35    chọn đoạn khác

1. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se trong đồng Mô-áp, gần sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô, mà rằng:
2. Hăy biểu dân Y-sơ-ra-ên do trong phần sản nghiệp ḿnh đă có, nhường những thành cho người Lê-vi đặng ở; cho luôn một miếng đất ở chung quanh các thành đó.
3. Người Lê-vi sẽ có những thành đặng ở; c̣n đất chung quanh các thành nầy sẽ dùng cho súc vật, cho sản vật, và cho hết thảy thú vật của họ.
4. Đất chung quanh thành mà các ngươi nhường cho người Lê-vi sẽ là một ngàn thước chu vi, kể từ vách thành và ở ngoài.
5. Vậy các ngươi phải đo, phía ngoài thành về hướng đông hai ngàn thước, về hướng nam hai ngàn thước, về hướng tây hai ngàn thước, và về hướng bắc hai ngàn thước; cái thành sẽ ở chính giữa. Đó sẽ là đất của những thành người Lê-vi.
6. Trong số thành các ngươi sẽ nhường cho người Lê-vi, sẽ có sáu cái thành ẩn náu mà các ngươi phải chỉ cho, để kẻ sát nhân trốn tránh tại đó; ngoài sáu thành đó, các ngươi phải nhường cho người Lê-vi bốn mười hai cái thành.
7. Hết thảy thành các ngươi sẽ nhường cho người Lê-vi luôn với đất, số là bốn mươi tám cái.
8. Về những thành do trong sản nghiệp của dân Y-sơ-ra-ên mà các ngươi sẽ nhường cho người Lê-vi phải lấy bớt nhiều hơn của chi phái có nhiều, và lấy bớt ít hơn của chi phái có ít; mỗi chi phái nhường cho người Lê-vi những thành cân phân theo sản nghiệp của ḿnh sẽ được.
9. Đoạn, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng:
10. Hăy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Khi nào các ngươi đă đi qua sông Giô-đanh đặng vào xứ Ca-na-an,
11. th́ phải lựa những thành dùng làm thành ẩn náu cho ḿnh, là nơi kẻ sát nhân, v́ vô ư đánh chết ai, chạy ẩn náu ḿnh được.
12. Những thành đó sẽ dùng làm thành ẩn náu để trốn khỏi kẻ báo thù huyết, hầu cho kẻ sát nhân không chết cho đến chừng nào ứng hầu trước mặt hội chúng đặng chịu xét đoán.
13. Vậy, trong những thành các ngươi nhường cho, sẽ có sáu thành ẩn náu cho các ngươi.
14. Các ngươi phải chỉ ba thành phía bên kia sông Giô-đanh, và lập ba thành khác trong xứ Ca-na-an; ấy sẽ là những thành ẩn náu.
15. Sáu thành nầy sẽ dùng làm chỗ ẩn náu cho dân Y-sơ-ra-ên, luôn cho khách ngoại bang và kẻ nào kiều ngụ ở trong dân đó, để ai v́ vô ư đánh chết một người có thế chạy ẩn ḿnh tại đó.
16. Nhưng nếu người ấy đánh bằng đồ sắt, và người bị đánh chết đi, ấy là một kẻ sát nhân; kẻ sát nhân hẳn phải bị xử tử.
17. Nếu người đánh bằng một cục đá cầm nơi tay có thế làm chết, và người bị đánh chết đi, ấy là một kẻ sát nhân; kẻ sát nhân hẳn phải bị xử tử.
18. Cũng vậy, nếu người đánh bằng đồ cây cầm nơi tay có thế làm chết, và người bị đánh chết đi, ấy là một kẻ sát nhân; kẻ sát nhân hẳn phải bị xử tử.
19. Ấy là kẻ báo thù huyết sẽ làm cho kẻ sát nhân phải chết; khi nào kẻ báo thù huyết gặp kẻ sát nhân th́ phải làm cho nó chết đi.
20. Nếu một người nào v́ ḷng ganh ghét xô lấn một người khác, hay là cố ư liệng vật chi trên ḿnh nó, và v́ cớ đó nó bị chết;
21. hoặc v́ sự thù đánh bằng bàn tay, và v́ cớ đó nó bị chết, th́ người nào đánh đó hẳn phải bị xử tử. Ấy là một kẻ sát nhân; người báo thù huyết khi nào gặp kẻ sát nhân phải làm cho nó chết đi.
22. Nếu v́ t́nh cờ, vẫn ḥa thuận nhau, mà người có lấn xô, hoặc liệng vật chi trên ḿnh người kia,
23. hoặc nếu không phải thù nghịch chẳng có ư làm hại, lại không thấy mà làm rớt một cục đá trên ḿnh người kia, có thế làm chết được, và nếu người chết đi,
24. th́ cứ theo luật lệ nầy, hội chúng phải xử đoán cho kẻ đă đánh và kẻ báo thù huyết:
25. hội chúng sẽ giải cứu kẻ sát nhân khỏi tay người báo thù huyết, và biểu người trở về thành ẩn náu, là nơi người đă chạy ẩn ḿnh; và người phải ở đó cho đến chừng nào thầy tế lễ thượng phẩm đă được xức dầu thánh qua đời.
26. Nhưng nếu kẻ sát nhân đi ra ngoài giới hạn của thành ẩn náu, là nơi người đă chạy ẩn ḿnh,
27. và nếu kẻ báo thù huyết gặp, giết người ở ngoài giới hạn thành ẩn náu, th́ kẻ báo thù huyết sẽ không mắc tội sát nhân.
28. V́ kẻ sát nhân phải ở trong thành ẩn náu cho đến chừng nào thầy tế lễ thượng phẩm qua đời, kẻ sát nhân sẽ được trở về trong sản nghiệp ḿnh.
29. Bất luận các ngươi ở nơi nào, điều nầy phải dùng làm một luật lệ xét đoán cho các ngươi trải qua các đời.
30. Nếu ai giết một người nào, người ta sẽ cứ theo lời khai của những người chứng mà giết kẻ sát nhân; nhưng một người chứng không đủ cớ đặng giết ai.
31. Các ngươi chớ lănh tiền chuộc mạng của một người sát nhân đă có tội và đáng chết, v́ nó hẳn phải bị xử tử.
32. Các ngươi đừng lănh tiền chuộc kẻ đă chạy ẩn ḿnh trong thành ẩn náu, hầu cho nó trở về ở trong xứ sau khi thầy tế lễ qua đời.
33. Các ngươi chớ làm ô uế xứ mà các ngươi sẽ ở; v́ huyết làm ô uế xứ. Nhược bằng có kẻ làm đổ huyết ra trong xứ, nếu không làm đổ huyết nó lại, th́ không thế chuộc tội cho xứ được.
34. Vậy, các ngươi chớ làm ô uế xứ, là nơi các ngươi sẽ ở, và chánh giữa đó là nơi ta sẽ ngự; v́ ta là Đức Giê-hô-va ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên.

Dân-số Kư 36    chọn đoạn khác

1. Vả, những trưởng tộc Ga-la-át, là con trai Ma-ki, cháu Ma-na-se, trong ḍng con cháu Giô-sép, đến gần và nói trước mặt Môi-se cùng trước mặt các tổng trưởng của những chi phái Y-sơ-ra-ên,
2. mà rằng: Đức Giê-hô-va có phán cùng chúa tôi bắt thăm chia xứ cho dân Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp, và chúa tôi có lănh mạng Đức Giê-hô-va giao sản nghiệp của Xê-lô-phát, anh chúng tôi, cho các con gái người.
3. Nếu các con gái kết hôn với một trong những con trai về các chi phái khác của dân Y-sơ-ra-ên, sản nghiệp chúng nó sẽ truất khỏi sản nghiệp của tổ phụ chúng tôi mà thêm vào sản nghiệp của chi phái nào chúng nó sẽ thuộc về; như vậy phần đó phải truất khỏi sản nghiệp đă bắt thăm về chúng tôi.
4. Khi đến năm hân hỉ cho dân Y-sơ-ra-ên, sản nghiệp chúng nó sẽ thêm vào sản nghiệp của chi phái nào chúng nó sẽ thuộc về; như vậy, sản nghiệp chúng nó sẽ truất khỏi sản nghiệp của chi phái tổ phụ chúng tôi.
5. Môi-se bèn truyền các lịnh nầy của Đức Giê-hô-va cho dân Y-sơ-ra-ên mà rằng: Chi phái con cháu Giô-sép nói có lư.
6. Nầy là điều Đức Giê-hô-va có phán về phần các con gái Xê-lô-phát: Chúng nó muốn kết thân với ai th́ muốn, những chỉ hăy kết thân với một trong những nhà của chi phái tổ phụ ḿnh.
7. Như vậy, trong dân Y-sơ-ra-ên, một sản nghiệp nào chẳng được từ chi phái nầy đem qua chi phái khác, v́ mỗi người trong dân Y-sơ-ra-ên sẽ ở đeo theo sản nghiệp về chi phái tổ phụ ḿnh.
8. Phàm người con gái nào được một phần sản nghiệp trong một của các chi phái Y-sơ-ra-ên, th́ phải kết thân cùng một người của một nhà nào về chi phái tổ phụ ḿnh, hầu cho mỗi người trong dân Y-sơ-ra-ên hưởng phần sản nghiệp của tổ phụ ḿnh.
9. Vậy, một phần sản nghiệp nào chẳng được từ chi phái nầy đem qua chi phái kia; nhưng mỗi chi phái Y-sơ-ra-ên sẽ giữ sản nghiệp ḿnh vậy.
10. Các con gái Xê-lô-phát làm như Đức Giê-hô-va đă phán dặn Môi-se.
11. Mách-la, Thiệt-sa, Hốt-la, Minh-ca, và Nô-a, các con gái của Xê-lô-phát, đều kết thân cùng các con trai của cậu ḿnh.
12. Chúng nó kết thân trong những nhà của con cháu Ma-na-se, là con trai Giô-sép, và phần sản nghiệp họ c̣n lại trong chi phái tổ phụ ḿnh.
13. Đó là các mạng lịnh và luật lệ mà Đức Giê-hô-va đă cậy Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên, tại trong đồng bằng Mô-áp, gần sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô.