[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22]
1 Các Vua 1
chọn đoạn khác
1. Vua Ða-vít đã già; tuổi cao; và mặc dầu người ta đắp áo cho người, cũng không
thể ấm được.
2. Các tôi tớ người nói với người rằng: Xin tìm cho vua chúa tôi một gái trẻ
đồng trinh, để hầu hạ vua và săn sóc vua. Nàng sẽ nằm trong lòng vua, thì vua
chúa tôi có thể ấm được.
3. Vậy người ta tìm trong khắp địa phận Y-sơ-ra-ên một người gái trẻ đẹp, và gặp
được A-bi-sác, người Su-nem, dẫn nàng đến cùng vua.
4. Người gái trẻ này rất là lịch sự. Nàng săn sóc và hầu hạ vua; nhưng vua không
thân cận nàng.
5. Vả, A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, tự tôn mà rằng: Ta sẽ làm vua. Người sắm
xe và quân kỵ, cùng năm mươi người chạy trước mặt mình.
6. Cha người chẳng hề phiền lòng người mà hỏi rằng: Cớ sao mầy làm như vậy? Vả
lại, A-đô-ni-gia rất đẹp, sanh ra kế sau Áp-sa-lôm.
7. Người bàn tính với Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia và với thầy tế lễ
A-bia-tha; hai người theo phe A-đô-ni-gia và giúp đỡ người.
8. Nhưng thầy tế lễ Xa-đốc và Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, Na-than, thầy
tiên tri, Si-mê-i, Rê-i, và các dõng sĩ của Ða-vít không theo phe A-đô-ni-gia.
9. A-đô-ni-gia dâng những chiên, bò, và bò con mập bên hòn đá Xô-hê-lết, ở cạnh
giếng Ên-Rô-ghên; rồi mời anh em mình, là các con trai của vua, và hết thảy
những người Giu-đa phục sự vua.
10. Nhưng người chẳng mời Na-than, là đấng tiên tri, Bê-na-gia, các dõng sĩ,
cùng Sa-lô-môn, em mình.
11. Bấy giờ, Na-than nói với Bát-Sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn, mà rằng: Bà há chẳng
hay rằng A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đã làm vua, mà Ða-vít, chúa ta, chẳng
hay biết sao?
12. Thế thì, bây giờ, hãy nghe; tôi sẽ cho bà một kế để bà cứu mạng sống mình và
mạng sống của Sa-lô-môn.
13. Hãy đi ra mắt vua Ða-vít, và tâu rằng: Ôi vua, chúa tôi! chúa há chẳng có
thề cùng con đòi của chúa rằng: Con trai ngươi là Sa-lô-môn ắt sẽ trị vì?
14. Trong lúc bà tâu với vua như vậy, thì chính tôi cũng sẽ đi vào sau, làm cho
quả quyết các lời của bà.
15. Vậy, Bát-Sê-ba đi đến cùng vua, tại trong phòng. Vua đã già lắm có A-bi-sác,
người Su-nem, hầu hạ người.
16. Bát-Sê-ba cúi mình xuống và lạy trước mặt vua. Vua hỏi rằng: Ngươi muốn chi?
17. Bà tâu rằng: Chúa tôi ôi! chúa đã nhơn danh Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúa thề
cùng con đòi của chúa rằng: Sa-lô-môn con trai ngươi sẽ trị vì kế ta, và nó sẽ
ngồi trên ngôi ta.
18. Ôi vua chúa tôi! nhưng bây giờ, A-đô-ni-gia làm vua, mà chúa chẳng biết chi
đến.
19. Người lại có giết bò đực, bò tơ mập, và chiên rất nhiều, cũng có mời hết
thảy các vương tử với A-bia-tha, thầy tế lễ, và Giô-áp, quan tổng binh; nhưng
người không mời Sa-lô-môn, kẻ tôi tớ vua.
20. Ôi vua chúa tôi! cả Y-sơ-ra-ên đều xây mắt về vua, đợi vua cho họ biết ai là
người kế vua phải ngồi trên ngai của vua, là chúa tôi.
21. Chẳng vậy, khi vua chúa tôi an giấc với các tổ phụ, thì tôi và con trai tôi
là Sa-lô-môn sẽ bị xử như kẻ có tội.
22. Bà đương còn tâu với vua, thì tiên tri Na-than đến.
23. Người ta đến thưa cùng vua rằng: Nầy có tiên tri Na-than. Na-than ra mắt
vua, sấp mình xuống trước mặt người mà lạy.
24. và nói rằng: Ôi vua chúa tôi! có phải vua đã phán rằng: A-đô-ni-gia sẽ trị
vì kế ta và ngồi trên ngai ta, chăng?
25. Thật vậy, ngày nay, người đã đi xuống giết bò, bò tơ mập, và chiên rất
nhiều, cùng mời hết thảy các vương tử, quan tướng, và thầy tế lễ A-bia-tha; kìa,
họ ăn uống tại trước mặt người, và la lên rằng: A-đô-ni-gia vạn tuế!
26. Còn tôi là kẻ tôi tớ vua, thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia, con trai
Giê-hô-gia-đa, và Sa-lô-môn, tôi tớ vua, thì người chẳng có mời.
27. Việc này há phải bởi vua chúa tôi mà ra? Và lại vua không cho các tôi tớ vua
biết ai là người kế vua, phải ngồi trên ngai của vua chúa tôi.
28. Vua Ða-vít đáp rằng: Hãy gọi Bát-Sê-ba cho ta. Bà vào và đứng trước mặt vua.
29. Ða-vít bèn thề mà rằng: Nguyện Ðức Giê-hô-va hằng sống, là Ðấng đã giải cứu
mạng sống ta khỏi các hoạn nạn!
30. Ta nhơn danh Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên mà thề cùng ngươi rằng:
Quả hẳn Sa-lô-môn, con trai ngươi, sẽ trị vì kế ta, nó sẽ ngồi trên ngai thế cho
ta; thì ngày nay ta sẽ làm hoàn thành điều đó.
31. Bát-Sê-ba cúi mặt xuống đất và lạy trước mặt vua, mà tâu rằng: Nguyện vua
Ða-vít, chúa tôi, vạn tuế!
32. Ðoạn, vua Ða-vít nói: Hãy gọi cho ta thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, và
Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa. Mấy người ấy bèn ra mắt vua.
33. Rồi vua nói với họ rằng: Hãy đem các đầy tớ của chủ các ngươi theo, đỡ
Sa-lô-môn, con trai ta, lên cỡi con la của ta, rồi đưa nó đến Ghi-hôn.
34. Ở đó, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than phải xức dầu cho người làm vua
Y-sơ-ra-ên. Ðoạn, các ngươi hãy thổi kèn lên mà họ rằng:
35. Vua Sa-lô-môn vạn tuế! Các ngươi sẽ theo sau người mà ta đã lập làm vua của
Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
36. Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa tâu cùng vua rằng: A-men! Giê-hô-va Ðức
Chúa Trời của vua chúa tôi, cũng phán định như vậy.
37. Ðức Giê-hô-va đã ở cùng vua chúa tôi thể nào, nguyện Ngài cũng ở cùng
Sa-lô-môn thể ấy, và khiến ngôi người còn cao trọng hơn ngôi của vua Ða-vít, là
chúa tôi!
38. Ðoạn, thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con trai
Giê-hô-gia-đa, những người Kê-rê-thít và Phê-lê-thít, đều đi xuống, đỡ Sa-lô-môn
lên cỡi con la của vua Ða-vít rồi đưa người đến Ghi-hôn.
39. Thầy tế lễ Xa-đốc lấy cái sừng dầu trong Ðền tạm, và xức cho Sa-lô-môn.
Người ta thổi kèn, cả dân sự đều hô lên rằng: Vua Sa-lô-môn vạn tuế!
40. Chúng đều theo người đi lên, thổi sáo, và vui mừng khôn xiết, đến nỗi đất
rúng động bởi tiếng la của họ.
41. A-đô-ni-gia và hết thảy kẻ dự tiệc với mình đều nghe tiếng này khi vừa ăn
xong. Lúc Giô-áp nghe tiếng kèn, thì nói: Sao trong thành có tiếng xôn xao ấy?
42. Người hãy còn nói, kìa Giô-na-than, con trai thầy tế lễ A-bia-tha, chợt đến.
A-đô-ni-gia nói với người rằng: Hãy vào, vì ngươi là một tay dõng sĩ, chắc ngươi
đem những tin lành.
43. Nhưng Giô-na-than đáp với A-đô-ni-gia rằng: Thật trái hẳn. Vua Ða-vít, chúa
chúng ta, đã lập Sa-lô-môn làm vua.
44. Vua có sai thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia, con trai
Giê-hô-gia-đa, người Kê-rê-thít cùng người Phê-lê-nít đi theo người, và họ đã đỡ
người lên cỡi con la của vua.
45. Ðoạn, tại Ghi-hôn, thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than đã xức dầu cho
người làm vua; họ đã từ đó trở lên cách reo mừng, và cả thành đều vang động. Ðó
là tiếng xôn xao mà các ông đã nghe.
46. Lại, Sa-lô-môn đã ngồi trên ngôi nước;
47. các tôi tớ của vua đến chúc phước cho vua Ða-vít, chúa chúng ta, mà tâu
rằng: Nguyện Ðức Chúa Trời của vua làm cho danh Sa-lô-môn tôn vinh hơn danh của
vua, và khiến cho ngôi người cao trọng hơn ngôi của vua! Rồi cúi lạy nơi giường
mình;
48. và có nói như vầy: Ðáng khen ngợi thay Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên, vì ngày nay Ngài có ban một người để ngồi trên ngôi của tôi mà mắt
tôi xem thấy.
49. Bấy giờ, hết thảy các người dự tiệc với A-đô-ni-gia đều bắt sợ hãi, đứng
dậy, ai đi đường nấy.
50. A-đô-ni-gia cũng sợ Sa-lô-môn hay điều đó, rằng: Nầy, A-đô-ni-gia sợ vua
Sa-lô-môn; kìa người đã nắm các sừng bàn thờ.
51. Có người đến thuật cho Sa-lô-môn hay điều đó, rằng: Nầy, A-đô-ni-gia sợ vua
Sa-lô-môn; kìa người đã nắm các sừng bàn thờ, mà nói rằng: Hôm nay, vua
Sa-lô-môn hãy thề với tôi rằng vua sẽ không giết đầy tớ người bằng gươm.
52. Sa-lô-môn đáp rằng: Nếu người ăn ở ra người tử tế, thì chẳng một sợi tóc nào
của người sẽ rụng xuống đất; bằng có thấy sự ác nơi người, ắt người sẽ chết.
53. Vua Sa-lô-môn sai kẻ đem người xuống khỏi bàn thờ. A-đô-ni-gia đến sấp mình
xuống trước mặt Sa-lô-môn; Sa-lô-môn bèn nói với người rằng: Hãy trở về nhà
ngươi.
1 Các Vua 2
chọn đoạn khác
1. Khi ngày của Ða-vít hầu trọn, người truyền lịnh cho Sa-lô-môn, con trai mình,
mà rằng:
2. Ta hầu đi con đường chung của thế gian, khá mạnh dạn và nên người trượng phu!
3. Hãy giữ điều Giê-hô-va Ðức Chúa Trời muốn con giữ, để đi trong đường lối
Ngài, gìn giữ những luật pháp, điều răn, mạng lịnh, và sự dạy dỗ của Ngài, y như
đã chép trong luật pháp của Môi-se, hầu cho con làm điều chi hay là đi nơi nào
cũng đều được thành công,
4. và Ðức Giê-hô-va sẽ làm ứng nghiệm lời Ngài đã phán về ta, rằng: Nhược bằng
các con trai ngươi cẩn thận về đường lối mình, hết lòng, hết ý theo lẽ thật mà
đi ở trước mặt ta, thì ngươi sẽ chẳng hề thiếu người ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên.
5. Con biết sự Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đã làm cho cha, sự nó đã làm cho hai
quan tướng của Y-sơ-ra-ên, là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, và A-ma-sa, con trai
của Giê-the, là hai người nó đã giết, làm đổ huyết ra trong lúc hòa bình như
trong cơn chiến trận, và khiến cho huyết đổ ra trong chiến trận dính vào đai nó
thắt lưng, cùng vào giày nó mang nơi chơn.
6. Con hãy cứ sự khôn ngoan con mà cư xử, chớ để đầu bạc nó xuống âm phủ cách
bình yên.
7. Con hãy ở với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át, cách nhơn từ cho họ ăn
đồng bàn cùng con; vì chính chúng nó đã đãi cha như vậy, mà đến đón rước cha,
lúc cha chạy trốn trước mặt Áp-sa-lôm, anh con.
8. Nầy còn kẻ ở với con, là Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở
A-hu-rim, là kẻ lấy những lời độc ác mà nguyền rủa cha trong ngày cha đi đến
Ma-ha-na-im; nhưng nó xuống đón cha tại Giô-đanh, thì cha đã nhơn danh Ðức
Giê-hô-va mà thề với nó rằng: Ta sẽ chẳng giết ngươi bằng gươm.
9. Bây giờ, con chớ để nó khỏi phạt, vì con là khôn ngoan, biết thế nào phải xử
nó: con khá làm cho đầu bạc nó dính máu mà xuống âm phủ.
10. Ða-vít an giấc với các tổ phụ mình, và được chôn trong thành Ða-vít.
11. Những ngày Ða-vít trị vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm: người trị vì bảy
năm tại Hếp-rôn, và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem.
12. Ðoạn, Sa-lô-môn ngồi trên ngai Ða-vít, cha mình, và nước người được lập rất
vững bền.
13. A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đến cùng Bát-sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn. Bà nói:
Ngươi đến có ý bình an chớ? Người thưa rằng: Phải, có ý bình an.
14. Người lại rằng: Tôi có một lời nói cùng bà. Bà đáp: Hãy nói.
15. Người tiếp: Bà biết rằng nước vốn thuộc về tôi, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong
thấy tôi trị vì; nhưng ngôi nước đã trở nên của em tôi, vì do nơi Ðức Giê-hô-va
mà thuộc về người.
16. Vậy bây giờ, tôi có một sự xin với bà, chớ từ chối. Bà đáp: Hãy nói.
17. Người nói: Xin bà hãy nói với vua Sa-lô-môn (vì người chẳng chối gì với bà),
và cầu người cho tôi lấy A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ.
18. Bát-Sê-ba đáp: Ðược, ta sẽ nói với vua giùm cho ngươi.
19. Bát-Sê-ba đi đến vua Sa-lô-môn, để nói với người giùm cho A-đô-ni-gia. Vua
đứng dậy đi đón bà, cúi xuống lạy bà; đoạn, người ngồi trên ngai mình, và sai
đặt một ngai khác cho mẹ mình; bà bèn ngồi bên tay hữu vua.
20. Bà nói với vua rằng: Mẹ có một việc nhỏ xin con, con chớ từ chối. Vua đáp:
Mẹ ôi! xin hãy nói; vì tôi sẽ chẳng từ chối với mẹ đâu.
21. Bà tiếp: Hãy ban A-bi-sác, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, là anh con.
22. Nhưng vua Sa-lô-môn thưa cùng mẹ mình rằng: Cớ sao mẹ xin A-bi-sác, người
Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Cũng hãy xin nước cho người luôn, vì người là anh cả
tôi; hãy xin cho người, cho thầy tế lễ A-bia-tha, và cho Giô-áp, con trai
Xê-ru-gia.
23. Vua Sa-lô-môn bèn chỉ Ðức Giê-hô-va mà thề rằng: A-đô-ni-gia có nói lời đó
nghịch với mạng sống mình; bằng chẳng, nguyện Ðức Chúa Trời xử tôi cách nặng nề!
24. Bây giờ, tôi chỉ Ðức Giê-hô-va hằng sống, là Ðấng đã làm cho tôi vững vàng,
và khiến tôi ngồi trên ngai của Ða-vít, cha tôi, cùng lập một nhà cho tôi y như
lời Ngài đã hứa, mà thề rằng: A-đô-ni-gia sẽ bị xử tử chính ngày hôm nay.
25. Vua Sa-lô-môn bèn truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, xông
đánh A-đô-ni-gia, thì người chết.
26. Ðoạn, vua nói với thầy tế lễ A-bia-tha rằng: Hãy lui về A-na-tốt, trong đất
ngươi, vì ngươi đáng chết. Song ngày nay ta không giết ngươi, vì ngươi có khiêng
hòm giao ước của Chúa Giê-hô-va, trước mặt Ða-vít, là cha ta, và bởi vì ngươi đã
bị hoạn nạn trong các sự hoạn nạn của cha ta.
27. Như vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha ra đi không cho làm thầy tế lễ của Ðức
Giê-hô-va nữa, hầu cho lời của Ðức Giê-hô-va đã phán về nhà Hê-li, tại Si-lô,
được ứng nghiệm.
28. Tin này thấu đến Giô-áp. (Vả Giô-áp đã theo phe A-đô-ni-gia, dầu không có
theo phe của Áp-sa-lôm). Người liền trốn đến Ðền tạm của Ðức Giê-hô-va, và nắm
sừng của bàn thờ.
29. Người ta đến tâu với vua Sa-lô-môn rằng: Giô-áp đã trốn đến Ðền tạm của Ðức
Giê-hô-va, và kìa người đứng bên cạnh bàn thờ. Sa-lô-môn bèn sai Bê-na-gia, con
trai Giê-hô-gia-đa, mà dặn rằng: Hãy đi đánh giết hắn đi.
30. Bê-na-gia đi đến Ðền tạm của Ðức Giê-hô-va, nói cùng Giô-áp rằng: Vua có nói
như vầy: Hãy ra khỏi đó. Giô-áp đáp: Không; ta muốn chết tại đây. Bê-na-gia đi
thuật lại cho vua, và tâu rằng: Giô-áp đã nói và đáp lại như vậy.
31. Vua nói rằng: Hãy làm y như hắn nó. Hãy giết hắn và chôn đi. Như vậy, ngươi
sẽ cất khỏi ta và khỏi nhà cha ta huyết mà Giô-áp đã đổ ra vô cớ.
32. Ðức Giê-hô-va sẽ khiến huyết hắn đổ lại trên đầu hắn, vì hắn đã xông vào hai
người công bình hơn, tốt hơn hắn, và giết họ bằng gươm, mà Ða-vít, cha ta, không
hay đến chi cả: ấy là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, quan tướng của đạo binh
Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con trai Giê-the.
33. Huyết hai người ấy sẽ đổ lại trên đầu Giô-áp và trên đầu của dòng dõi nó cho
đến đời đời; còn phần Ða-vít và dòng dõi người, nhà và ngôi nước người sẽ nhờ
Ðức Giê-hô-va mà được bình yên mãi mãi.
34. Vậy, Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, trở lên xông vào Giô-áp và giết
người. Người được chôn ở nhà người, tại nơi đồng vắng.
35. Vua đặt Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, làm quan tổng binh thay cho
Giô-áp, và lập Xa-đốc làm thầy tế lễ thay cho A-bia-tha.
36. Ðoạn, vua sai đòi Si-mê-i, và nói với người rằng: Hãy cất cho ngươi một cái
nhà tại Giê-ru-sa-lem, và ở đó; chớ ra đặng đi đầu này đầu kia.
37. Vì khá biết rằng ngày nào ngươi ra khỏi đó, và đi qua khe Xết-rôn, thì chắc
ngươi sẽ chết: huyết ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.
38. Si-mê-i thưa với vua rằng: Lời ấy phải lắm, vua chúa tôi phán dặn điều gì,
kẻ tôi tớ vua sẽ làm điều đó. Vậy, Si-mê-i ở lâu ngày tại Giê-ru-sa-lem.
39. Cuối ba năm, xảy có hai kẻ tôi tớ của Si-mê-i trốn đến nhà A-kích, con trai
Ma-a-ca, vua của Gát. Người ta đến thuật điều đó cho Si-mê-i mà rằng: Kìa, hai
kẻ tôi tớ ông ở tại Gát.
40. Si-mê-i chổi dậy, thắng lừa mình, đi đến Gát, nơi nhà A-kích, đặng tìm hai
kẻ tôi tớ mình. Gặp đoạn, bèn dẫn chúng nó về.
41. Người ta thuật cho Sa-lô-môn rằng Si-mê-i ở Giê-ru-sa-lem đã đi đến Gát, rồi
trở về.
42. Vua sai đòi Si-mê-i mà phán rằng: Ta há chẳng có bắt ngươi chỉ Ðức Giê-hô-va
mà thề, và bảo ngươi trước rằng: Khá biết rằng ngày nào ngươi ra, và đi đầu này
đầu kia, thì ngươi chắc sẽ chết sao? Và ngươi có thưa cùng ta rằng: Lời tôi đã
nghe, thậm phải?
43. Vậy, cớ sao ngươi không giữ lời chỉ Ðức Giê-hô-va mà thề, và mạng lịnh Ðức
Giê-hô-va truyền cho ngươi?
44. Vua lại nói với Si-mê-i rằng: Ngươi biết mọi sự ác ngươi đã làm cho Ða-vít,
là cha ta, mà lòng ngươi vẫn còn nhớ lắm. Vậy nên Ðức Giê-hô-va sẽ khiến sự ác
của ngươi đổ lại tên đầu ngươi.
45. Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được phước, và ngôi của Ða-vít sẽ được lập vững bền
đến đời đời.
46. Ðoạn, vua truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa; người bèn đi ra
đánh giết Si-mê-i. Như vậy, ngôi nước được vững bền trong tay Sa-lô-môn.
1 Các Vua 3
chọn đoạn khác
1. Sa-lô-môn kết thân với Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, cưới con gái người, rước nàng
về thành Ða-vít, đợi xây cất xong cung điện riêng mình, đền của Ðức Giê-hô-va,
và tường thành chung quanh Giê-ru-sa-lem.
2. Dân sự hãy còn dâng của lễ trên các nơi cao, vì cho đến bấy giờ chưa có xây
cất đền nào cho danh Ðức Giê-hô-va.
3. Sa-lô-môn kính mến Ðức Giê-hô-va, và đi theo các luật lệ của Ða-vít, cha
mình; song người dâng của lễ và xông hương tại trên nơi cao.
4. Vua đi đến Ga-ba-ôn đặng dâng của lễ tại đó, vì nơi cao ấy là trọng nhất;
trên bàn thờ đó Sa-lô-môn dâng một ngàn con sinh làm của lễ thiêu.
5. Tại Ga-ba-ôn, lúc ban đêm, Ðức Giê-hô-va hiện đến cùng Sa-lô-môn trong cơn
chiêm bao, và phán với người rằng: Hãy xin điều gì ngươi muốn ta ban cho ngươi.
6. Sa-lô-môn thưa rằng: Chúa đã lấy ơn lớn đãi kẻ tôi tớ Chúa, là Ða-vít, cha
tôi, theo như người lấy sự trung tín, sự công bình và lòng ngay trọn vẹn mà đi
trước mặt Ðức Giê-hô-va; lại Chúa có giữ ơn lớn ấy cho người, mà ban cho người
một con trai ngồi trên ngai của người, y như đã có ngày nay.
7. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ôi! bây giờ Chúa đã khiến kẻ tôi tớ Chúa trị vì kế
Ða-vít, là cha tôi; nhưng tôi chỉ là một đứa trẻ nhỏ chẳng biết phải ra vào làm
sao.
8. Kẻ tôi tớ Chúa ở giữa dân của Chúa chọn, là một dân đông vô số, không thể đếm
được.
9. Vậy, xin ban cho kẻ tôi tớ Chúa tấm lòng khôn sáng, để đoán xét dân sự Ngài
và phân biệt điều lành điều dữ; vì ai có thể đoán xét dân rất lớn này của Chúa?
10. Lời của Sa-lô-môn đẹp lòng Chúa, vì người đã cầu xin sự đó.
11. Ðức Chúa Trời phán với người rằng: Bởi vì ngươi đã cầu xin điều này, mà
không xin sự sống lâu, không xin sự giàu có, cũng không xin mạng của những kẻ
thù nghịch ngươi, nhưng xin sự thông minh để biết xét đoán,
12. nầy, ta đã làm theo lời cầu xin của ngươi, ban cho ngươi tấm lòng khôn ngoan
thông sáng đến đỗi trước ngươi chẳng có ai bằng, và sau ngươi cũng sẽ chẳng có
ai ngang.
13. Vả lại, ta cũng đã ban cho ngươi những điều ngươi không xin, tức là sự giàu
có và sự vinh hiển, đến đỗi trọn đời ngươi, trong vòng các vua, sẽ chẳng có ai
giống như ngươi.
14. Lại nếu ngươi đi trong đường lối ta, như Ða-vít, cha ngươi, đã đi, thì ta sẽ
khiến cho ngươi được sống lâu ngày thêm.
15. Bấy giờ, Sa-lô-môn thức dậy, thấy là một điềm chiêm bao. Người trở về
Giê-ru-sa-lem, đứng trước mặt hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va, dâng của lễ thiêu
cùng của lễ thù ân, và đãi tiệc cho hết thảy tôi tớ mình.
16. Bấy giờ, có hai con bợm đến cùng vua, đứng trước mặt vua.
17. Một đứa nói: Chúa tôi ôi! người đờn bà này và tôi ở chung nhau một nhà, và
tôi đẻ bên người trong nhà đó.
18. Sau bà ngày, người này cũng đẻ; chúng tôi ở chung nhau, chẳng một người lạ
nào ở với chúng tôi trong nhà; chỉ có hai chúng tôi ở đó mà thôi.
19. Lúc ban đêm, con trai của người nầy chết, bởi vì người đã nằm đè trên nó.
20. Ðêm khuya người chổi dậy, và trong khi con đòi vua ngủ, thì người lấy con
trai tôi khỏi bên tôi, mà để nó nằm trong lòng mình; rồi đặt con trai chết của
nó nằm trong lòng tôi.
21. Sáng sớm, tôi thức dậy đặng cho con trai tôi bú, thì thấy nó đã chết; nhưng
sáng rõ, tôi nhìn nó kỹ càng, thấy chẳng phải là con trai tôi đã đẻ.
22. Người đờn bà kia trả lời rằng: Không phải vậy; vì đứa sống là con trai tao,
đứa chết là con trai mầy. Song đờn bà này nói: Không phải vậy đâu; đứa chết là
con trai mầy, còn đứa sống là con trai tao. Hai người cãi nhau như vậy trước mặt
vua.
23. Vua bèn phán rằng: Người này nói: Ðứa còn sống là con trai tao, và đứa chết
là con trai mầy. Người kia nói: Không phải vậy đâu; song con trai mầy ấy là đứa
chết, và con trai tao ấy là đứa sống.
24. Vua bèn tiếp rằng: Vậy, hãy đem cho ta một cây gươm. Người ta đem cho vua
một cây gươm.
25. Vua lại phán: Hãy chia đứa trẻ sống làm hai; phân nửa cho người nầy và phân
nửa cho người kia.
26. Nhưng mẹ của đứa trẻ sống, vì gan ruột cảm động thương yêu con mình, bèn tâu
với vua rằng: Ôi chúa tôi! Xin hãy cho người kia con trẻ sống, chớ giết nó.
Nhưng người kia nói rằng: Nó sẽ chẳng thuộc về tao, cũng chẳng thuộc về mầy; hãy
chia nó đi.
27. Bấy giờ, vua cất tiếng phán rằng: Hãy cho người nầy đứa trẻ sống, chớ giết
nó ấy là mẹ nó.
28. Cả Y-sơ-ra-ên đều nghe sự đoán xét mà vua đã làm, thì bắt kính sợ vua, vì
thấy trong lòng người có sự khôn ngoan của Ðức Chúa Trời đặng xử đoán công bình.
1 Các Vua 4
chọn đoạn khác
1. Vua Sa-lô-môn trị vì trên cả Y-sơ-ra-ên.
2. Nầy là các triều thần của người: A-xa-ria, con trai thầy tế lễ Xa-đốc;
3. Ê-li-ô-rếp và A-hi-gia, con trai của Si-na, làm ký lục; Giê-hô-sa-phát, con
trai A-hi-lút, làm thủ bộ;
4. Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, làm tổng binh, Xa-đốc và A-bia-tha làm
thầy tế lễ.
5. A-xa-ria, con trai na-than, làm đầu các quan lại; Xa-bút, con trai Na-than,
làm tể tướng và là bạn của vua;
6. A-hi-sa, làm quan cai cung điện; và A-đô-ni-ram, con trai Áp-đa, coi việc
cống thuế.
7. Sa-lô-môn có mười hai người làm đầu quan lại cai trị cả Y-sơ-ra-ên, để cung
cấp lương thực cho vua và cho nhà vua: mỗi người trong một năm phải cung cấp một
tháng.
8. Nầy là các tên họ: Con trai Hu-rơ, coi về trong núi Ép-ra-im;
9. con trai Ðê-kem coi về Ma-kát, Sa-an-bim, Bết-Sê-mết, và Ê-lôn của Bết-Ha-na;
10. con trai Hê-sết, coi về A-ru-bốt người coi luôn Sô-cô và cả xứ Hê-phe.
11. Con trai A-bi-na-đáp coi cả đồng cao Ðô-rơ; Ta-phát, con gái của Sa-lô-môn,
là vợ người.
12. Ba-a-na, con trai A-hi-lút, coi Tha-a-nác, Mê-ghi-đô, và cả xứ Bết-Sê-an, ở
gần Xạt-han dưới Gít-ê-ên, từ Bết-Sê-an cho đến A-bên-Mê-hô-la và cho đến khỏi
bên kia Giốc-mê-am.
13. Con trai Ghê-be ở tại Ra-mốt của Ga-la-át; người coi thôn Giai-rơ, Giai-rơ
là con trai của Ma-na-se; người cũng cai trị miền Ạt-gốp, trong Ba-san, sáu mươi
thành lớn có tường thành và then cửa đồng.
14. A-hi-na-đáp, con trai Y-đô, ở tại Ma-ha-na-im;
15. A-hi-mát, trong địa phận Nép-ta-li; người cũng cưới một con gái của
Sa-lô-môn làm vợ, tên là Bách-mát.
16. Ba-a-na, con trai Hu-sai, ở trong xứ A-se và A-lốt;
17. Giê-hô-sa-phát, con trai Pha-ru-ác coi về Y-sa-ca;
18. Si-mê-i, con trai Ê-la, coi về Bên-gia-min;
19. Ghê-be, con trai U-ri, coi về xứ Ga-la-át, thuở xưa vốn là xứ của Si-hôn,
vua dân A-mô-rít và của Óc, vua Ba-san. Chỉ có một mình người làm đầu quan lại
coi về cả miền này.
20. Dân Giu-đa và Y-sơ-ra-ên đông như cát trên bờ biển, ăn uống và vui chơi.
21. Sa-lô-môn cai trị trên các nước, từ sông cái cho đến xứ Phi-li-tin, cho đến
ranh Ê-díp-tô. Các nước ấy đều tiến cống và phục Sa-lô-môn trọn đời người.
22. Lương thực của nhà Sa-lô-môn cần dùng trong mỗi ngày là: ba mươi cô-rơ bột
miến lọc, và sáu mươi cô-rơ bột miến thường,
23. mười con bò mập, hai mươi con bò nơi đồng cỏ, và một trăm con chiên, không
kể nai đực, hoàng dương, cá tong, và vịt gà nuôi mập.
24. Vả lại, Sa-lô-môn cai trị trên các xứ ở bên này sông, trên các vua của mấy
xứ đó, từ Típ-sắc cho đến Ga-xa và người hòa hảo với các dân ở bốn phía.
25. Trọn đời vua Sa-lô-môn trị vì, dân Giu-đa và Y-sơ-ra-ên ăn ở yên ổn vô sự từ
Ðan cho đến Bê-e-Sê-ba, ai nấy đều ở dưới cây nho và cây vả mình.
26. Sa-lô-môn có bốn vạn tàu để ngựa gác xe, và một vạn hai ngàn lính kỵ.
27. Các người làm đầu quan lại, mỗi người một tháng, lo sắm sửa đồ cần dùng cho
vua Sa-lô-môn và cho hết thảy những người được nhận tiếp nơi bàn vua, chẳng
thiếu chi hết.
28. Họ theo phiên mình, mỗi người sắm sửa đem đến nơi vua ở, lúa mạch và rơm cho
ngựa dùng để kéo và để cỡi.
29. Ðức Chúa Trời ban cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan, sự thông sáng rất cao, cùng
lòng rộng rãi như cát trên bờ biển.
30. Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn trổi hơn sự khôn ngoan của mọi người phương
đông, và sự khôn ngoan của người Ê-díp-tô.
31. Người khôn ngoan hơn mọi người, khôn ngoan hơn Ê-than, người Ếch-ra-hít, hơn
Hê-man, Canh-côn, và Ðạt-đa, là các con trai Ma-hôn; danh tiếng người đồn ra
trong các dân tộc chung quanh.
32. Người nói ba ngàn câu châm ngôn, và làm một ngàn năm, bài thơ.
33. Người luận về cây cối, từ cây bá hương của Li-ban cho đến chùm kinh giới mọc
ra nơi vách; người cũng có luận về loài vật, chim, loài công trùng, và cá.
34. Có lẽ từ các dân tộc đến nghe sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, và các vua ở thế
gian mà đã nghe nói về sự khôn ngoan của người, đều sai sứ đến.
1 Các Vua 5
chọn đoạn khác
1. Hi-ram, vua Ty-rơ, hay Sa-lô-môn đã được xức dầu làm vua đặng kế vị cha
người, bèn sai tôi tớ mình đến cùng người; vì Hi-ram vẫn yêu mến Ða-vít luôn.
2. Sa-lô-môn sai sứ nói với Hi-ram rằng:
3. Vua biết rằng Ða-vít, thân phụ tôi, không cất được một cái đền cho danh
Giê-hô-va Ðức Chúa Trời người, vì cớ chinh chiến thù nghịch vây tứ phía người,
cho đến ngày Ðức Giê-hô-va đã khiến chúng nó phục dưới chơn người.
4. Nhưng bây giờ, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời tôi đã ban cho tôi bằng yên tứ phía,
chẳng còn cừu địch, chẳng còn tai họa.
5. Vậy, tôi tính cất một cái đền cho danh Giê-hô-va Ðức Chúa Trời tôi, theo như
Ðức Giê-hô-va đã phán cùng Ða-vít, cha tôi, mà rằng: Con trai ngươi, mà ta sẽ
khiến ngồi trên ngai ngươi kế vị ngươi, sẽ cất một cái đền cho danh ta.
6. Vậy bây giờ, xin vua hãy truyền cho đầy tớ của vua đốn cho tôi cây bá hương
trên núi Li-ban; tôi cũng sẽ truyền cho các đầy tớ tôi giúp đỡ các đầy tớ vua,
và tôi sẽ phát cho vua công giá của họ, tùy theo vua sẽ định vì vua biết rằng
chẳng ai trong chúng ta thạo đốn gỗ như dân Si-đôn.
7. Khi Hi-ram nghe lời của Sa-lô-môn, thì mừng lắm, mà rằng: Ngày nay đáng khen
ngợi thay Ðức Giê-hô-va, vì đã ban cho Ða-vít một con trai khôn ngoan, để trị vì
dân sự lớn này!
8. Hi-ram bèn sai sứ đáp lời cho Sa-lô-môn rằng: Tôi đã nghe được lời vua sai
nói với tôi; mọi điều vua ước ao về gỗ bá hương và gỗ tòng, thì tôi sẽ làm hết.
9. Các đầy tớ tôi sẽ kéo gỗ ấy từ Li-ban đến biển, đóng bè thả biển cho đến nơi
vua sẽ chỉ cho. Ở đó tôi sẽ sả nó ra, và vua sẽ nhận lấy đem đi. Còn vua, sẽ làm
cho thỏa ý tôi mà cấp lương thực cho nhà tôi.
10. Vậy, Hi-ram cấp cho Sa-lô-môn gỗ bá hương và gỗ tòng, bao nhiêu tùy người
muốn.
11. Còn Sa-lô-môn cấp cho Hi-ram hai vạn cô-rơ lúa mạch, dùng làm lương thực cho
nhà người, và hai mươi cô-rơ dầu rất trong. Ðó là số Sa-lô-môn cấp cho Hi-ram
mỗi năm.
12. Như vậy, Ðức Giê-hô-va ban sự khôn ngoan cho Sa-lô-môn y như Ngài đã hứa với
người. Hi-ram và Sa-lô-môn hòa nhau và lập giao ước với nhau.
13. Vua Sa-lô-môn chiêu mộ trong cả Y-sơ-ra-ên những người làm xâu, số là ba vạn
người,
14. sai họ đi đến Li-ban, thay phiên mỗi tháng mười ngàn người họ ở một tháng
tại Li-ban, thay phiên mỗi tháng mười ngàn người họ ở một tháng tại Li-ban và
hai tháng nơi nhà mình; A-đô-ni-gia quản xuất người làm xâu.
15. Sa-lô-môn còn có bảy vạn người khiêng gánh, và tám vạn người đẽo đá trong
16. không kể những đốc công, số là ba ngàn ba trăm người, mà Sa-lô-môn đã đặt
coi sóc công việc và sai khiến dân làm việc.
17. Vua truyền họ lấy đá lớn, đá quí giá mà đẽo đi, đặng dùng làm nền của đền
thờ.
18. Các thợ của Sa-lô-môn và của Hi-ram với người Ghi-bê-lít, đẽo đá và dọn cây
cùng đá đặng cất đền.
1 Các Vua 6
chọn đoạn khác
1. Xảy ra năm bốn trăm tám mươi, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô, là
năm thứ tư của Sa-lô-môn trị vì trên Y-sơ-ra-ên, nhằm tháng Xíp, nghĩa là tháng
thứ hai, thì người cất đền của Ðức Giê-hô-va.
2. Cái đền mà vua Sa-lô-môn cất cho Ðức Giê-hô-va, bề dài có sáu mươi thước, bề
ngang hai mươi thước.
3. Cái hiên cửa ở trước đền bề dài hai mươi thước, bằng bề ngang của đền, và
rộng mười thước ở trước đền.
4. Vua cũng làm cho đến những cửa sổ có song, khuôn cây.
5. Người cất những từng lầu, dựa vào vách từ phía đền, tức là dựa vào vách chung
quanh đền thờ và nơi thánh; cũng làm những phòng chung quanh đền.
6. Từng dưới rộng năm thước, từng giữa rộng sáu thước; và từng trên rộng bảy
thước, vì vua cất sụt lui các vách vòng ngoài nhà, đặng tránh sườn xà hoành đâm
vào vách đền.
7. Khi cất đền, người ta dùng đá đã đẽo sẵn nơi hầm, nên không nghe tiếng búa,
rìu hay là khí dụng khác bằng sắt tại nơi đền đương khi cất.
8. Cửa vào các phòng từng thứ nhì, ở bên phía hữu của đền; người ta đi lên từng
giữa bởi một cái thang khu ốc; rồi từ từng giữa lên từng thứ ba.
9. Khi cất đền xong; thì Sa-lô-môn lợp nó bằng đòn tay và ván gỗ bá hương,
10. cũng cất những từng lầu năm thước dựa vào tứ phía đền, dính với nhà bởi cây
đà bá hương.
11. Bấy giờ có lời Ðức Giê-hô-va phán với Sa-lô-môn rằng:
12. về nhà này mà ngươi đương xây cất, nếu ngươi vâng theo các luật lệ ta, noi
theo các mạng lịnh ta, giữ và đi trong hết thảy các điều răn của ta, thì ta sẽ
vì ngươi làm hoàn thành lời ta đã hứa cùng Ða-vít, cha ngươi.
13. Ta sẽ ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên, chẳng hề bỏ Y-sơ-ra-ên, là dân ta.
14. Ấy vậy, Sa-lô-môn xây đền và làm cho hoàn thành.
15. Người lấy ván bá hương đóng vách phía trong đền, từ đất cho đến trần, và lót
nền đất bằng ván cây tùng.
16. Từ cuối phía trong đền hai mươi thước, người đóng ngăn bằng ván bá hương, từ
nền cho đến trần, đặng làm nơi chí thánh.
17. Còn bốn mươi thước kia, làm tiền đường của đền thờ.
18. Ở phía trong đền, có gỗ bà hương chạm hình dưa ác và hoa mới nở; toàn là gỗ
bá hương, không thấy đá.
19. Còn nơi chí thánh, Sa-lô-môn đặt ở phía trong đền, tận cuối trong, đặng để
hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va tại đó.
20. Phía trong nơi chí thánh có hai mươi thước bề dài, hai mươi thước bề ngang,
bọc nó bằng vàng ròng, và cũng bọc vàng bàn thờ bằng cây bá hương nữa.
21. Sa-lô-môn bọc vàng ròng tuồng trong của nhà, và lấy xiềng vàng giăng trước
nơi chí thánh và bọc bằng vàng.
22. Người cũng bọc vàng toàn cả nhà; người cũng lót vàng khắp mặt bàn thờ ở đằng
trước nơi chí thánh.
23. Người làm cho nơi chí thánh hai chê-ru-bin bằng gỗ ô-li-ve, bề cao mười
thước.
24. Cánh này và cánh kia của mỗi chê-ru-bin có năm thước, thế là mười thước từ
chót cánh này tới chót cánh kia.
25. Chê-ru-bin thứ nhì cũng có mười thước. Hai chê-ru-bin đều đồng một cỡ và một
dáng với nhau.
26. Chê-ru-bin này có mười thước bề cao, và chê-ru-bin kia cũng vậy.
27. Sa-lô-môn để hai chê-ru-bin tại nơi chí thánh, ở trong cùng của đền cánh của
chê-ru-bin thứ nhất đụng nhau tại giữa nơi chí thánh.
28. Người cũng bọc vàng cho hai chê-ru-bin.
29. Bốn phía vách đền, phía trong và phía ngoài, Sa-lô-môn khiến chạm nổi lên
hình chê-ru-bin, cây chà là và hoa nở;
30. cũng phủ đất nhà bằng vàng, bề trong và bề ngoài.
31. Tại chỗ vào nơi chí thánh, người làm một cái cửa hai cánh bằng gỗ ô-li-ve;
thanh và cột choán một phần năm của mặt tiền.
32. Người khiến chạm nổi lên trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-li-ve ấy những hình
chê-ru-bin, cây chà là và hoa nở; rồi bọc bằng vàng, tráng vàng ra trên hình
chê-ru-bin và hình cây chà là.
33. Về cửa đền thờ, người cũng làm cột bằng gỗ ô-li-ve, choán hết một phần tư
của vách,
34. lại làm hai cánh cửa bằng gỗ tòng; mỗi cánh có hai miếng trá khép lại được.
35. Sa-lô-môn khiến chạm nổi lên những hình chê-ru-bin, cây chà là và hoa nở;
rồi bọc bằng vàng, tráng vàng ra trên các vật chạm trổ.
36. Người xây tường hành lang phía trong bằng ba hàng đá chạm, và một hàng cây
xà gỗ bá hương.
37. Năm thứ tư, năm tháng Xíp, cái nền của đền thờ Ðức Giê-hô-va đã đặt;
38. năm thứ mười một, nhằm tháng Bu-lơ, nghĩa là tháng tám, đền thờ hoàn thành
trong mọi phần nó, theo kiểu đã ra. Sa-lô-môn cất đền hết bảy năm.
1 Các Vua 7
chọn đoạn khác
1. Sa-lô-môn cũng cất cung điện mình, xong mọi việc trong mười ba năm.
2. Người lại cất cái cung rừng Li-ban, bề dài một trăm thước, bề ngang năm mươi
thước và bề cao ba mươi thước, đặt trên bốn hàng cột bằng gỗ bá hương có những
xà ngang bằng gỗ bá hương để trên những cột.
3. Trần của các phòng bởi cột chống đỡ, số là bốn mươi lăm cây, mười lăm cây mỗi
dãy, đều đóng bằng ván gỗ bá hương.
4. Có ba dãy phòng, cửa sổ đối ngang nhau.
5. Hết thảy cửa và cột đều vuông, và các cửa sổ của ba dãy phòng đều đối mặt
nhau.
6. Người cất hiên cửa có trụ, bề dài năm mươi thước: trước hiên này có một hiên
khác cũng có trụ và bực.
7. Sa-lô-môn cũng xây hiên để ngai, là nơi người xét đoán, và gọi là hiên xét
đoán; rồi dùng ván gỗ bá hương lót từ nền đến trần.
8. Cung của Sa-lô-môn ở trong sân thứ nhì phía sau cửa hiên, cũng xây một cách
giống như vậy. Cũng xây cho con gái Pha-ra-ôn mà Sa-lô-môn đã cưới, một cái cung
như kiểu của hiên này.
9. Các cung điện này đều xây bằng đá quí, đục theo thước tấc, cưa xẻ, hoặc bề
trong hay bề ngoài, từ nền đến cổ bồng cây cột, và cho đến vách cửa sân lớn đều
cũng vậy.
10. Cái nền thì bằng đá quí và lớn, có hòn thì mười thước, hòn thì tám thước.
11. Trên các nền này, lại còn những đá quí đục theo thước tấc và gỗ bá hương.
12. Vách hành lang lớn, tứ vi có ba hàng đá chạm và một hàng cây đà bằng gỗ bá
hương, y như hàng lang phía trong của đền Ðức Giê-hô-va, và y như cửa hiên đền.
13. Vua Sa-lô-môn sai người đòi Hi-ram ở Ty-rơ đến.
14. Người là con trai của một đờn bà góa về chi phái Nép-ta-li, còn cha là người
Ty-rơ, làm thợ đồng. Hi-ram đầy sự khôn ngoan, thông hiểu, có tài làm các thứ
công việc bằng đồng. Người đến vua Sa-lô-môn, và làm mọi công việc người.
15. Người làm hai cây trụ bằng đồng, cây thứ nhất cao mười tám thước, và một sợi
dây mười hai thước đo bề tròn của cây thứ nhì.
16. Người đúc hai đầu trụ bằng đồng, đặt nó trên chót trụ, bề cao đầu trụ này là
năm thước.
17. Những mặt võng xe lại và những dây hoa trèo như chuyền nhỏ trang điểm đầu
trụ đặt ở trên chót trụ; có bảy dây hoa cho đầu trụ này, và bảy dây hoa cho đầu
trụ kia.
18. Hi-ram vấn chung quanh mặt võng này hai hàng trái lựu đặng trang sức cho đầu
trụ này, và cũng làm như vậy cho đầu kia.
19. Những đầu trụ ở trên các cây trụ trong hiên cửa, đều có hoa huệ ở chót, cao
bốn thước.
20. Những đầu trụ ở trên trụ nẩy ra liền thân trên nơi hầu bên phía kia mặt
võng: có hai trăm trái lựu sắp hai hàng vòng chung quanh hai đầu trụ.
21. Hi-ram dựng những cây trụ trong hiên cửa đền thờ. Người dựng cây trụ bên
hữu, và đặt tên là Gia-kin; đoạn dựng cây trụ bên tả, đặt tên là Bô-ách.
22. Trên chót trụ, thì chế hình hoa huệ. Công việc làm những cây trụ đều hoàn
thành là như vậy.
23. Người cũng làm biển đúc, hình tròn, cao năm thước; từ mép này đến mép kia có
mười thước, một sợi dây ba mươi thước đo vòng tròn của nó.
24. Dưới mép biển có hai hàng dưa ác vây chung quanh, cứ mỗi thước mười trái,
đúc liền một với biển.
25. Biển để kê trên mười hai con bò, ba con hướng về bắc, ba con hướng về tây,
ba con hướng về nam, và ba con hướng về đông. Biển thì đặt trên lưng các con bò
ấy, và phía sau thân con bò đều xây vào trong.
26. Biển đầy một gang tay và mép làm giống mép chén và cách như bông huệ; nó
đựng hai ngàn bát.
27. Người cũng làm mười viên táng đồng, mỗi viên bốn thước bề dài, bốn thước bề
ngang, và ba thước bề cao.
28. Các viên táng làm cách này: Có những miếng trám đóng vào khuông.
29. Trên các trám đóng vào khuông này có hình sư tử, bò, và chê-ru-bin; nơi
triêng trên, cũng có như vậy. Còn nơi triêng dưới sư tử và bò, có những dây hoa
thòng.
30. Mỗi viên táng có bốn bánh xe đồng với cốt đồng, và nơi bốn góc có những cái
đế đúc để chịu cái chậu và những dây hoa ở bên mỗi cái đế.
31. Giữa viên táng trên đầu trụ có một miệng tròn sâu một thước, và rộng một
thước rưỡi. Cái miệng này cũng có hình chạm trổ. Còn các miếng trám thì vuông,
chớ không phải tròn.
32. Bốn bánh xe đều ở dưới những miếng trám; và xác cốt bánh xe thì đóng vào
viên táng. Mỗi bánh xe cao một thước rưỡi.
33. Bánh làm như bánh của cái cộ: Trục, vành, căm, và tum nó, đều đúc cả.
34. Có bốn con bọ ở nơi bốn góc của mỗi viên táng và liền với táng.
35. Ðầu viên táng hình tròn nhọn, và cao nửa thước; nó cũng có biên và trám.
36. Trên mặt biên và trám của đế, tại nơi trống của mỗi biên và trám chừa ra,
Hi-ram chạm những chê-ru-bin, sư tử, cây chà là, và dây hoa chung quanh.
37. Người theo kiểu này mà làm mười viên táng, đúc một thứ, một cỡ, và một dáng
với nhau.
38. Người cũng làm mười cái thùng bằng đồng, mỗi cái chứa bốn mươi bát. Mỗi
thùng có bốn thước và để trên một táng của mười cái thùng bằng đồng, mỗi cái
chứa bốn mươi bát. Mỗi thùng có bốn thước và để trên một táng của mười cái táng.
39. Người sắp đặt táng như vầy: băm cái về bên hữu đền, và năm cái về bên tả.
Còn biển, người để nơi bên hữu đền, về hướng nam đông.
40. Người cũng làm chảo, vá, và ảng. Vậy, Hi-ram làm xong mọi công việc cho
Sa-lô-môn trong đền của Ðức Giê-hô-va:
41. tức là hai cây trụ, hai đầu trụ tròn trên đỉnh trụ, hai tấm mặt võng bao hai
đầu trụ tròn, luôn với đỉnh trụ;
42. bốn trăm trái lựu sắp hai hàng vòng chung quanh mặt võng bao hai đầu trụ
tròn nơi đỉnh trụ;
43. mười viên táng và mười cái bồn trên táng;
44. biển đúc nguyên miếng một và mười hai con bò để dưới biển;
45. chảo, vá, và ảng. Các khí dụng này mà Hi-ram làm cho Sa-lô-môn trong đền Ðức
Giê-hô-va, đều bằng đồng đánh bóng.
46. Vua biểu đúc các vật đó tại đống bằng Giô-đanh, trong một nơi đất sét, giữa
Su-cốt, và Sát-than.
47. Sa-lô-môn không cân một món nào trong các khí dụng ấy, bởi vì nhiều quá;
người không xét sự nặng của đồng.
48. Sa-lô-môn lại làm những khí dụng cho đền Ðức Giê-hô-va: là bàn thờ vàng,
những bàn bằng vàng, để bánh trần thiết;
49. chơn đèn bằng vàng ròng đặt trước nơi chí thánh, năm cái ở bên hữu và năm
cái ở bên tả cùng hoa, thếp đèn, và cái nỉa bằng vàng;
50. những chén, dao, muỗng, và đồ đựng tro bằng vàng ròng; những chốt cửa hoặc
dùng cho cửa của nhà phía trong, hoặc nơi chí thánh, hay là dùng cho cửa của đền
thờ, thì đều bằng vàng.
51. Các công việc mà Sa-lô-môn làm cho nhà Ðức Giê-hô-va, đều được hoàn thành là
như vậy. Ðoạn, Sa-lô-môn sai đem các vật mà Ða-vít, ca người, đã biệt ra thánh,
tức là bạc, vàng, các thứ khí dụng, và để trong kho tàng của đền Ðức Giê-hô-va.
1 Các Vua 8
chọn đoạn khác
1. Bấy giờ, Sa-lô-môn vời đến mình, ở tại Giê-ru-sa-lem, các trưởng lão
Y-sơ-ra-ên, hết thảy các quan trưởng của chi phái, và những trưởng tộc của
Y-sơ-ra-ên, đặng rước hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va từ thành của Ða-vít, tức là
Si-ôn.
2. Trong lúc lễ, nhằm tháng Ê-tha-ninh, là tháng bảy, hết thảy người nam của
Y-sơ-ra-ên đều nhóm lại cùng vua Sa-lô-môn.
3. Khi các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đã đến, thì những thầy tế lễ lấy hòm của Ðức
Giê-hô-va,
4. dời đi luôn với Ðền tạm. Những thầy tế lễ và người Lê-vi khiêng các đồ đó
lên.
5. Vua Sa-lô-môn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đã hiệp với người, và đứng trước
hòm, giết bò và chiên làm của lễ rất nhiều, không thế đếm được.
6. Những thầy tế lễ đem hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va đến nơi nó, trong nơi chí
thánh, dưới cánh chê-ru-bin.
7. Vì các chê-ru-bin giương cánh ra trên nơi để hòm, che thân trên hòm và các
đòn khiêng.
8. Các đòn khiêng dài, đến nỗi người ta, từ nơi thánh ở trước nơi chí thánh, có
thể thấy được, nhưng ở ngoài thì chẳng thấy. Các đòn ấy ở đó cho đến ngày nay.
9. Trong hòm chỉ có hai bảng đá mà Môi-se đã để, tại núi Hô-rếp, khi Ðức
Giê-hô-va lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, lúc họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
10. Xảy ra khi những thầy tế lễ đã ra khỏi nơi thành, bèn có mây đầy dẫy nhà của
Ðức Giê-hô-va,
11. đến nỗi những thầy tế lễ vì có mây ấy không thể đứng đó mà hầu việc được, vì
sự vinh quang của Ðức Giê-hô-va đầy dẫy đền của Ðức Giê-hô-va.
12. Bấy giờ, Sa-lô-môn nguyện rằng: Ðức Giê-hô-va có phán rằng Ngài ngự trong
nơi tối tăm mờ mịt.
13. Hỡi Ðức Chúa Trời! tôi đã cất xong một cái đền dùng làm nơi ngự của Ngài,
tức một nơi Ngài ở đời đời.
14. Ðoạn, vua xây lại, và chúc phước cho hội chúng Y-sơ-ra-ên. Cả hội chúng
Y-sơ-ra-ên đều đứng.
15. Người nói rằng: Ðáng ngợi khen Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì từ
miệng Ngài có phán hứa với Ða-vít, cha ta, và bởi tay Ngài đã làm ứng nghiệm lời
ấy; Ngài phán rằng:
16. Từ ngày ta đã đem Y-sơ-ra-ên ta ra khỏi Ê-díp-tô, ta không chọn thành nào
trong các chi phái Y-sơ-ra-ên đặng cất tại đó một cái nhà cho danh ta ngự; nhưng
ta đã chọn Ða-vít để người trị vì dân Y-sơ-ra-ên ta.
17. Vả, Ða-vít, cha ta, có ý cất một cái đền cho danh Giê-hô-va, là Ðức Chúa
Trời của Y-sơ-ra-ên.
18. Nhưng Ðức Giê-hô-va có phán với Ða-vít, cha ta, rằng: Khi ngươi có ý xây đền
cho danh ta, thì lấy làm thậm phải;
19. song ngươi sẽ chẳng cất đền ấy đâu, bèn là con trai ngươi, do lòng ngươi
sanh ra, sẽ cất đền cho danh ta.
20. Vậy, Ðức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán; vì ta kế vị Ða-vít, cha
ta, ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên, y như Ðức Giê-hô-va đã hứa, và ta đã cất đền này
cho danh Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
21. Tại đó, ta đã dọn một chỗ để hòm; trong hòm có sự giao ước mà Ngài đã lập
với tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
22. Kế đó, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Ðức Giê-hô-va, đối mặt cả hội chúng
Y-sơ-ra-ên, bèn giơ tay lên trời, mà rằng:
23. Lạy Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! hoặc trên trời cao kia, hoặc
dưới đất thấp này, chẳng có một thần nào giống như Chúa. Chúa giữ sự giao ước và
lòng nhơn từ với kẻ tôi tớ Chúa, là kẻ nào hết lòng đi ở trước mặt Chúa.
24. Ðối cùng tôi tớ Chúa, là Ða-vít, cha tôi, Chúa có giữ lời Ngài đã hứa với
người. Thật, hễ điều chi miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm hoàn thành, y như
chúng tôi thấy ngày nay.
25. Vậy, hỡi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! ngày nay xin làm trọn lời
Chúa đã hứa cùng tôi tớ Chúa, là Ða-vít, cha tôi, rằng: Nếu con cháu ngươi cẩn
thận các đường lối mình, đi ở trước mặt ta, y như ngươi đã đi, thì trước mặt ta
sẽ chẳng hề thiếu một kẻ hậu tự ngươi đặng ngồi trên ngôi nước Y-sơ-ra-ên đâu.
26. Hỡi Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! xin hãy làm cho ứng nghiệm lời Chúa đã hứa
cùng kẻ tôi tớ Chúa, là Ða-vít, cha tôi.
27. Nhưng quả thật rằng Ðức Chúa Trời ngự trên đất này chăng? Kìa, trời, dầu đến
đỗi trời của các từng trời chẳng có thể chứa Ngài được thay, phương chi cái đền
này tôi đã cất!
28. Dầu vậy, hỡi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời tôi! xin hãy đoái đến lời cầu nguyện và
sự nài xin của kẻ tôi tớ Chúa. đặng nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện mà kẻ tôi
tớ Chúa cầu trước mặt Chúa ngày nay.
29. Nguyện mắt của Chúa ngày và đêm đoái xem nhà nầy, là chỗ mà Chúa đã phán
rằng: Danh ta sẽ ngự tại đó, đặng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Chúa hướng nơi
này mà cầu.
30. Phàm điều gì tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Chúa sẽ hướng về nơi này mà
khẩn cầu, xin Chúa hãy dủ nghe; phải, ở nơi ngự của Chúa, tại trên các từng
trời, xin Chúa dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.
31. Khi ai phạm tội cùng kẻ lân cận mình, và người ta bắt đi đó phải thề, nếu
người đến thề trước bàn thờ của Chúa, tại trong đền này,
32. thì xin Chúa ở trên trời hãy nghe, đối đãi và xét đoán tôi tớ Chúa, mà lên
án cho kẻ dữ, khiến đường lối nó đổ lại trên đầu nó, và xưng công bình cho người
công bình, và thưởng ngươi tùy theo sự công bình của người.
33. Khi dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, vì cớ phạm tội với Chúa, bị kẻ tù nghịch đánh
được; nếu chúng nó trở lại với Chúa, nhận biết danh Ngài và cầu nguyện nài xin
với Chúa trong đền này,
34. thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa,
và khiến họ trở về đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ.
35. Nếu các từng trời bị đóng chặt, không có mưa, bởi vì chúng nó đã phạm tội
với Chúa, nếu chúng nó hướng về nơi này mà cầu nguyện, nhận biết danh Chúa, xây
bỏ tội lỗi mình, sau khi Chúa đã đoán phạt họ,
36. thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho các tôi tớ Chúa, và cho
dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Xin hãy chỉ cho họ con đường thiện mà họ phải đi, và
giáng mưa trên đất của Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37. Khi trong xứ xảy có đói kém, ôn dịch, hạn hán, ten sét, cào cào, châu chấu,
hoặc có quân thù nghịch vây các thành của địa phận họ, hay là có tai vạ chi, tật
bịnh gì;
38. nếu có một người hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, ai nấy đã nhận biết tai
họa của lòng mình, mà giơ tay ra hướng về đền này, và cầu nguyện, khẩn xin vô
luận điều gì,
39. thì xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe, và tha thứ cho, đối đãi,
báo ứng mỗi người tùy theo công việc họ, vì Chúa thông biết lòng của họ (thật
chỉ một mình Chúa biết lòng của con cái loài người),
40. để khiến họ kính sợ Chúa trọn đời họ sống ở trên đất mà Chúa đã ban cho tổ
phụ chúng tôi.
41. Vả lại, về khách lạ, là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng
vì danh Ngài từ xứ xa đến
42. (vì người ngoại bang sẽ nghe nói về danh lớn của Chúa, về cánh tay quyền
năng giơ thẳng ra của Chúa), khi người đến cầu nguyện trong nhà này,
43. xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe và làm theo mọi điều người
khách lạ sẽ cầu xin Chúa để cho muôn dân của thế gian nhận biết danh Chúa, kính
sợ Chúa, y như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và cho biết rằng danh Chúa xưng ra trên
đền này mà tôi đã xây cất.
44. Khi dân của Chúa đi chiến trận cùng quân thù nghịch mình, theo con đường
Chúa đã sai đi, nếu họ cầu khẩn Ðức Giê-hô-va xây mặt hướng về thành Chúa đã
chọn, và về đền tôi đã cất cho danh Ngài,
45. thì xin Chúa ở trên trời, hãy dủ nghe các lời cầu nguyện nài xin của chúng,
và binh vực quyền lợi cho họ.
46. Khi chúng nó phạm tội cùng Chúa (vì không có người nào chẳng phạm tội) và
Chúa nổi giận, phó chúng nó cho kẻ thù nghịch; khi họ bị bắt làm phu tù đến xứ
của kẻ thù nghịch, hoặc xa hoặc gần,
47. ví bằng trong xứ mà họ bị tù, họ nghĩ lại, ăn năn, và nài xin Chúa mà rằng:
"Chúng tôi có phạm tội, làm điều gian ác, và cư xử cách dữ tợn;"
48. nhược bằng tại trong xứ mà thù nghịch đã dẫn họ đến làm phu tù, họ hết lòng
hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện cùng Ngài, mặt hướng về xứ mà Chúa đã ban
cho tổ phụ họ, về thành mà Chúa đã chọn, và về đền mà tôi đã xây cất cho danh
Chúa,
49. thì xin Chúa ở trên trời, tức nơi Chúa ngự, hãy dủ nghe lời cầu nguyện nài
xin của họ, và binh vực quyền nài xin của họ, và binh vực quyền lợi cho họ;
50. tha cho dân Chúa tội lỗi và các sự trái mạng mà họ đã phạm cùng Ngài; xin
Chúa khiến những kẻ bắt họ làm phu tù có lòng thương xót họ,
51. vì dân Y-sơ-ra-ên vốn là dân sự Chúa, cơ nghiệp của Chúa, mà Chúa đã đem ra
khỏi Ê-díp-tô, tức khỏi giữa lò sắt.
52. Nguyện Chúa đoái xem kẻ tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, dủ nghe lời
cầu nguyện nài xin của họ, mỗi lần họ kêu cầu cùng Chúa.
53. Hỡi Chúa Giê-hô-va ôi! Chúa đã phân cách họ khỏi các dân tộc trên đất, để họ
làm cơ nghiệp Chúa, y như Chúa đã phán bởi miệng Môi-se, là tôi tớ Chúa, khi
Chúa đem tổ phụ chúng tôi ra khỏi Ê-díp-tô.
54. Khi Sa-lô-môn đã cầu với Ðức Giê-hô-va những lời khẩn nguyện nài xin này
xong, bèn đứng dậy trước bàn thờ Ðức Giê-hô-va, khỏi nơi người đã quì, tay giơ
lên trời.
55. Người đứng chúc phước lớn tiếng cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, mà rằng:
56. Ðáng khen ngợi Ðức Giê-hô-va, là Ðấng đã ban sự bình yên cho dân Y-sơ-ra-ên
của Ngài, tùy theo các lời Ngài đã hứa! Về các lời tốt lành mà Ngài đã cậy miệng
Môi-se, kẻ tôi tớ Ngài, phán ra, chẳng có một lời nào không ứng nghiệm.
57. Nguyện Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng tôi ở với chúng tôi, như Ngài đã ở cùng
tổ phụ chúng tôi, chớ lìa, chớ bỏ chúng tôi;
58. nguyện Ngài giục lòng chúng tôi hướng về Ngài, hầu chúng tôi đi trong mọi
đường lối Ngài, giữ những điều răn, luật pháp, và mạng lịnh của Ngài đã truyền
cho tổ phụ chúng tôi.
59. Ước gì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng ta ngày đêm dủ lòng nhớ đến các lời ta
đã nài xin trước mặt Ngài, hầu cho tùy việc cần ngày nào theo ngày nấy, Ðức
Giê-hô-va binh vực quyền lợi của tôi tớ Ngài và của dân Y-sơ-ra-ên;
60. hầu cho muôn dân của thế gian biết rằng Giê-hô-va là Ðức Chúa Trời, chớ
chẳng có ai khác.
61. Vậy, các ngươi khá lấy lòng trọn lành đối với Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng
ta, để đi theo luật lệ Ngài và giữ gìn điều răn của Ngài, y như các ngươi đã làm
ngày nay.
62. Vua và cả Y-sơ-ra-ên đều dâng các của lễ tại trước mặt Ðức Giê-hô-va.
63. Sa-lô-môn dâng của lễ thù ân cho Ðức Giê-hô-va, hai muôn hai ngàn con bò đực
và mười hai muôn con chiên. Vua và cả dân Y-sơ-ra-ên đều dự lễ khánh thành đền
của Ðức Giê-hô-va là như vậy.
64. Trong ngày đó, vua biệt riêng ra nơi chính giữa của hành lang ở trước đền
thờ của Ðức Giê-hô-va, vì tại đó người dâng các của lễ thiêu, của lễ chay, và mỡ
về của lễ thù ân; bởi vì bàn thờ bằng đồng để trước đền của Ðức Giê-hô-va là nhỏ
quá, đựng các của lễ thù ân không đặng.
65. Trong lúc đó, Sa-lô-môn và cả dân Y-sơ-ra-ên, một hội chúng rất lớn, ở từ
miền Ha-mát cho đến khe Ê-díp-tô, hiệp tại trước mặt Giê-hô-va Ðức Chúa Trời
chúng ta, mà giữ lễ trong bảy ngày, lại bảy ngày khác nữa, cộng mười bốn ngày.
66. Ngày thứ tám, vua cho dân sự về; dân chúc phước cho vua, đi trở về trại
mình, lấy làm mừng rỡ vui lòng về mọi sự tốt lành mà Ðức Giê-hô-va đã làm cho
Ða-vít, kẻ tôi tớ Ngài, và cho Y-sơ-ra-ên, dân sự của Ngài.
1 Các Vua 9
chọn đoạn khác
1. Khi Sa-lô-môn đã cất xong nhà của Ðức Giê-hô-va, cung điện và mọi sự người
muốn cất,
2. thì Ðức Giê-hô-va hiện đến cùng người lần thứ nhì, y như Ngài đã hiện ra cùng
người tại Ga-ba-ôn.
3. Ðức Giê-hô-va phán với người rằng: Ta đã nhậm lời cầu nguyện nài xin của
ngươi thưa trước mặt ta; ta đã biệt riêng ra thánh cái đền này mà ngươi đã cất,
để cho danh ta ngự tại đó đời đời; mắt và lòng ta sẽ thường ở đó mãi mãi.
4. Còn ngươi, nếu ngươi đi trước mặt ta, như Ða-vít, cha ngươi, đã đi, lấy lòng
trọn lành và ngay thẳng mà làm theo các điều ta đã phán dặn ngươi, giữ những
luật lệ và mạng lịnh của ta,
5. bấy giờ ta sẽ làm cho ngôi nước ngươi kiên cố đến đời đời trên Y-sơ-ra-ên, y
như ta đã hứa cùng Ða-vít, cha ngươi, mà rằng: Ngươi sẽ chẳng hề thiếu kẻ hậu tự
ngươi ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên.
6. Nhưng nếu ngươi và con cháu các ngươi xây bỏ ta, không giữ các điều răn và
luật lệ ta đã truyền cho các ngươi, đi hầu việc những thần khác và thờ lạy chúng
nó,
7. thì ta sẽ truất Y-sơ-ra-ên khỏi đất ta đã ban cho chúng nó, trừ bỏ khỏi trước
mắt ta cái đền này mà ta đã vì danh ta biệt riêng ra thánh, và Y-sơ-ra-ên sẽ trở
nên lời tục ngữ và trò cười giữa muôn dân.
8. Còn đền này, dầu cao dường nào, ai đi ngang qua gần nó cũng lấy làm lạ lùng,
chê bai, mà rằng: Cớ sao Ðức Giê-hô-va có làm cho xứ này và đền này như vậy?
9. Người ta sẽ đáp rằng: Ấy vì chúng nó đã lìa bỏ Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng
nó, là Ðấng đem tổ phụ họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô; họ theo các thần khác, thờ lạy
các thần ấy, và hầu việc chúng nó; vì cớ đó, Ðức Giê-hô-va đã giáng trên họ các
tai họa này.
10. Xảy ra vừa chẵn hai mươi năm khi Sa-lô-môn đã xây xong hai cái nhà, tức là
đền của Ðức Giê-hô-va và cung điện vua,
11. thì bấy giờ, vua Sa-lô-môn ban cho Hi-ram, vua Ty-rơ, hai mươi thành ở xứ
Ga-li-lê; vì Hi-ram có cấp cho Sa-lô-môn gỗ bá hương, gỗ tùng, và vàng, tùy
người muốn bao nhiêu.
12. Hi-ram từ Ty-rơ đến đặng xem các thành mà Sa-lô-môn đã ban cho mình, nhưng
các thành đó chẳng đẹp lòng người,
13. và người nói rằng: Hỡi anh, những thành mà anh cho em đó là cái gì? Rồi
người gọi các thành ấy là xứ Ca-bun, hãy còn gọi như vậy đến ngày nay.
14. Vả, Hi-ram đã gởi cho vua Sa-lô-môn một trăm hai mươi ta lâng vàng.
15. Nầy, là cớ sao Sa-lô-môn đã bắt xâu đặng xây cất đền Ðức Giê-hô-va và cung
điện mình, luôn với Mi-lô, vách thành Giê-ru-sa-lem, Hát-so, Mê-ghi-đô, và
Ghê-xe.
16. Pha-ra-ôn, vua của Ê-díp-tô, đã đi lên chiếm lấy Ghê-xe, thiêu đốt nó, và
giết những dân Ca-na-an ở trong thành, rồi ban thành ấy làm của vu qui cho con
gái mình, là vợ Sa-lô-môn.
17. Vậy, Sa-lô-môn xây thành Ghê-xe, Bết-Hô-rôn dưới,
18. Ba-lát, và Tát-mốt, tại trong đất rừng của xứ;
19. lại xây các thành có những kho trữ lương phạn của Sa-lô-môn, những thành để
xe cộ, những thành cho quân kị, và mọi điều gì đẹp lòng Sa-lô-môn xây cất tại
Giê-ru-sa-lem, trong Li-ban và trong cả xứ phục dưới quyền người.
20. Hết thảy những người còn sống lại trong dân A-mô-rít, dân Hê-tít, dân
Phê-rê-sít, dân Hê-vít, dân Giê-bu-sít, không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên,
21. tức là các con cháu của chúng nó còn lại ở trong xứ mà dân Y-sơ-ra-ên không
đủ sức diệt hết được, thì Sa-lô-môn bắt phụ làm xâu dịch cho đến ngày nay.
22. Nhưng Sa-lô-môn không bắt dân Y-sơ-ra-ên làm tôi mọi; song họ làm binh
chiến, tôi tớ, quan trưởng, quan tướng, quan cai xe, và lính kỵ của người.
23. Còn về các quan trưởng đặt lên coi sóc các công việc của Sa-lô-môn, số là
năm trăm năm mươi người; họ cai trị dân làm công việc.
24. Con gái Pha-ra-ôn ở thành Ða-vít đi lên cung mà Sa-lô-môn đã xây cất cho
nàng; bấy giờ, người xây cất Mi-lô.
25. Mỗi năm ba lần, Sa-lô-môn dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân trên bàn thờ mà
người đã đóng cho Ðức Giê-hô-va, và xông hương trên bàn thờ đã đặt ở trước mặt
Ðức Giê-hô-va. Người xây xong đền thờ là như vậy.
26. Vua Sa-lô-môn cũng sắm sửa một đoàn tàu tại Ê-xi-ôn-Ghê-be, gần Ê-lốt, trên
mé Biển đỏ, trong xứ Ê-đôm.
27. Hi-ram sai những tôi tớ mình, tức những thủy thủ, thông thạo về nghề đi
biển, đến trong đoàn tàu đó, đặng giúp tôi tớ của Sa-lô-môn.
28. Họ đi Ô-phia đem về cho Sa-lô-môn bốn trăm hai mươi ta lâng vàng.
1 Các Vua 10
chọn đoạn khác
1. Khi nữ vương Sê-ba nghe nói về danh tiếng của Sa-lô-môn và về danh của Ðức
Giê-hô-va, bèn đến thử Sa-lô-môn nhiều câu đố.
2. Bà đến Giê-ru-sa-lem có hầu hạ theo rất đông, lạc đà chở thuốc thơm, nhiều
vàng và ngọc. Bà đến cùng Sa-lô-môn, nói với người mọi điều có trong lòng mình.
3. Sa-lô-môn đáp các câu hỏi của bà, chẳng câu nào ẩn bí quá cho vua, mà vua
không giải nghĩa nổi cho bà.
4. Khi nữ vương Sê-ba thấy mọi sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, cung điện người cất,
5. những món ăn trên bàn người, nhà cửa của tôi tớ người, thứ tự công việc của
các quan, và đồ ăn mặc của họ, các quan chước tửu, và các của lễ thiêu người
dâng trong đền Ðức Giê-hô-va, thì mất vía.
6. Rồi bà nói rằng: Ðiều tôi nghe nói trong xứ tôi về lời nói và sự khôn ngoan
của vua, thì thật lắm.
7. Song trước khi tôi chưa đến đây, và chưa thấy tận mắt những điều này, thì tôi
chẳng tin; và kìa, người ta chẳng nói đến được phân nửa! Sự khôn ngoan và oai
nghi của vua trổi hơn tiếng đồn tôi đã nghe.
8. Các tôi tớ vua thật có phước thay! Các tôi tớ vua hằng đứng chầu trước mặt
vua, nghe sự khôn ngoan của vua, lấy làm có phước thay!
9. Ðáng khen ngợi thay Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của vua, vì Ngài đẹp lòng vua,
đặt vua trên ngôi của Y-sơ-ra-ên! Bởi vì Ðức Giê-hô-va yêu dấu Y-sơ-ra-ên mãi
mãi, nên Ngài đã lập vua làm vua đặng cai trị theo sự ngay thẳng và công bình.
10. Ðoạn nữ vương dâng cho vua một trăm hai mươi ta lâng vàng và rất nhiều thuốc
thơm cùng ngọc quí. Từ đó nhẫn nay, chẳng hề có ai đem thuốc thơm đến số nhiều
bằng của nữ vương nước Sê-ba dâng cho vua Sa-lô-môn.
11. Ðoàn tàu Hi-ram chở vàng Ô-phia, cũng chở cây bạch đàn rất nhiều, và ngọc
quí.
12. Vua dùng cây bạch đàn này mà làm bao lơn cho đền thờ Ðức Giê-hô-va và cho
nhà vua, cùng những đờn cầm và đơn sắt cho con hát. Từ đó, chẳng hề có ai đem
đến Giê-ru-sa-lem cây bạch đàn dường ấy nữa, không ai thấy lại cho đến ngày nay.
13. Vua Sa-lô-môn ban cho nữ vương Sê-ba mọi đều người ước và xin, chẳng kể
những vật mà Sa-lô-môn đã ban cho bà, tùy lệ thường của vua. Ðoạn, bà và các tôi
tớ bà lên đường trở về xứ mình.
14. Vàng mà vua Sa-lô-môn thâu nhận mỗi năm cân đến sáu trăm bảy mươi sáu ta
lâng,
15. không kể vàng người thâu lấy nơi người buôn bán dông, và nơi sự đổi chác của
kẻ thương mại, cùng vàng mà các vua A-ra-bi, và các quan tổng đốc của xứ đem
nộp.
16. Vua Sa-lô-môn làm hai trăm cái khiên lớn bằng vàng đánh giác, cứ mỗi cái
dùng sáu trăm siếc lơ vàng;
17. lại làm ba trăm cái khiên nhỏ, bằng vàng đánh giác, cứ mỗi cái dùng ba min
vàng. Vua để các khiên ấy trong đền rừng Li-ban.
18. Vua cũng làm một cái ngai lớn bằng ngà, bọc vàng ròng.
19. Ngai này có sáu nấc; thân cao ngai phía sau thì tròn; mỗi phía ngai có thanh
nâng tay, và hai con sư tử đứng kề.
20. Lại có mười hai con khác đứng trên sáu nấc, nơi hữu và tả: chẳng có nước nào
làm ngai giống như vậy.
21. Hết thảy các chén uống của vua Sa-lô-môn đều bằng vàng, và những khí dụng
trong cung rừng Li-ban đều cũng bằng vàng ròng. Chẳng có chi là bằng bạc: trong
đời vua Sa-lô-môn, người ta chẳng kể bạc là chi.
22. Vì đoàn tàu Ta-rê-si của vua mỗi ba năm một lần vượt biển với đoàn tàu của
Hi-ram, đem về vàng, bạc, ngà voi, con khỉ, và con công.
23. Ấy vậy, vua Sa-lô-môn trổi hơn các vua thế gian về sự giàu có và sự khôn
ngoan.
24. Cả thiên hạ đều tìm kiếm mặt Sa-lô-môn đặng nghe sự khôn ngoan mà Ðức Chúa
Trời đã để trong lòng người.
25. Cứ hằng năm, theo lệ định, mọi người đều đem đến dâng vật mình tiến cống cho
vua, nào chậu bằng bạc và bằng vàng, áo xống, binh khí, thuốc thơm, ngựa, và la.
26. Sa-lô-môn cũng nhóm xe và lính kị; có một ngàn bốn trăm xe và mười hai ngàn
lính kị, để trong các thành chứa xe, và tại Giê-ru-sa-lem, gần bên vua.
27. Tại Giê-ru-sa-lem vua làm cho bạc ra thường như đá, và cây bá hương nhiều
như cây sung mọc nơi đồng bằng.
28. Vua Sa-lô-môn do nơi Ê-díp-tô mà được ngựa; một đoàn con buôn của vua đi
kiếm mua từng bầy, giá phải chăng.
29. Mỗi cỗ xe mua ở xứ Ê-díp-tô và dẫn về Giê-ru-sa-lem, giá đáng sáu trăm siếc
lơ bạc, còn mỗi con ngựa giá đáng một trăm năm mươi siếc lơ. Các vua dân Hê-tít
và vua Sy-ri cũng theo giá ấy, nhờ những con buôn của vua mua về.
1 Các Vua 11
chọn đoạn khác
1. Ngoài con gái của Pha-ra-ôn, vua Sa-lô-môn lại còn thương mến nhiều người nữ
của dân ngoại; tức là người nữ Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, Si-đôn, và Hê-tít.
2. Chúng nó thuộc về các dân tộc mà Ðức Giê-hô-va có phán với dân Y-sơ-ra-ên
rằng: Các ngươi và chúng nó chớ đi lại giao thông với nhau; vì chúng nó hẳn sẽ
quyến dụ lòng các ngươi hướng theo các thần chúng nó. Sa-lô-môn tríu mến những
người nữ ấy.
3. Người có bảy trăm hoàng hậu, và ba trăm cung nữ; chúng nó bèn làm cho người
trở lòng.
4. Trong buổi già yếu, các hoàng hậu của Sa-lô-môn dụ lòng người đi theo các
thần khác: Ðối cùng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời mình, lòng người chẳng trọn lành như
thể lòng của Ða-vít, là cha người.
5. Vì Sa-lô-môn cúng thờ Át-tạt-tê, nữ thần của dân Si-đôn, và thần Minh-côm, là
thần đáng gớm ghiếc của dân Am-môn.
6. Như vậy, Sa-lô-môn làm điều ác trước mặt Ðức Giê-hô-va, chẳng vâng theo Ðức
Giê-hô-va cách trọn lành như Ða-vít, cha người, đã làm.
7. Bấy giờ, Sa-lô-môn lại xây cất tại trên núi đối ngang Giê-ru-sa-lem, một nơi
cao cho Kê-móc, vật đáng gớm ghiếc của dân Mô-áp, và cho Mo-lóc, vật đáng gớm
ghiếc của dân Am-môn.
8. Vua cũng làm như vậy cho hết thảy các hoàng hậu ngoại của mình, xông hương và
tế lễ cho thần của chúng nó.
9. Ðức Giê-hô-va nổi giận cùng Sa-lô-môn, bởi vì lòng người trở bỏ Giê-hô-va Ðức
Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Ðấng đã hai lần hiện đến cùng người,
10. phán bảo người rằng chớ theo các thần khác; nhưng người không vâng theo lịnh
của Ðức Giê-hô-va.
11. Ðức Giê-hô-va phán với Sa-lô-môn rằng: Bởi vì ngươi đã làm điều này, không
giữ giao ước và luật pháp ta truyền cho ngươi, nên ta chắc sẽ đoạt lấy nước khỏi
ngươi, cho kẻ tôi tớ ngươi.
12. Song vì cớ Ða-vít, cha ngươi, ta sẽ chẳng làm điều đó trong đời ngươi. Ta sẽ
đoạt lấy nước khỏi tay con trai ngươi.
13. Lại ta chẳng đoạt lấy cả nước khỏi nó; song vì cớ Ða-vít, đầy tớ ta và vì cớ
Giê-ru-sa-lem mà ta đã chọn, ta sẽ để lại một chi phái cho con trai ngươi.
14. Vậy, Ðức Giê-hô-va khiến dấy lên một kẻ thù nghịch cùng Sa-lô-môn, là
Ha-đát, người Ê-đôm vốn dòng dõi vua Ê-đôm.
15. Vả, trong lúc Ða-vít đánh dẹp Ê-đôm, thì Giô-áp là tổng binh, đi lên chôn
các kẻ thác, và giết hết thảy người nam trong Ê-đôm.
16. Giô-áp và cả Y-sơ-ra-ên ở lại đó sáu tháng, cho đến khi người đã giết hết
thảy người trong Ê-đôm.
17. Lúc bấy giờ, Ha-đát chạy trốn cùng mấy người Ê-đôm, là tôi tớ của cha người,
đặng đến ở Ê-díp-tô; Ha-đát hãy còn thơ ấu.
18. Chúng đi từ Ma-đi-an đến Pha-ran; đoạn bắt mấy người Pha-ran theo mình mà đi
đến Ê-díp-tô, ra mắt Pha-ra-ôn, vua xứ Ê-díp-tô. Vua cấp cho Ha-đát nhà ở, lương
thực và đất ruộng.
19. Ha-đát được ơn nhiều trước mặt Pha-ra-ôn; vua bèn gả em vợ mình cho người,
tức là em của hoàng hậu Tác-bê-ne.
20. Em của Tác-bê-ne sanh cho Ha-đát một con trai tên là Ghê-nu-bát; Tác-bê-ne
dứt sữa nó tại trong đền Pha-ra-ôn. Như vậy, Ghê-nu-bát ở tại trong đền
Pha-ra-ôn, giữa các con trai của vua.
21. Khi Ha-đát ở Ê-díp-tô hay rằng Ða-vít đã an giấc cùng các tổ tiên người, và
Giô-áp, quan tổng binh, đã thác, thì người tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Xin hãy để
cho tôi đi trở về trong xứ tôi.
22. Pha-ra-ôn đáp với người rằng: Ngươi ở nơi ta có thiếu gì sao, nên ao ước trở
về trong xứ mình như vậy? Người thưa rằng: Chẳng thiếu chi. Dầu vậy, xin cho tôi
đi.
23. Ðức Chúa Trời lại khiến dấy lên một kẻ thù nghịch khác, là Rê-xôn, con trai
Ê-li-gia-đa, đã chạy trốn khỏi chúa mình là Ha-đa-đê-xe, vua Xô-ba.
24. Khi Ða-vít giết quân vua Xô-ba, thì người ấy nhóm người ta chung quanh mình,
và làm đầu bọn đó, đi đến thành Ða-mách, bèn ở tại đó, và quản trị thành ấy.
25. Rê-xôn làm kẻ cừu địch cùng Y-sơ-ra-ên trọn đời Sa-lô-môn, ngoài ra sự bại
mà Ha-đát đã làm; người cai trị nước Sy-ri, và ghen ghét Y-sơ-ra-ên.
26. Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát, người Ép-ra-im, ở đất Xê-rê-đa, là tôi tớ
của Sa-lô-môn, cũng dấy nghịch với người. Mẹ người góa bụa, tên là Xê-ru-ha.
27. Này là duyên cớ mà người phản nghịch với vua: Sa-lô-môn xây cất Mi-lô, lấp
vá lại nơi hư lủng của thành Ða-vít, là cha người.
28. Vả, Giê-rô-bô-am là một người mạnh dạn và tài năng; Sa-lô-môn thấy người
tuổi trẻ có tài nghề, bèn đặt người làm đầu xâu cho cả nhà Giô-sép.
29. Xảy trong lúc đó, Giê-rô-bô-am ở Giê-ru-sa-lem đi ra, gặp tiên tri A-hi-gia
ở Si-lô tại giữa đường, mặc cái áo tơi mới. Chỉ có hai người ở ngoài đồng mà
thôi.
30. A-hi-gia bèn nắm áo mới người mặc trong mình mà xé ra làm mười miếng.
31. Ðoạn, người nói với Giê-rô-bô-am rằng: Hãy lấy mười miếng về phần ngươi, vì
Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán như vậy: Kìa, ta sẽ đoạt lấy nước
khỏi tay Sa-lô-môn và trao cho ngươi mười chi phái của nước ấy.
32. Nhưng vì cớ Ða-vít, kẻ tôi tớ ta, và vì cớ Giê-ru-sa-lem, thành ta đã chọn
giữa các chi phái Y-sơ-ra-ên, nên sẽ có một chi phái cứ ở trung tín cùng người.
33. Ấy, bởi vì chúng nó đã từ bỏ ta, đi thờ lạy Át-tạ-tê, nữ thần của dân
Si-đôn, thần xứ Mô-áp, và Minh-côm, thần của dân Am-môn. Chúng nó không đi theo
các đường lối ta, đặng làm điều ngay thẳng tại trước mặt ta, và cũng chẳng giữ
luật lệ và điều răn ta, y như Ða-vít, cha của Sa-lô-môn, đã làm.
34. Nhưng ta sẽ chẳng cất lấy cả nước khỏi tay Sa-lô-môn; song vì Ða-vít, kẻ tôi
tớ ta, ta đã chọn, ta sẽ lập người làm vua trọn đời người sống, bởi vì Ða-vít đã
giữ các điều răn và luật lệ ta.
35. Nhưng ta sẽ đoạt lấy nước khỏi tay con trai người, mà trao cho ngươi mười
chi phái.
36. Ta sẽ để lại một chi phái cho con trai người, để cho tại Giê-ru-sa-lem,
thành ta đã chọn đặng đặt danh ta ở đó, Ða-vít, kẻ tôi tớ ta, hằng có một ngọn
đèn trước mặt ta luôn luôn.
37. Vậy, ta sẽ chọn ngươi và lập làm vua Y-sơ-ra-ên; ngươi sẽ cai trị theo ý
muốn lòng ngươi.
38. Và, nếu ngươi vâng theo lịnh ta, đi trong các đường lối ta, làm điều thiện
trước mặt ta, giữ gìn luật lệ và điều răn ta, y như Ða-vít, tôi tớ ta, đã làm,
thì ta sẽ ở cùng ngươi,
39. lập cho ngươi một nhà vững chắc, y như ta đã lập cho Ða-vít, và ta sẽ ban
Y-sơ-ra-ên cho ngươi. Như vậy, ta sẽ làm sỉ nhục dòng dõi Ða-vít, nhưng chẳng
phải đời đời.
40. Sa-lô-môn tìm thế giết Giê-rô-bô-am; nhưng Giê-rô-bô-am chạy trốn qua
Ê-díp-tô, đến cùng Si-sắc, vua Ê-díp-tô; rồi người ở tại Ê-díp-tô cho đến chừng
Sa-lô-môn băng hà.
41. Còn các điều khác về chuyện Sa-lô-môn, mọi việc người, sự khôn ngoan của
người, thảy đều đã chép trong sách hành trạng của Sa-lô-môn.
42. Sa-lô-môn ở Giê-ru-sa-lem cai trị trên cả Y-sơ-ra-ên trong bốn mươi năm.
43. Ðoạn, Sa-lô-môn an giấc cùng các tổ phụ người, và được chôn trong thành
Ða-vít, cha người. Rô-bô-am, con trai người, cai trị thế cho người.
1 Các Vua 12
chọn đoạn khác
1. Rô-bô-am đến Si-chem vì cả Y-sơ-ra-ên đã hiệp lại tại Si-chem đặng tôn người
làm vua.
2. Khi Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát, hay điều đó, thì còn ở Ê-díp-tô, là
nơi người trốn để thoát khỏi vua Sa-lô-môn.
3. Người ta sai tìm người tại đó. Giê-rô-bô-am cùng cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đều
đến tâu với Rô-bô-am rằng:
4. Thân phụ vua đã làm cho ách chúng tôi nặng quá nhưng bây giờ vua hãy giảm nhẹ
sự phục dịch khó nhọc và cái ách nặng mà thân phụ vua đã gán cho chúng tôi, thì
chúng tôi sẽ phục dịch vua.
5. Người đáp với chúng rằng: Hãy lui về, trong ba ngày sẽ trở lại cùng ta. Dân
sự bèn lui về.
6. Vua Rô-bô-am bàn với các trưởng lão đã hầu hạ Sa-lô-môn, cha mình, trong lúc
người còn sống, mà rằng: Các ngươi bàn luận cho ta phải đáp với dân sự này làm
sao?
7. Chúng thưa lại rằng: Nếu ngày nay vua làm như người đầy tớ của dân sự này,
phục sự họ, đáp lời, trò chuyện tử tế cùng họ, thì họ sẽ làm tôi tớ vua mãi mãi.
8. Nhưng Rô-bô-am không theo mưu của các trưởng lão đã bàn cho mình; bàn nghị
cùng các kẻ trai trẻ đồng lớn lên với mình, và hầu hạ mình,
9. mà rằng: Dân sự này đã tâu với ta rằng: Hãy giảm nhẹ cái ách mà thân phụ vua
đã gán cho chúng tôi; vậy, các ngươi bàn luận cho ta phải đáp với chúng nó làm
sao?
10. Các gã trai trẻ đồng lớn lên với người đáp rằng: dân sự này đã tâu với vua
rằng: Thân phụ vua khiến ách chúng tôi nặng vua hãy làm cho nó ra nhẹ; vua phải
đáp lại cùng chúng như vầy: Ngón tay út ta cón lớn hơn lưng của cha ta.
11. Vậy, cha ta đã gác một cái ách nặng cho các ngươi, ta sẽ làm cái ách các
ngươi thêm nặng hơn nữa; cha ta sửa phạt các ngươi bằng roi da, ta sẽ sửa phạt
các ngươi bằng roi bọ cạp.
12. Ngày thứ ba, Giê-rô-bô-am và cả dân sự đều đi đến Rô-bô-am, y như vua đã
biểu rằng: Hãy trở lại cùng ta trong ba ngày.
13. Vua đáp lời với dân sự cách xẳng xớm, không kể các lời bàn luận của các
trưởng lão,
14. và theo mưu các kẻ trai trẻ mà đáp lại cùng chúng rằng: Cha ta đã khiến cho
ách các ngươi nặng nề; ta sẽ làm ách các ngươi càng nặng nề hơn nữa. Cha ta có
sửa phạt các ngươi bằng roi da, ta sẽ sửa phạt các ngươi bằng roi bọ cạp.
15. Như vậy, vua không khứng nghe lời dân sự, vì điều đó bởi Ðức Giê-hô-va dẫn
đến, đặng làm cho ứng nghiệm lời Ngài cậy A-hi-gia ở Si-lô mà phán cho
Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát.
16. Khi cả Y-sơ-ra-ên thấy vua không khứng nghe lời họ, bèn đáp cùng người rằng:
Chúng ta có phần gì cùng Ða-vít? Chúng ta chẳng có cơ nghiệp chi với con trai
Y-sai. Hỡi Y-sơ-ra-ên! hãy trở về trại mình đi. Ớ Ða-vít! từ rày ngươi khá coi
chừng nhà của ngươi. Như vậy Y-sơ-ra-ên đều rút về các trại của họ.
17. Nhưng về dân Y-sơ-ra-ên ở tại các thành Giu-đa, thì Rô-bô-am cai trị họ.
18. Bấy giờ, Rô-bô-am sai A-đô-ram là người coi sóc việc cống thuế đến cùng
chúng; nhưng cả Y-sơ-r-ên ném đá người chết. Vua Rô-bô-am lật đật lên xe, trốn
về Giê-ru-sa-lem.
19. Ấy vậy, Y-sơ-ra-ên phản nghịch nhà Ða-vít cho đến ngày nay.
20. Khi dân Y-sơ-ra-ên hay rằng Giê-rô-bô-am đã trở về, bèn sai sứ mời người đến
hội mình, và lập người làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Chỉ có chi phái Giu-đa cứ theo
nhà Ða-vít mà thôi.
21. Rô-bô-am đến Giê-ru-sa-lem nhóm hết thảy nhà Giu-đa và chi phái
Bên-gia-minh, số là một tăm tám mươi ngàn người lính chiến kén chọn, toan tranh
chiến cùng nhà Y-sơ-ra-ên đặng bắt nước phục lại Rô-bô-am, con trai Sa-lô-môn.
22. Nhưng Ðức Chúa Trời phán cùng Sê-ma-gia, người của Ðức Chúa Trời, rằng:
23. Hãy nói cùng Rô-bô-am, con trai Sa-lô-môn, vua Giu-đa, cùng hết thảy nhà
Giu-đa, Bên-gia-min, và phần dân sự còn lại, mà rằng:
24. Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi chớ đi lên đánh anh em mình, là dân
Y-sơ-ra-ên. Mỗi người hãy trở về nhà mình, vì sự này bởi ta mà xảy đến. Chúng
vâng theo lời Ðức Giê-hô-va mà trở về theo mạng lịnh của Ngài.
25. Giê-rô-bô-am bèn xây cất Si-chem trên núi Ép-ra-im, và ở tại đó. Ðoạn từ đó
người đi ra xây cất Phê-nu-ên.
26. Bấy giờ, Giê-rô-bô-am nói thầm rằng: Hoặc nước sẽ trở về nhà Ða-vít chăng.
27. Nếu dân sự này đi lên Giê-ru-sa-lem đặng tế lễ tại trong đền của Ðức
giê-hô-va, thì lòng họ chắc sẽ trở về chúa của họ, là Rô-bô-am, vua Giu-đa;
người ta sẽ giết ta đi và trở về với Rô-bô-am, vua Giu-đa.
28. Vậy, vua bàn định, rồi truyền làm hai con bò con bằng vàng, và nói với dân
sự rằng: Các ngươi đi lên Giê-ru-sa-lem thật khó thay! Hỡi Y-sơ-ra-ên! nầy là
các thần ngươi, đã đem ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô.
29. Người đặt con này tại Bê-tên, và con kia tại Ðan.
30. Việc đó thành nên tội lỗi, vì dân chúng đi đến Ðan đặng thờ lạy bò con ấy.
31. Giê-rô-bô-am cũng cất chùa miễu trên các nơi cao, chọn lấy người trong vòng
dân chúng lập làm thầy tế lễ, không thuộc về chi phái Lê-vi.
32. Người lại định lập trong tuần tháng tám ngày rằm, một lễ giống như lễ người
ta thường dự trong xứ Giu-đa, và người dâng các của lễ trên bàn thờ. Người cũng
làm như vậy tại Bê-tên, tế lễ cho hai bò con mà người đã làm nên; lại để tại
Bê-tên những thầy tế lễ của các nơi cao mà người đã cất.
33. Ngày rằm tháng tám, tức là tháng người tự chọn lấy, Giê-rô-bô-am đi lên bàn
thờ mình đã cất tại Bê-tên. Người lập một lễ cho dân Y-sơ-ra-ên, rồi đi lên bàn
thờ đặng xông hương.
1 Các Vua 13
chọn đoạn khác
1. Ðương khi Giê-rô-bô-am đứng gần bàn thờ, đặng xông hương, kìa, có một người
của Ðức Chúa Trời ở Giu-đa, vâng mạng Ðức Giê-hô-va mà đến Bê-tên.
2. Người vâng theo lời phán của Ðức Giê-hô-va, quở trách bàn thờ mà nói rằng:
Hỡi bàn thờ, bàn thờ! Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Một đứa con trai sẽ sanh ra
cho nhà Ða-vít, tên nó là Giô-si-a. Nó sẽ dâng trên mầy những thầy tế lễ của các
nơi cao, là người xông hương trên mầy, và người ta sẽ thiêu trên mầy hài cốt của
người chết.
3. Trong ngày đó, thầy tiên tri tỏ một dấu lạ, rằng: Nầy là dấu lạ mà Ðức
Giê-hô-va đã phán: Bàn thờ sẽ nứt, tro trên bàn thờ sẽ đổ xuống đất.
4. Khi vua Giê-rô-bô-am nghe lời hăm dọa mà người của Ðức chúa Trời nói nghịch
cùng bàn thờ tại Bê-tên, thì người giơ tay ra trên bàn thờ mà bảo rằng: Hãy bắt
nó đi. Nhưng cánh tay vua giơ ra đối cùng tiên tri bèn trở nên khô, không thế co
lại vào mình được.
5. Bàn thờ cũng nứt ra, và tro ở trên đổ xuống, y như dấu lạ mà người của Ðức
Chúa Trời đã vâng mạng Ðức Giê-hô-va tỏ ra.
6. Bấy giờ, vua cất tiếng nói với người của Ðức Chúa Trời rằng: Xin hãy nài xin
Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi và cầu nguyện cho ta, hầu cho tay ta được lại như
cũ. Người của Ðức Chúa Trời cầu khẩn Ðức Giê-hô-va, thì tay vua bèn co vào được,
trở lại y như trước.
7. Vua bèn nói cùng người của Ðức Chúa Trời rằng: Ngươi hãy về cung với ta đặng
bổ sức lại, và ta sẽ dâng cho ngươi một lễ vật.
8. Người của Ðức Chúa Trời đáp lại cùng vua rằng: Dẫu vua ban cho tôi phân nửa
gia sản vua, tôi cũng chẳng vào cung với vua, hoặc ăn bánh hay là uống nước tại
nơi này;
9. vì Ðức Giê-hô-va đã phán dặn ta như vầy, rằng: Ngươi chớ ăn bánh, chớ uống
nước, chớ noi con đường ngươi đã đi mà trở về.
10. Ấy vậy, người đi đường khác, chẳng trở lại đường người đã bắt đi đến Bê-tên.
11. Vả, có một tiên tri già ở tại Bê-tên. Một con trai người đến học lại cho
người mọi điều người của Ðức Chúa Trời đã làm tại Bê-tên trong ngày đó, và các
lời người đã nói với vua. Người cha nghe lời thuật này, thì hỏi con mình rằng:
12. Người ấy đi đường nào? Các con trai người chỉ con đường mà người của Ðức
Chúa Trời ở Giu-đa đã noi đi về.
13. Người bèn nói cùng các con trai mình rằng: Hãy thắng lừa ta; chúng bèn thắng
lừa, rồi người lên cỡi,
14. đi theo người của Ðức Chúa Trời, gặp người ngồi dưới gốc cây thông, thì nói
rằng: Có phải ngươi là người của Ðức Chúa Trời ở Giu-đa đến chăng? Người đáp: Ấy
là tôi.
15. Tiên tri già tiếp rằng: Hãy đến nhà với ta đặng dùng bữa.
16. Nhưng người đáp lại rằng: Tôi chẳng thể trở về với ông, cũng chẳng thể vào
nhà ông, hoặc ăn bánh hay là uống nước với ông tại nơi này cũng không đặng;
17. vì Ðức Giê-hô-va đã phán dặn tôi rằng: Ngươi chớ ăn bánh, chớ uống nước tại
nơi đó, và cũng đừng trở lại theo con đường ngươi đã bắt đặng đi đến.
18. Người kia lại tiếp rằng: Ta cũng là tiên tri như ngươi. Vả, một thiên sứ
vâng lịnh Ðức Giê-hô-va có phán với ta rằng: hãy dẫn nó vào nhà với ngươi, hầu
cho ăn bánh và uống nước. Nhưng người tiên tri này nói dối người.
19. Người của Ðức Chúa Trời bèn trở lại với người, ăn và uống tại nhà người.
20. Khi hai người đương ngồi bàn, có lời của Ðức Giê-hô-va phán với tiên tri đã
đem người về;
21. người liền kêu la cùng người của Ðức Chúa Trời ở Giu-đa đến mà rằng: Ðức
Giê-hô-va phán như vầy: Bởi vì ngươi phản nghịch lời của của Ðức Giê-hô-va Ðức
Chúa Trời ngươi đã truyền cho ngươi,
22. nhưng đã trở lại ăn bánh uống nước tại đó, thì xác chết ngươi sẽ chẳng được
chôn trong mồ mả của tổ phụ ngươi.
23. Khi đã ăn uống xong, tiên tri già bèn thắng lừa cho tiên tri mình đã dẫn về.
24. Người liền đi: dọc đường người gặp một con sư tử và bị nó giết đi. Thây
người nằm sải trên đường, có con lừa đứng một bên, còn sư tử cũng đứng gần bên
thây.
25. Có người đi ngang qua thấy thây nằm sải trên đường, và con sư tử đứng kế
bên, thì đi đến trong thành của tiên tri già ở, thuật lại đều mình đã thấy.
26. Khi tiên tri già, là người đã khiến người của Ðức Chúa Trời trở bước lại,
nghe điều ấy, bèn nói rằng: Ấy là người của Ðức Chúa Trời đã phản nghịch lời của
Ðức Giê-hô-va. Bởi vậy cho nên Ðức Giê-hô-va đã phó người cho sư tử phân xé và
giết đi, y như lời Ðức Giê-hô-va đã phán.
27. Ðoạn, người biểu các con trai mình rằng: Hãy thắng lừa ta. Chúng bèn thắng
lừa.
28. Người đi, gặp xác chết nằm trên đường, con lừa và con sư tử ở hai bên. Con
sư tử không ăn xác chết và không phân xé con lừa.
29. Tiên tri già cất xác của người Ðức Chúa Trời lên, chở trên con lừa, đem về
vào trong thành mình, đặng than khóc và chôn người.
30. Người chôn xác ấy trong mộ mình, rồi khóc người mà rằng: Thương ôi! anh ôi!
31. Sau khi chôn xác rồi, người nói với các con trai mình rằng: Khi nào ta chết,
các con hãy chôn ta vào mả đã chôn người của Ðức Chúa Trời, để hài cốt ta ở bên
hài cốt người.
32. Vì các lời hăm dọa người vâng mạng Ðức Giê-hô-va mà nói nghịch cùng bàn thờ
tại Bê-tên và nghịch cùng các chùa miễu tại trên những nơi cao ở trong các thành
Sa-ma-ri, hẳn sẽ được ứng nghiệm.
33. Sau việc ấy, Giê-rô-bô-am không trở lại con đường ác mình, nhưng người lại
lập cho các nơi cao những thầy tế lễ chọn trong đám dân sự; phàm ai tình nguyện,
thì được người biệt riêng ra làm thầy tế lễ tại các nơi cao.
34. Nhân vì cớ ấy nhà Giê-rô-bô-am phạm tội, đến đỗi bị diệt khỏi mặt đất.
1 Các Vua 14
chọn đoạn khác
1. Trong lúc đó, A-bi-gia, con trai của Giê-rô-bô-am, đau.
2. Giê-rô-bô-am nói với vợ mình rằng: Ta xin ngươi hãy chổi dậy, giả dạng khác
đi, cho người ta không biết người là vợ ta. Ngươi hãy đi đến Si-lô, tại đó có
tiên tri A-hi-gia, là đấng đã nói trước về ta rằng ta sẽ làm vua của dân sự này.
3. Ngươi phải lấy đem theo mười ổ bánh, những bánh ngọt, và một bình mật ong,
rồi hãy đi đến người; người sẽ nói cho ngươi đều phải xảy đến cho con trẻ.
4. Vợ Giê-rô-bô-am làm theo vậy, đứng dậy đi đến Si-lô, và tới nhà A-hi-gia. Vả,
A-hi-gia không thấy được, bởi vì tuổi già làm cho mắt người mù lòa.
5. Nhưng Ðức Giê-hô-va phán với người rằng: Kìa, vợ của Giê-rô-bô-am đến cầu hỏi
ngươi về con trai nó đương đau. Ngươi sẽ đáp lời cùng nó thể này, thể này. Khi
đến, nàng sẽ giả dạng làm một người khác.
6. Khi nàng bước qua ngạch cửa cái, A-hi-gia nghe tiếng bước người, thì nói
rằng: Hỡi vợ vua Giê-rô-bô-am, hãy vào; cớ sao ngươi giả làm người khác? Ta chịu
sai báo cho ngươi một tin dữ: Hãy đi tâu với Giê-rô-bô-am:
7. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta đã cất ngươi lên từ
giữa dân sự, lập ngươi làm vua trên dân Y-sơ-ra-ên ta.
8. Ta đã đoạt lấy nước khỏi nhà Ða-vít, kẻ tôi tớ ta, là người gìn giữ các điều
răn ta, hết lòng theo ta, chỉ làm điều thiện tại trước mặt ta.
9. Ngươi đã làm điều ác hơn các kẻ tiên bối ngươi, đi lập cho mình những thần
khác và hình tượng đúc đặng chọc giận ta, và đã chối bỏ ta.
10. Bởi cớ đó, ta sẽ giáng tai họa trên nhà Giê-rô-bô-am, các nam đinh của nó,
bất luận kẻ nô lệ hay là người tự do, ta sẽ diệt hết khỏi trong Y-sơ-ra-ên, và
quét sạch nhà nó, như người ta quét phân, cho đến chẳng còn sót chi hết.
11. Phàm người của nhà Giê-rô-bô-am chết tại trong thành, đều sẽ bị chó ăn nuốt,
còn người nào chết ngoài đồng, thì sẽ bị chim trời cắn rỉa ăn đi; vì Ðức
Giê-hô-va đã phán vậy.
12. Thế thì, hãy đứng dậy trở về nhà ngươi; vừa khi ngươi đặt chơn vào thành,
thì con ngươi sẽ chết.
13. Cả Y-sơ-ra-ên sẽ than khóc và chôn nó; trong nhà Giê-rô-bô-am chỉ một mình
nó sẽ được chôn nơi mồ mả, vì trong gia quyến Giê-rô-bô-am chỉ thấy nơi nó có
chút lòng tốt đối cùng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
14. Trong ngày đó, Ðức Giê-hô-va sẽ dấy lên một vua trên Y-sơ-ra-ên, người diệt
hết nhà Giê-rô-bô-am. Mà sao? Việc đã xảy đến rồi.
15. Ðức Giê-hô-va sẽ hành hại Y-sơ-ra-ên, như một cây sậy bị nước đưa đi, truất
Y-sơ-ra-ên khỏi xứ tốt đẹp này mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ, và làm tản lạc họ
phía bên kia sông cái, bởi vì họ đã lấy hình tượng chọc giận Ðức Giê-hô-va.
16. Vì cớ tội Giê-rô-bô-am đã phạm, tức tội khiến cho dân Y-sơ-ra-ên can phạm
nên Ðức Giê-hô-va sẽ phó Y-sơ-ra-ên vào tay thù nghịch.
17. Vợ của Giê-rô-bô-am đứng dậy đi và đến Tiệt-sa. Nàng vừa đặt chơn trên ngạch
cửa nhà, thì đứa trẻ đã chết.
18. Người ta chôn nó, và cả Y-sơ-ra-ên đều than khóc nó, theo như lời của Ðức
Giê-hô-va đã cậy miệng tôi tớ Ngài, là A-hi-gia, đấng tiên tri, mà phán.
19. Mọi công việc khác của Giê-rô-bô-am làm, tức là sự tranh chiến và cuộc trị
vì của người, đều đã chép trong sách sử ký của các vua Y-sơ-ra-ên.
20. Giê-rô-bô-am trị vì hai mươi hai năm; đoạn, người an giấc cùng các tổ phụ
mình, và Na-đáp, con trai người, kế vị người. Ðời Rô-bô-am trị vì
21. Rô-bô-am, con trai của Sa-lô-môn, cai trị Giu-đa. Khi lên ngôi, người đã
được bốn mươi mốt tuổi; người trị vì mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem, là thành
Ðức Giê-hô-va đã chọn trong các chi phái Y-sơ-ra-ên, đặng đặt danh Ngài ngự tại
đó. Mẹ người tên là Na-a-ma, người Am-môn.
22. Dân Giu-đa làm điều ác tại trước mặt Ðức Giê-hô-va; vì cớ tội phạm, chúng nó
chọc cho Ðức Giê-hô-va phân bì hơn là các tổ phụ mình đã làm.
23. Vì những người Giu-đa cũng xây cất cho mình những nơi cao, trụ thờ và tượng
Át-tạt-tê tại trên các gò nổng cao và dưới những cây rậm.
24. Cũng có những bợm vĩ gian ở trong xứ. Chúng bắt chước làm theo những sự gớm
ghiếc của các dân tộc mà Ðức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
25. Năm thứ năm đời Rô-bô-am trị vì, Si-sắc, vua Ê-díp-tô, đi lên đánh
Giê-ru-sa-lem,
26. lấy các châu báu của đền Ðức Giê-hô-va và của cung vua; người cũng đoạt lấy
hết thảy những khiên bằng vàng mà Sa-lô-môn đã làm.
27. Vua Rô-bô-am bèn truyền làm những khiên bằng đồng đặng thế cho các khiên ấy,
giao cho các quan làm đầu thị vệ canh cửa cung vua.
28. Hễ vua đi vào đền Ðức Giê-hô-va, có những thị vệ cầm các khiên ấy; đoạn, họ
đem cất nó lại trong phòng thị vệ.
29. Các công việc khác của Rô-bô-am, và mọi việc người đã làm, đều chép trong
sách sử ký của các vua Giu-đa.
30. Vả, Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am đánh giặc nhau luôn luôn.
31. Rô-bô-am an giấc với tổ phụ người, và được chôn với họ tại trong thành
Ða-vít. Mẹ người tên là Na-a-ma, người Am-môn, A-bi-giam, con trai người, kế vị
người.
1 Các Vua 15
chọn đoạn khác
1. Năm thứ mười tám đời vua Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, thì A-bi-giam lên
ngôi làm vua Giu-đa.
2. Người trị vì ba năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Ma-a-ca, con gái của
A-bi-sa-lôm.
3. Người đi trong các tội lỗi của cha người đã phạm trước người; và lòng người
không trọn lành với Giê-ho-va Ðức Chúa Trời người như thể lòng Ða-vít, tổ phụ
người.
4. Nhưng vì cớ Ða-vít, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của người dành cho người một ngọn
đèn trong Giê-ru-sa-lem, lập con trai người làm kẻ kế vị người, và khiến cho
Giê-ru-sa-lem còn hoài;
5. vì Ða-vít làm điều thiện trước mặt Ðức Giê-hô-va, và ngoài việc U-ri, người
Hê-tít, trọn đời người không xây bỏ điều gì của Ðức Giê-hô-va đã truyền cho.
6. Vả, Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am đánh giặc nhau trọn đời mình.
7. Các công việc khác của A-bi-giam, mọi việc người làm, đều chép trong sách sử
ký của các vua Giu-đa. A-bi-giam và Giê-rô-bô-am cũng đánh giặc nhau.
8. A-bi-giam an giấc với tổ phụ mình, và người ta chôn người tại trong thành
Ða-vít. A-sa, con trai người, kế vị người.
9. Năm thứ hai mươi, đời vua Giê-rô-bô-am là vua Y-sơ-ra-ên, thì A-sa lên ngôi
làm vua Giu-đa.
10. Người cai trị bốn mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Bà nội người tên là
Ma-a-ca, con gái của A-bi-sa-lôm.
11. A-sa làm điều thiện trước mặt Ðức Giê-hô-va, y như Ða-vít, tổ phụ người, đã
làm.
12. Người đuổi bợm vĩ gian khỏi xứ, và dạy hết thảy hình tượng mà tổ phụ người
đã làm.
13. Lại, người cũng cất chức thái hậu khỏi Ma-a-ca, bà nội mình, bởi vì bà có
dựng tượng Át-tạt-tê. A-sa đánh hạ hình tượng của bà, đốt tại trong trũng
Xết-rôn.
14. Song người không trừ bỏ các nơi cao; dầu vậy, đối với Ðức Giê-hô-va, lòng
A-sa là trọn lành cả đời mình.
15. Người đem để lại trong đền Ðức Giê-hô-va những vật thánh của cha người, và
những vật mà chính mình người đã biệt riêng ra thánh, hoặc vàng, bạc, hay là các
khí dụng.
16. A-sa, vua Giu-đa, và Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, đánh giặc nhau trọn đời mình.
17. Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, đi lên đánh Giu-đa, xây đồn lũy Ra-ma, để làm cho
dân sự của A-sa, vua Giu-đa, không ra vào nơi A-sa, vua Giu-đa được.
18. Khi ấy, A-sa bèn lấy hết những bạc và vàng còn lại trong kho của đền Ðức
Giê-hô-va và trong kho nơi cung của vua, giao cho đều tớ mình; đoạn sai họ đến
Bên-Ha-đát, con trai Táp-ri-môn, cháu Hê-xi-ôn, vua Sy-ri, ở Ða-mách, và nói
rằng:
19. Chúng ta hãy lập giao ước với nhau, y như cha của ông và cha ta đã làm. Kìa,
ta sai đem lễ vật bằng bạc và vàng; hãy đi phá lời giao ước của ông với Ba-ê-sa,
vua Y-sơ-ra-ên, để hắn dan xa ta.
20. Bên-Ha-đát nghe lời vua A-sa; bèn sai các quan tướng mình hãm đánh những
thành của Y-sơ-ra-ên, chiếm lấy Y-giôn, Ðan, A-bên-Bết-Ma-ca, và cả xứ Ki-nê-rốt
với xứ Nép-ta-li.
21. Ba-ê-sa hay được điều đó, liền thôi xây đắp đồn Ra-ma, mà rút về ở tại
Tiệt-sa.
22. Vua A-sa bèn nhóm hết thảy người Giu-đa, không trừ một ai; chúng đem đi
những đá và gỗ mà Ba-ê-sa đã dùng xây đắp đồn Ra-ma. Vua A-sa dùng đồ ấy đặng
xây cất Ghê-ba trong xứ Bên-gia-min, và Mích-ba.
23. Các công việc khác của A-sa, quyền thế của người, mọi việc người làm, và các
thành người xây cất, đều đã chép trong sử ký của các vua Giu-đa. Khi người đã
già rồi, thì đau chơn.
24. A-sa an giấc cùng tổ phụ người, và được chôn với họ trong thành Ða-vít, tổ
tiên người. Giô-sa-phát, con trai người, kế vị người.
25. Năm thứ hai đời A-sa, vua Giu-đa, Na-đáp, con trai Giê-rô-bô-am, lên ngôi
làm vua Y-sơ-ra-ên, và trị vì trên Y-sơ-ra-ên hai năm.
26. Người làm điều ác trước mặt Ðức Giê-hô-va, đi theo đường của tổ phụ mình,
phạm tội mà Giê-rô-bô-am đã phạm và khiến cho Y-sơ-ra-ên can phạm nữa.
27. Ba-ê-se, con trai A-hi-gia, về nhà Y-sa-ca, làm phản người; trong lúc Na-đáp
và cả Y-sơ-ra-ên vây Ghi-bê-thôn, vốn thuộc về dân Phi-li-tin, thì Ba-ê-se giết
người tại đó.
28. Ấy là nhằm năm thứ ba đời A-sa, vua Giu-đa, mà Ba-ê-sa giết Na-đáp và trị vì
thế cho người.
29. Vừa khi người lên ngôi làm vua, thì giết hết thảy người thuộc về nhà
Giê-rô-bô-am, không để sót một ai, đến đỗi đã diệt hết trong nhà Giê-rô-bô-am,
theo như lời Ðức Giê-hô-va đã cậy miệng A-hi-gia, kẻ tôi tớ Ngài ở Si-lô, mà
phán ra;
30. ấy vì cớ tội lỗi của Giê-rô-bô-am đã phạm làm cho Y-sơ-ra-ên cũng phạm tội,
và chọc giận Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
31. Các công sự khác của Na-đáp, mọi việc người làm, đều đã chép trong sử ký của
các vua Y-sơ-a-ên.
32. Vả, A-sa, vua Giu-đa, và Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, đánh giặc nhau trọn đời
mình.
33. Năm thứ ba đời A-sa, vua Giu-đa, thì Ba-ê-sa, con trai A-hi-gia, lên làm vua
của Y-sơ-ra-ên; người ở tại Tiệt-sa, và cai trị hai mươi bốn năm.
34. Người làm điều ác trước mặt Ðức Giê-hô-va, đi theo đường của Giê-rô-bô-am,
và tội lỗi mà Giê-rô-bô-am đã phạm làm cho Y-sơ-ra-ên cũng phạm tội.
1 Các Vua 16
chọn đoạn khác
1. Bấy giờ, lời của Ðức Giê-hô-va phán cho Giê-hu, con trai của Hu-na-ni, nghịch
cùng Ba-ê-sa, mà rằng:
2. Ta đã cất ngươi lên khỏi bụi đất và lập ngươi làm vua chúa dân Y-sơ-ra-ên ta;
song ngươi đã đi theo đường của Giê-rô-bô-am, xui cho dân Y-sơ-ra-ên ta phạm
tội, và vì tội chúng nó, chọc giận ta.
3. Nhân vì cớ ấy, ta sẽ quét sạch Ba-ê-sa và nhà nó, làm cho nhà nó giống như
nhà Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát vậy.
4. Phàm kẻ nào thuộc về Ba-ê-sa chết tại trong thành sẽ bị chó ăn, phàm kẻ nào
chết ngoài đồng sẽ bị chim trời rỉa ăn.
5. Các công việc khác của Ba-ê-sa, những việc người làm, và quyền thế người, đều
đã chép trong sách sử ký của các vua Y-sơ-ra-ên.
6. Ba-ê-sa an giấc cùng các tổ phụ người, và được chôn tại Tiệt-sa, Ê-la, con
trai người, kế vị người.
7. Lời của Ðức Giê-hô-va lại cậy tiên tri Giê-hu, con trai Ha-na-ni, mà phán
nghịch cùng Ba-ê-sa và nhà người, chẳng những vì cớ các tội ác của người đã làm
trước mặt Ðức Giê-hô-va, lấy công việc của tay mình mà chọc cho Ngài giận, và vì
làm giống như nhà của Giê-rô-bô-am, mà lại bởi vì người đã hủy diệt nhà ấy.
8. Năm thứ hai mươi sáu đời A-sa, vua Giu-đa, thì Ê-la, con trai Ba-ê-sa, lên
làm vua Y-sơ-ra-ên. Người ở tại Tiệt-sa, và cai trị hai năm.
9. Xim-ri, kẻ tôi tớ Ê-la, làm tướng coi phân nửa xe binh, làm phản người. Ê-la,
ở Tiệt-sa, làm quan cai đền người tại thành ấy.
10. Xim-ri bèn vào giết người, nhằm năm hai mươi bảy đời A-sa, vua Giu-đa, và
cai trị thay cho người.
11. Xảy khi Xim-ri vừa lên ngôi làm vua, thì người giết hết thảy nhà Ba-ê-sa,
chẳng để lại một nam đinh nào hết, hoặc bà con hay là bằng hữu người cũng vậy.
12. Vì các tội lỗi mà Ba-ê-sa và Ê-la con trai người đã phạm, tức là tội đã gây
cho Y-sơ-ra-ên can phạm, và vì các sự hư không của chúng nó chọc giận Giê-hô-va
Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,
13. nên Xim-ri diệt hết cả nhà Ba-ê-sa, y như lời Ðức Giê-hô-va đã cậy miệng
Giê-hu là đấng tiên tri, mà phán ra cho Ba-ê-sa.
14. Các công việc khác của Ê-la, và mọi việc người làm, đều đã chép trong sử ký
của các vua Y-sơ-ra-ên.
15. Năm thứ hai mươi bảy đời A-sa, vua Giu-đa, thì Xim-ri lên ngôi làm vua bảy
ngày tại Tiệt-sa. Bấy giờ, quân lính Y-sơ-ra-ên đương vây Ghi-bê-thôn, là thành
vốn thuộc về dân Phi-li-tin.
16. Khi đạo binh hay tin này rằng: Xim-ri đã phản nghịch và giết vua, thì cũng
một ngày đó, trong dinh, cả Y-sơ-ra-ên đều lập Ôm-ri, là quan tổng binh, làm vua
trên Y-sơ-ra-ên.
17. Ôm-ri và cả Y-sơ-ra-ên từ Ghi-bê-thôn đi lên vây Tiệt-sa.
18. Xảy khi Xim-ri thấy thành đã bị hãm, thì đi vào đồn lũy của cung vua mà đốt
chính mình luôn với cung vua, rồi chết
19. vì những tội lỗi người đã phạm, làm điều ác trước mặt Ðức Giê-hô-va, bắt
chước theo đường của Giê-rô-bô-am đã phạm, tức tội đã gây cho Y-sơ-ra-ên can
phạm.
20. Các chuyện khác của Xim-ri, sự người làm phản, đều đã chép trong sử ký của
các vua Y-sơ-ra-ên.
21. Bấy giờ, dân Y-sơ-ra-ên chia làm hai phe: phe này theo Típ-ni, con trai
Ghi-nát, và muốn lập người làm vua; phe kia theo Ôm-ri.
22. Nhưng phe theo Ôm-ri thắng hơn phe theo Típ-ni, con trai Ghi-nát. Vậy,
Típ-ni chết và Ôm-ri cai trị.
23. Năm thứ ba mươi mốt đời A-sa, vua Giu-đa, thì Ôm-ri lên ngôi làm vua
Y-sơ-ra-ên, và cai trị mười hai năm. Người trị vì sáu năm tại Tiệt-sa.
24. Ðoạn, người mua hòn núi Sa-ma-ri của Sê-me, giá là hai ta lâng bạc. Trên núi
ấy, người cất một cái thành lấy tên Sê-me, là tên chủ núi Sa-ma-ri mà đặt tên
cho thành.
25. Ôm-ri làm điều ác trước mặt Ðức Giê-hô-va, ăn ở tệ hơn các người tiên bối
người.
26. Trong mọi sự, người bắt chước theo đường Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, phạm
tội mà Giê-rô-bô-am đã phạm, tức tội đã gây cho dân Y-sơ-ra-ên con phạm, và lấy
những sự hư không mình mà chọc giận Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
27. Các chuyện khác của Ôm-ri, những công việc người làm, và quyền thế người,
đều đã ghi trong sử ký của các vua Y-sơ-ra-ên.
28. Ôm-ri an giấc với tổ phụ mình, và được chôn tại Sa-ma-ri. A-háp, con trai
người, kế vị người.
29. Năm thứ ba mươi tám đời A-sa, vua Giu-đa, thì A-háp, con trai Ôm-ri, lên
ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên; người ở Sa-ma-ri, cai trị trên Y-sơ-ra-ên hai mươi hai
năm.
30. A-háp, con trai Ôm-ri, làm điều ác trước mặt Ðức Giê-hô-va hơn hết thảy các
người tiên bối mình.
31. Vả, người lấy sự bắt chước theo tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát,
làm nhỏ mọn, nên người đi lấy Giê-sa-bên, con gái Ết-ba-anh, vua dân Si-đôn, mà
làm vợ; người cũng đi hầu việc Ba-anh và thờ lạy nó.
32. Người lập một bàn thờ cho Ba-anh tại trong miễu của Ba-anh mà người đã cất
tại Sa-ma-ri.
33. A-háp cũng dựng lên một hình tượng Át-tạt-tê. Vậy, A-háp làm nhiều điều ác,
chọc giận Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên hơn các vua Y-sơ-ra-ên trước
mình.
34. Trong đời A-háp, Hi-ên ở Bê-tên, xây lại thành Giê-ri-cô. Khi người đặt cái
nền thì mất A-bi-ram, con trưởng nam mình, lúc dựng các cửa thì mất Sê-gúp, con
út mình, theo như lời của Ðức Giê-hô-va đã cậy Giô-suê, con trai của Nun, mà
phán ra.
1 Các Vua 17
chọn đoạn khác
1. Ê-li ở Thi-sê-be, là một người trong bọn đã sang ngụ Ga-la-át, nói với A-háp
rằng: Ta đứng trước mặt Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên hằng sống mà thề
rằng: Mấy năm về sau đây, nếu ta chẳng nói, chắc sẽ không có sương, cũng không
có mưa.
2. Ðoạn có lời của Ðức Giê-hô-va phán dạy người rằng:
3. Hãy đi khỏi đây, qua phía đông, và ẩn ngươi bên khe Kê-rít, đối ngang
Giô-đanh.
4. Ngươi sẽ uống nước của khe, và ta đã truyền cho chim quạ nuôi ngươi tại đó.
5. Vậy, Ê-li đi, vâng theo lời của Ðức Giê-hô-va, và đến ở nơi mé khe Kê-rít đối
ngang Giô-đanh.
6. Buổi mai và buổi chiều chim quạ đem bánh và thịt cho người; và người uống
nước khe.
7. Nhưng trong ít lâu, thì khe bị khô, vì trong xứ không có mưa.
8. Bấy giờ, có lời của Ðức Giê-hô-va phán dạy Ê-li rằng:
9. Hãy chổi dậy, đi đến Sa-rép-ta, thành thuộc về Si-đôn, và ở tại đó; kìa, ta
đã truyền cho một người góa bụa ở thành ấy lo nuôi ngươi.
10. Vậy, người đứng dậy đi đến Sa-rép-ta. Khi đến cửa thành, người thấy một
người đờn bà góa lượm củi, bèn kêu mà nói rằng: Ta xin ngươi hãy đi múc một chút
nước trong bình để cho ta uống.
11. Nàng bèn đi múc nước. Nhưng người kêu lại và nói với nàng rằng: Cũng hãy đem
trong tay ngươi cho ta một miếng bánh nữa.
12. Nàng đáp: Tôi chỉ mạng sống của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của ông mà thề, tôi
không có bánh, chỉ có một nắm bột trong vò và một chút dầu trong bình; này tôi
lượm hai khúc củi, đoạn về nấu dọn cho tôi và con trai tôi; khi ăn rồi, chúng
tôi sẽ chết.
13. Nhưng Ê-li tiếp rằng: Chớ sợ chi, hãy trở về, làm y như ngươi đã nói; song
trước hãy dùng bột ấy làm cho ta một cái bánh nhỏ, rồi đem ra cho ta; kế sau
ngươi sẽ làm cho ngươi và cho con trai ngươi.
14. Vì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vậy: Bột sẽ không hết
trong vò, và dầu sẽ không thiếu trong bình, cho đến ngày Ðức Giê-hô-va giáng mưa
xuống đất.
15. Vậy, nàng đi và làm theo điều Ê-li nói. Nàng và nhà nàng, luôn với Ê-li ăn
trong lâu ngày.
16. Bột chẳng hết trong vò, dầu không thiếu trong bình, y như lời Ðức Giê-hô-va
đã cậy miệng Ê-li mà phán ra.
17. Sau một ít lâu, con trai của người đờn bà, tức là chủ nhà, bị đau; bịnh rất
nặng đến đỗi trong mình nó chẳng còn hơi thở.
18. Người đờn bà bèn nói với Ê-li rằng: Hỡi người của Ðức Chúa Trời, tôi với ông
có việc chi chăng? Có phải ông đến nhà tôi đặng nhắc lại những tội lỗi tôi và
giết con tôi chăng?
19. Người đáp với nàng rằng: hãy giao con nàng cho ta. Người bồng nó khỏi tay mẹ
nó, đem lên phòng cao, chỗ người ở, và để nó nằm trên giường mình.
20. Ðoạn, người kêu cầu cùng Ðức Giê-hô-va mà rằng: Giê-hô-va Ðức Chúa Trời tôi
ôi! cớ sao Ngài giáng tai họa trên người đờn bà góa này, nhà nàng là nơi tôi trú
ngụ, mà giết con trai người đi?
21. Người nằm ấp trên mình con trẻ ba lần, lại kêu cầu cùng Ðức Giê-hô-va nữa mà
rằng: Ôi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời tôi! xin Chúa khiến linh hồn của đứa trẻ này
trở lại trong mình nó.
22. Ðức Giê-hô-va nhậm lời của Ê-li; linh hồn của đứa trẻ trở lại trong mình nó,
và nó sống lại.
23. Ê-li bồng đứa trẻ, đi xuống lầu, vào trong nhà dưới, giao cho mẹ nó mà nói
rằng: Hãy xem, con nàng sống.
24. Nàng bèn nói cùng Ê-li rằng: Bây giờ tôi nhìn biết ông là một người của Ðức
Chúa Trời, và lời phán của Ðức Giê-hô-va ở trong miệng ông là thật.
1 Các Vua 18
chọn đoạn khác
1. Cách lâu ngày, trong năm thứ ba có lời của Ðức Giê-hô-va phán dạy Ê-li rằng:
Hãy đi, ra mắt A-háp: ta sẽ khiến mưa sa xuống đất.
2. Vậy, Ê-li đi ra mắt A-háp. Vả, tại Sa-ma-ri có cơn đói kém quá đỗi.
3. A-háp sai gọi Áp-đia, là quan gia tể mình. (Áp-đia rất kính sợ Ðức Giê-hô-va.
4. Xảy ra khi Giê-sa-bên diệt hết các đấng tiên tri đi giấu trong hai hang đá,
mỗi hang năm mươi người, dùng bánh và nước mà nuôi họ.)
5. A-háp nói với Áp-đia rằng: Hãy đi khắp xứ, xem hết thảy các suối và khe, có
lẽ chúng ta sẽ tìm được cỏ, và cứu cho ngựa và la còn sống, không phải diệt hết
các súc vật ta chăng?
6. Vậy, hai người chia xứ đặng đi tuần. A-háp đi một mình con đường này, và
Áp-đia đi một mình con đường kia.
7. Áp-đia đương đi đường, thì gặp Ê-li ra đón mình. Áp-đia nhìn biết người, sấp
mình xuống đất, mà thưa rằng: Hỡi Ê-li chúa tôi! có phải ông chăng?
8. Người đáp: Ừ phải ta. Ngươi hãy đi nói với chủ ngươi rằng: Ê-li ở đây.
9. Áp-đia tiếp rằng: Tôi có phạm tội gì, mà ông muốn phó kẻ tôi tớ ông vào tay
A-háp, hầu cho người giết tôi đi?
10. Tôi chỉ Giê-hô-va Ðức Chúa Trời hằng sống của ông mà thề, chẳng dân nào nước
nào mà chủ tôi không sai đến tìm ông và khi người ta đáp rằng: Ê-li không có
đây, thì người bắt nước bắt dân ấy thề rằng không ai gặp ông.
11. Mà bây giờ, ông lại nói với tôi tớ rằng: Hãy đi nói với chủ ngươi: Ê-li ở
đây.
12. Rồi khi tôi lìa khỏi ông, sẽ có thần của Ðức Giê-hô-va đem ông đi nơi nào
tôi chẳng biết; vậy, khi tôi đi thuật lại cùng A-háp, mà người không thấy ông,
ắt sẽ giết tôi đi. Vả, kẻ tôi tớ ông kính sợ Ðức Giê-hô-va từ khi thơ ấu.
13. Khi Giê-sa-bên giết các tiên tri của Ðức Giê-hô-va, thì tôi có giấu một trăm
tiên tri của Ðức Giê-hô-va trong hai hang đá, mỗi hang năm mươi người, dùng bánh
và nước mà nuôi họ; người ta há không có thuật điều đó cho chúa tôi hay sao?
14. Và bây giờ, ông biểu tôi: Hãy đi nói với chủ ngươi rằng: Ê-li ở đây. Người
ắt sẽ giết tôi đi.
15. Ê-li đáp rằng: Ta chỉ sanh mạng Ðức Giê-hô-va vạn quân, là Ðấng ta phục sự,
mà thề rằng: Chính ngày nay ta sẽ ra mắt A-háp.
16. Vậy, Áp-đia đi đón A-háp, và thuật lại cho người. A-háp bèn đi đón Ê-li.
17. Vừa khi A-háp thấy Ê-li, thì nói rằng: Có phải ngươi, là kẻ làm rối loạn
Y-sơ-ra-ên chăng?
18. Ê-li đáp rằng: Chẳng phải tôi làm rối loạn Y-sơ-ra-ên đâu; bèn là vua và nhà
cha vua, bởi vì vua đã bỏ điều răn của Ðức Giê-hô-va, và đã tin theo thần
Ba-anh.
19. Vậy bây giờ vua hãy sai người đi nhóm cả Y-sơ-ra-ên, với bốn trăm năm mươi
tiên tri của Ba-anh, và bốn trăm tiên tri của Át-tạt-tê, ăn tại bàn Giê-sa-bên,
khiến họ đến cùng tôi trên núi Cạt-mên.
20. Vậy, A-háp sai người đi nhóm cả dân Y-sơ-ra-ên và những tiên tri đến núi
Cạt-mên.
21. Ðoạn Ê-li đến trước mặt dân sự mà nói rằng: Các ngươi đi giẹo hai bên cho
đến chừng nào? Nếu Giê-hô-va là Ðức Chúa Trời, khá theo Ngài; nếu Ba-anh là Ðức
Chúa Trời, hãy theo hắn. Song dân sự không đáp một lời.
22. Bấy giờ, Ê-li nói với dân sự rằng: Trong vòng những tiên tri của Ðức
Giê-hô-va, chỉ một mình ta còn lại; còn các tiên tri Ba-anh số là bốn trăm năm
mươi người.
23. Vậy, hãy cho chúng ta hai con bò đực; họ phải chọn một con cho mình, sả ra
từ miếng, sắp để trên củi, nhưng chớ châm lửa. Còn ta, ta sẽ làm con bò kia, để
nó trên củi, nhưng không châm lửa.
24. Ðoạn, hãy kêu cầu danh của thần các ngươi, còn ta, ta sẽ kêu cầu danh của
Ðức Giê-hô-va. Thần đáp lời bằng lửa, ấy quả là Ðức Chúa Trời. Cả dân sự đều đáp
rằng: Lời nói rất phải.
25. Ê-li bèn nói với những tiên tri Ba-anh rằng: hãy chọn một con bò đực, làm nó
trước đi, vì các ngươi đông; rồi hãy cầu khẩn danh của thần các ngươi; nhưng chớ
châm lửa.
26. Vậy, chúng bắt con bò mà người ta đã ban cho mà làm nó; rồi từ sớm mai đến
trưa, chúng cầu khẩn danh của Ba-anh, và rằng: Hỡi Ba-anh! xin đáp lời chúng
tôi. Nhưng chẳng có tiếng gì, cũng chẳng ai đáp lời; chúng đều nhảy chung quanh
bàn thờ mình đã dựng lên.
27. Khi đã đến trưa, Ê-li nhạo chúng mà rằng: Khá la lớn lên đi, vì người là
thần; hoặc người đương suy gẫm, hoặc ở đâu xa, hoặc đương đi đường; hay là có lẽ
người ngủ, và sẽ thức dậy.
28. Vậy, chúng kêu lớn tiếng; và theo thói lệ họ, lấy gươm giáo gạch vào mình
cho đến chừng máu chảy ra.
29. Khi quá trưa rồi, họ cứ nói tiên tri như vậy cho đến giờ dâng của lễ chay
ban chiều; nhưng vẫn không có tiếng gì, chẳng ai đáp lời, cũng không cố ý đến.
30. Bấy giờ, Ê-li nói với cả dân sự rằng: Hãy đến gần ta. Dân sự bèn đến gần
người. Ðoạn, Ê-li sửa lại cái bàn thờ của Ðức Giê-hô-va bị phá hủy.
31. Người lấy mười hai chi phái của các con trai Gia-cốp, là người mà lời của
Ðức Giê-hô-va đã phán cho rằng: Y-sơ-ra-ên sẽ là tên ngươi.
32. Người dùng mười hai hòn đá ấy mà dựng lên một cái bàn thờ nhơn danh Ðức
Giê-hô-va; chung quanh bàn thờ, người đào một cái mương đựng được hai đấu hột
giống;
33. rồi chất củi, sả bò tơ ra từ miếng, và sắp nó lên trên củi. Kế người nói:
34. Hãy múc đầy bốn bình nước, và đem đổ trên của lễ thiêu và củi. Người lại
nói: Hãy làm lần thứ nhì; thì người ta làm lần thứ nhì. Người tiếp: Hãy làm lần
thứ ba, và họ làm lần thứ ba,
35. cho đến đỗi nước chảy chung quanh bàn thờ, và đầy cái mương nữa.
36. Ðến giờ dâng của lễ chay ban chiều, tiên tri đến gần và nguyện rằng: Lạy
Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của Y-sác, và của Y-sơ-ra-ên, ngày nay
xin hãy tỏ cho người ta biết rằng Ngài là Ðức Chúa Trời trong Y-sơ-ra-ên, rằng
tôi là kẻ tôi tớ Ngài, và tôi vâng lời Ngài mà làm mọi sự này.
37. Ðức Giê-hô-va ôi! Xin nhậm lời tôi, xin đáp lời tôi, hầu cho dân sự này nhìn
biết rằng Giê-hô-va là Ðức Chúa Trời, và Ngài khiến cho lòng họ trở lại.
38. Lửa của Ðức Giê-hô-va bèn giáng xuống, thiêu đốt của lễ thiêu, củi, đá, bụi,
và rút nước trong mương.
39. Thấy vậy, cả dân sự sấp mình xuống đất, và la rằng: Giê-hô-va là Ðức Chúa
Trời! Giê-hô-va là Ðức Chúa Trời!
40. Ê-li nói với chúng rằng: Hãy bắt các tiên tri của Ba-anh, chớ cho thoát một
người nào. Chúng bèn bắt họ, Ê-li đem họ xuống dưới khe Ki-sôn, và giết họ tại
đó.
41. Ðoạn, Ê-li nói cùng A-háp rằng: Hãy đi lên, ăn và uống, vì tôi đã nghe tiếng
mưa lớn.
42. Vậy, A-háp trở lên đặng ăn uống. Nhưng Ê-li leo lên chót núi Cạt-mên, cúi
xuống đất và úp mặt mình giữa hai đầu gối.
43. Ðoạn, người nói với kẻ tôi tớ mình rằng: Xin hãy đi lên, ngó về phía biển.
Kẻ tôi tớ đi lên xem, nhưng nói rằng: Không có chi hết. Ê-li lại nói: Hãy trở
lên bảy lần.
44. Lần thứ bảy, kẻ tôi tớ đáp rằng: Tôi thấy ở phía biển lên một cụm mây nhỏ
như lòng bàn tay, Ê-li bèn tiếp: Hãy đi nói với A-háp rằng: Hãy thắng xe và đi
xuống, kẻo mưa cầm vua lại chăng.
45. Trong một lúc, trời bị mây che đen, gió nổi dậy, và có cơn mưa rất lớn.
A-háp bèn lên xe mình, đi đến Gít-rê-ên.
46. Tay Ðức Giê-hô-va giáng trên Ê-li; người thắt lưng, chạy trước A-háp cho đến
khi tới Gít-rê-ên.
1 Các Vua 19
chọn đoạn khác
1. A-háp thuật lại cho Giê-sa-bên mọi điều Ê-li đã làm, và người đã dùng gươm
giết hết thảy tiên tri Ba-anh làm sao.
2. Giê-sa-bên sai một sứ giả đến Ê-li mà nói rằng: Nếu ngày mai trong giờ này,
ta không xử mạng sống ngươi như mạng sống của một người trong chúng nó, nguyện
các thần đãi ta cách nặng nề.
3. Vì vậy, Ê-li sợ hãi, đứng dậy chạy đi đặng cứu mạng sống mình. Ðến tại
Bê-e-Sê-ba, thuộc về Giu-đa, người để tôi tớ mình lại đó.
4. Còn người vào đồng vắng, đường đi ước một ngày, đến ngồi dưới cây giếng
giêng, xin chết mà rằng: Ôi Ðức Giê-hô-va! đã đủ rồi. Hãy cất lấy mạng sống tôi,
vì tôi không hơn gì các tổ phụ tôi.
5. Ðoạn, người nằm ngủ dưới cây giếng giêng. Có một thiên sứ đụng đến người và
nói rằng: Hãy chổi dậy và ăn.
6. Người nhìn thấy nơi đầu mình một cái bánh nhỏ nướng trên than, và một bình
nước. Người ăn uống, rồi lại nằm.
7. Thiên sứ của Ðức Giê-hô-va đến lần thứ nhì, đụng người và nói rằng: Hãy chổi
dậy và ăn, vì đường xa quá cho ngươi. Vậy người chổi dậy, ăn và uống,
8. rồi nhờ sức của lương thực ấy, người đi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm cho đến
Hô-rếp, là núi của Ðức Chúa Trời.
9. Ðến nơi, người đi vào trong hang đá, ngủ đêm ở đó. Và kìa, có lời của Ðức
Giê-hô-va phán với người rằng: Hỡi Ê-li, ngươi ở đây làm chi?
10. Người thưa rằng: Tôi đã rất nóng nảy sốt sắng vì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời vạn
quân; vì dân Y-sơ-ra-ên đã bội giao ước Ngài, phá hủy các bàn thờ Ngài, dùng
gươm giết những tiên tri Ngài; chỉ một mình tôi còn lại, và họ cũng kiếm thế cất
mạng sống tôi.
11. Ðức Chúa Trời phán với người rằng: Hãy đi ra, đứng tại trên núi trước mặt
Ðức Giê-hô-va. Nầy Ðức Giê-hô-va đi ngang qua, có một ngọn gió mạnh thổi dữ tợn
trước mặt Ngài, xé núi ra, và làm tan nát các hòn đá; nhưng không có Ðức
Giê-hô-va trong trận gió. Sau trận gió có cơn động đất; nhưng không có Ðức
Giê-hô-va trong cơn động đất.
12. Sau cơn động đất có đám lửa; nhưng không có Ðức Giê-hô-va trong đám lửa. Sau
đám lửa, có một tiếng êm dịu nhỏ nhẹ.
13. Khi Ê-li vừa nghe tiếng đó, thì lấy áo tơi bao phủ mặt mình, đi ra đứng tại
nơi miệng hang; này có một tiếng phán với người rằng: Hỡi Ê-li, ngươi làm chi
đây?
14. Người thưa rằng: Tôi rất nóng nảy sốt sắng vì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời vạn
quân, vì dân Y-sơ-ra-ên đã bội giao ước của Ngài, phá hủy các bàn thờ Ngài, dùng
gươm giết những tiên tri; chỉ một mình tôi còn lại, và họ cũng tìm cách cất mạng
sống tôi.
15. Nhưng Ðức Giê-hô đáp với người rằng: Hãy bắt con đường đồng vắng đi đến
Ða-mách. Khi đến rồi, ngươi sẽ xức dầu cho Ha-xa-ên làm vua Sy-ri;
16. ngươi cũng sẽ xức dầu cho Giê-hu, con trai của Nim-si, làm vua Y-sơ-ra-ên;
và ngươi sẽ xức dầu cho Ê-li-sê, con trai Sa-phát, ở A-bên-Mê-hô-la, làm tiên
tri thế cho ngươi.
17. Ai thoát khỏi gươm của Ha-xa-ên sẽ bị Giê-hu giết; ai thoát khỏi gươm của
Giê-hu sẽ bị Ê-li-sê giết.
18. Nhưng ta đã để dành lại cho ta trong Y-sơ-ra-ên bảy ngàn người không có quì
gối xuống trước mặt Ba-anh, và môi họ chưa hôn nó.
19. Từ đó, Ê-li đi, gặp Ê-li-sê, con trai của Sa-phát đương cày có mười hai đôi
bò trước mặt mình, chính người cầm đôi thứ mười hai. Ê-li đi ngang qua người,
ném áo choàng mình trên người.
20. Ê-li-sê bèn bỏ bò mình, chạy theo Ê-li mà nói rằng: Xin cho phép tôi hôn cha
và mẹ tôi đã, đoạn tôi sẽ theo ông. Ê-li đáp: Hãy đi và trở lại; vì ta nào có
làm gì cho ngươi đâu.
21. Ê-li-sê bèn lìa khỏi Ê-li trở về, bắt một đôi bò giết đi, và lấy cày làm củi
mà nấu thịt nó, rồi cho các tôi tớ mình ăn. Ðoạn, người đứng dậy, đi theo Ê-li,
và hầu việc người.
1 Các Vua 20
chọn đoạn khác
1. Bên-Ha-đát, vua Sy-ri, hiệp hết thảy quân lính mình; có ba mươi hai vua theo
người, cùng ngựa và xe. Người đi lên vây Sa-ma-ri và hãm đánh nó.
2. Người sai sứ giả đến A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, ở trong thành, và nói với người
rằng: Bên-Ha-đát nói như vầy:
3. Bạc và vàng của ngươi thuộc về ta. Các cung phi và những con cái tốt nhất của
ngươi cũng thuộc về ta.
4. Vua Y-sơ-ra-ên đáp: Hỡi vua chúa tôi, cứ như lời vua nói; tôi và mọi vật của
tôi đều thuộc về vua.
5. Nhưng các sứ giả trở lại cùng vua Y-sơ-ra-ên mà nói rằng: Bên-Ha-đát nói như
vầy: Hãy đưa bạc, vàng, cung phi, và các con trai ngươi cho ta.
6. Thế thì, ngày mai, giờ này, ta sẽ sai các đầy tớ ta đến nhà ngươi, chúng nó
sẽ lục soát nhà ngươi và nhà của tôi tớ ngươi; phàm món gì của ngươi lấy làm quí
trọng, chúng nó sẽ lấy đem đi.
7. Vua Y-sơ-ra-ên bèn đòi hết thảy trưởng lão trong xứ, mà nói rằng: hãy xem xét
và biết rằng người này toan mưu làm hại chúng ta; vì người đã sai sứ đòi các
cung phi, con cái, bạc, và vàng của ta; và ta không có từ chối gì hết.
8. Các trưởng lão và cả dân sự đều tâu với vua rằng: Ðừng nghe, và chớ chịu chi
hết.
9. Vậy A-háp đáp cùng sứ giả của Bên-Ha-đát rằng: Hãy nói với vua chúa ta Mọi
điều vua đòi tôi tớ vua làm lần thứ nhất, tôi sẽ làm; nhưng điều này tôi không
thế làm được. Các sứ giả đi thuật lại lời đó cho Bên-Ha-đát.
10. Bên-Ha-đát lại sai sứ nói rằng: Nếu bụi cát ở Sa-ma-ri đủ lấp đầy lòng bàn
tay của các chiến sĩ theo ta, nguyện các thần giáng tai họa cho ta nặng nề!
11. Nhưng vua Y-sơ-ra-ên đáp: Hãy nói với vua rằng: Người mặc áo giáp chớ khoe
mình như người cổi nó ra.
12. Bên-Ha-đáp đương uống rượu với các vua trong trại, vừa nghe được các lời
này, thì nói cùng các đầy tớ mình rằng: Hãy dàn trận đi. Chúng bèn dàn trận đặng
hãm đánh thành.
13. Vả, có một tiên tri đến gần A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, mà nói rằng: Ðức
Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi thấy đoàn binh rất đông này chăng? Kìa, ngày nay,
ta sẽ phó nó vào tay ngươi, và ngươi sẽ biết ta là Giê-hô-va.
14. A-háp thưa rằng: Dùng ai? Người đáp: Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Dùng những
kẻ tôi tớ của các quan cai hàng tỉnh. Người tiếp: Ai sẽ giao chiến? Tiên tri
đáp: Chính vua.
15. A-háp soát điểm những tôi tớ của các quan cai hàng tỉnh; có được hai trăm ba
mươi hai người. Kế sau, người soát điểm cả dân Y-sơ-ra-ên, được bảy ngàn người.
16. Ban trưa, họ kéo đi ra; song Bên-Ha-đát uống rượu say tại trại mình với ba
mươi hai vua giúp đỡ người.
17. Những tôi tớ của các quan cai hàng tỉnh đi ra trước; Bên-Ha-đát sai kẻ hỏi
dọ người ta báo lại cho người rằng: Có người từ Sa-ma-ri kéo ra.
18. Người đáp: Chúng nó đến hoặc có ý cầu hòa, hãy bắt sống lấy; hoặc có ý chiến
tranh, cũng hãy bắt sống lấy.
19. Vậy, những tôi tớ của các quan cai hàng tỉnh kéo ra thành, và đạo quân đi
theo,
20. ai nấy đánh kẻ nghịch mình. Quân Sy-ri chạy trốn, và Y-sơ-ra-ên rượt đuổi
theo, Bên-Ha-đát, vua Sy-ri, lên ngựa thoát chạy với một vài lính kỵ.
21. Vua Y-sơ-ra-ên bèn kéo ra đánh giết ngựa xe, làm cho dân Sỵ-ri thua trận cả
thể.
22. Bấy giờ, đấng tiên tri đến gần vua Y-sơ-ra-ên, nói rằng: Vua hãy đi, làm cho
mình mạnh mẽ, và hãy xem xét coi chừng điều mình phải làm, vì năm tới vua Sy-ri
sẽ đến đánh vua nữa.
23. Các đầy tớ của vua Sy-ri nói với người rằng: Thần của chúng nó là thần núi,
cho nên chúng nó mạnh hơn chúng ta; nhưng chúng ta hãy giao chiến với chúng nó
dưới đồng bằng; quả chúng ta sẽ thắng hơn chúng nó.
24. Lại, khá làm điều này: Hãy cất các vua khỏi chỗ làm đầu binh, lập những quan
cai thế vào cho;
25. đoạn, hãy điểm lấy một đạo quân giống như đạo quân của vua đã mất, bằng số
ngựa và xe ấy; chúng ta sẽ giao chiến với dân Y-sơ-ra-ên tại trong đồng bằng,
quả chúng ta sẽ thắng hơn chúng nó. Vua bèn nghe lời đầy tớ mình và làm theo.
26. Năm tới, Bên-Ha-đát điểm soát dân Sy-ri, và đi đến A-phéc đặng giao chiến
cùng Y-sơ-ra-ên.
27. Dân Y-sơ-ra-ên cũng bị điểm soát và sắm lương thực, đi đón chúng nó. Dân
Y-sơ-ra-ên đóng trại đối mặt dân Sy-ri giống như hai bầy dê nhỏ; còn dân Sy-ri
đầy khắp cả xứ.
28. Bấy giờ, người của Ðức Chúa Trời đến gần vua Y-sơ-ra-ên mà nói rằng: Ðức
Giê-hô-va phán như vầy: Bởi vì dân Sy-ri có nói rằng: Ðức Giê-hô-va là thần núi,
chớ chẳng phải thần trũng, nên ta sẽ phó đoàn binh rất đông đảo này vào tay
ngươi, và các ngươi sẽ biết ta là Giê-hô-va.
29. Hai bên đóng trại đối ngang nhau trong bảy ngày; ngày thứ bảy, họ giao chiến
nhau. Dân Y-sơ-ra-ên đánh dân Sy-ri, trong một ngày giết họ mười vạn lính bộ.
30. Còn sót lại chạy trốn ẩn trong thành A-phéc; song những vách thành sập ngã,
đè hai mươi bảy ngàn người đã thoát khỏi trận. Bên-Ha-đát cũng chạy trốn vào
thành, ẩn trong một phòng kín.
31. Các đầy tứ Bên-Ha-đát tâu cùng người rằng: Chúng tôi có nghe rằng các vua
nhà Y-sơ-ra-ên vốn nhân từ. Vì vậy, xin cho chúng tôi thắt bao nơi lưng, vấn dây
trên đầu, rồi chúng tôi ra hàng vua Y-sơ-ra-ên: hoặc người để cho vua sống
chăng.
32. Họ bèn thắt bao nơi lưng, vấn dây trên đầu, rồi ra hàng vua Y-sơ-ra-ên, và
tâu rằng: Bên-Ha-đát, kẻ tôi tớ vua, cầu rằng: Xin vua để cho tôi sống. A-háp
đáp rằng: Người còn sống chăng? Người vốn là anh ta.
33. Chúng lấy sự ấy làm một điềm lành, lật đật nhận lời và la lên rằng:
Bên-Ha-đát thật anh vua. A-háp tiếp rằng: Hãy đi vời người đến cho ta.
Bên-Ha-đát bèn đến ra mắt A-háp; người mời Bên-Ha-đát lên xe mình.
34. Bên-Ha-đát nói với người rằng: Tôi sẽ trao lại cho vua các thành mà cha tôi
đã chiếm lấy của cha vua, và vua sẽ lập chợ phố cho vua tại Ða-mách, y như cha
tôi đã làm tại Sa-ma-ri. A-háp đáp: Còn ta sẽ thuận giao ước này mà để cho ngươi
đi về. Vậy, A-háp lập giao ước với Bên-Ha-đát, đoạn để cho người đi.
35. Bấy giờ, có một người trong vòng các con trai tiên tri, vâng lịnh Ðức
Giê-hô-va, nói với bạn mình rằng: Tôi xin anh hãy đánh tôi. Nhưng bạn không chịu
đánh người.
36. Người tiếp rằng: Bởi vì anh không vâng theo lời phán dặn của Ðức Giê-hô-va,
nên liền khi anh lìa khỏi tôi, sẽ có một con sư tử giết anh. Bạn lìa khỏi người,
thì gặp một con sư tử giết người đi.
37. Tiên tri gặp một người khác, và nói rằng: Ta xin ngươi hãy đánh ta. Người ấy
đánh tiên tri, và làm cho người bị thương.
38. Ðoạn, tiên tri đi, đứng đợi trên đường vua, xủ khăn bịt xuống mắt mình mà
giả dạng.
39. Khi vua đi ngang qua, người cất tiếng la lên, và nói với vua rằng: Tôi tớ
vua ở giữa chiến trận; thì có người dẫn đến cùng tôi một kẻ phu tù, và biểu
rằng: Hãy giữ người này; xảy nó thoát khỏi, thì mạng sống ngươi sẽ thường cho
mạng sống nó, hay là ngươi phải thường một ta lâng bạc.
40. Song, trong khi kẻ tôi tớ vua mắc chuyện đây đó, thì tên phu tù trốn đi. Vua
Y-sơ-ra-ên đáp rằng: Ấy là sự đoán xét của ngươi; chính ngươi đã định lấy.
41. Lập tức người vén khăn che mắt mình lên, vua Y-sơ-ra-ên nhìn biết là một
người trong vòng các tiên tri.
42. Tiên tri bèn nói rằng: Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Bởi vì ngươi để thoát
khỏi tay ngươi kẻ ta đã định đáng tận diệt, vậy nên, mạng sống ngươi sẽ thế cho
mạng sống nó, và dân sự ngươi thế cho dân sự nó.
43. Vua Y-sơ-ra-ên bèn trở về cung điện mình tại Sa-ma-ri, lấy làm buồn rầu và
giận dữ.
1 Các Vua 21
chọn đoạn khác
1. Sau các việc ấy, xảy có chuyện này: Na-bốt, người Gít-rê-ên, có một vườn nho
tại trong đồng bằng Gít-rê-ên, giáp đền của A-háp, vua Sa-ma-ri.
2. A-háp nói cùng Na-bốt rằng: Hãy nhường vườn nho của ngươi cho ta, để ta dùng
làm vườn rau; vì nó ở gần bên đền ta. Ta sẽ đổi cho ngươi một vườn nho tốt hơn;
hay là, nếu ngươi thích, ta sẽ cho ngươi bằng bạc.
3. Nhưng Na-bốt thưa lại với A-háp rằng: Nguyện Ðức Giê-hô-va giữ lấy tôi, chớ
để tôi nhường cho vua cơ nghiệp của tổ phụ tôi!
4. A-háp vào đền mình, buồn và giận, bởi có lời Na-bốt, người Gít-rê-ên đã nói;
vì người đã nói rằng: Tôi không nhường cho vua cơ nghiệp của tổ tiên tôi. A-háp
nằm trên giường, xây mặt đi, không chịu ăn.
5. Hoàng hậu Giê-sa-bên đến gần người mà nói rằng: Bởi sao vua có lòng buồn rầu
và không chịu ăn?
6. Người đáp: Vì ta có nói chuyện với Na-bốt, người Gít-rê-ên rằng: Hãy nhường
vườn nho ngươi cho ta mà lấy tiền, hay là nếu ngươi thích, ta sẽ đổi cho ngươi
một vườn nho khác; song người đáp lại rằng: Tôi không nhường cho vua vườn nho
của tôi.
7. Hoàng hậu Giê-sa-bên bèn nói rằng: Có phải ông hành quyền vua trên Y-sơ-ra-ên
chăng? Hãy chổi dậy, ăn đi và vui lòng. Tôi sẽ ban cho ông vườn nho của Na-bốt,
người Gít-rê-ên.
8. Giê-sê-bên viết thơ nhơn danh A-háp, đóng ấn vua, gởi cho các trưởng lão và
kẻ cả ở trong thành Na-bốt và ở cùng người.
9. Trong thơ nói như vầy: Hãy truyền rao lễ kiêng ăn, rồi đặt Na-bốt ở đầu dân
sự;
10. đoạn, hãy để trước mặt người hai kẻ gian phạm làm chứng cho người, mà rằng:
Ngươi có rủa sả Ðức Chúa Trời và vua. Kế, hãy dẫn người ra khỏi thành, ném đá
cho chết đi.
11. Những người của thành Na-bốt, tức những trưởng lão, và kẻ cả ở đó, đều làm
theo lời Giê-sa-bên truyền dặn trong thơ mà người đã gởi cho.
12. Họ rao truyền lễ kiêng ăn và đặt Na-bốt ở đầu dân sự.
13. Bấy giờ, hai tên gian phạm đến ngồi trước mặt Na-bốt, và cáo gian người tại
trước mặt dân sự, mà rằng: Na-bốt có rủa sả Ðức Chúa Trời và vua. Ðoạn, họ dẫn
người ra khỏi thành, ném đá người chết.
14. Họ bèn sai đến nói với Giê-sa-bên rằng: Na-bốt đã bị ném đá và chết rồi.
15. Khi Giê-sa-bên hay rằng Na-bốt đã bị ném đá và chết rồi, bèn nói cùng A-háp
rằng: Hãy chổi dậy, nhận lấy vườn nho mà Na-bốt, người Gít-rê-ên, đã từ chối
không chịu nhường cho ông để lấy bạc; vì Na-bốt không còn sống nữa: đã chết rồi.
16. Nghe tin Na-bốt đã chết, A-háp liền đứng dậy đi xuống vườn nho của Na-bốt,
người Gít-rê-ên, đặng lấy làm của mình.
17. Bấy giờ, có lời của Ðức Giê-hô-va phán dạy Ê-li, người Thi-ê-se, rằng:
18. Hãy đứng dậy đi xuống đón A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, ở tại Sa-ma-ri. Kìa, người
ở trong vườn nho của Na-bốt, đặng lấy làm của mình.
19. Ngươi sẽ nói với người rằng: Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi há đã giết
người, và bây giờ lại chiếm lấy cơ nghiệp nó sao? Ngươi phải tiếp rằng: Ðức
Giê-hô-va phán như vầy: Ở tại chỗ mà chó đã liếm huyết của Na-bốt, thì chó cũng
sẽ liếm chính huyết của ngươi.
20. A-háp bèn nói cùng Ê-li rằng: Ớ kẻ thù nghịch, ngươi có gặp ta à? Ê-li đáp:
Phải, tôi có gặp vua, bởi vì vua đã bán mình đặng làm điều ác trước mặt Ðức
Giê-hô-va.
21. Vậy thì ta sẽ giáng họa trên ngươi. Ta sẽ quét sạch ngươi, trừ diệt các nam
đinh của nhà A-háp, bất kỳ kẻ nô lệ hay là người tự do trong Y-sơ-ra-ên;
22. vì ngươi chọc giận ta, xui cho Y-sơ-ra-ên phạm tội, nên ta sẽ làm cho nhà
ngươi giống như nhà của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, và giống như nhà Ba-ê-sa,
con trai A-hi-gia.
23. Ðức Giê-hô-va cũng phán về Giê-sa-bên, mà rằng: Chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên
tại thành lũy Gít-rê-ên.
24. Phàm người thuộc về nhà A-háp, kẻ nào chết tại trong thành sẽ bị chó ăn; còn
kẻ nào chết trong đồng sẽ bị chim trời rỉa ăn.
25. Quả thật, chẳng có ai giống như A-háp, buông mình làm điều ác trước mặt Ðức
Giê-hô-va, vì bị hoàng hậu Giê-sa-bên xui giục người.
26. Người làm điều gớm ghiếc quá độ, mà theo hình tượng, y như dân A-mô-rít làm,
là dân Ðức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
27. A-háp nghe lời của Ê-li nói, bèn xé quần áo mình; lấy bao mặc cho mình và
nhịn đói; nằm vấn bao và ở khiêm nhượng.
28. Bấy giờ, có lời của Ðức Giê-hô-va phán dạy Ê-li, người Thi-sê-be, mà rằng:
29. Ngươi có thấy thế nào A-háp hạ mình xuống trước mặt ta chăng? Bởi vì người
hạ mình xuống trước mặt ta, ta không giáng họa trong đời nó; nhưng trong đời con
trai nó ta sẽ giáng họa trên nhà nó.
1 Các Vua 22
chọn đoạn khác
1. Trong ba năm Sy-ri và Y-sơ-ra-ên không có giặc.
2. Năm thứ ba, Giô-sa-phát, vua Giu-đa, đi đến cùng vua Y-sơ-ra-ên.
3. Vua Y-sơ-ra-ên nói với tôi tớ mình rằng: Các ngươi há chẳng biết rằng Ra-mốt
trong Ga-la-át thuộc về chúng ta sao? Chúng ta lại làm thinh chẳng rứt nó khỏi
tay vua Sy-ri sao!
4. Ðoạn, người nói với Giô-sa-phát rằng: Vua muốn đến cùng ta đặng đánh lấy
Ra-mốt trong Ga-la-át chăng? Giô-sa-phát đáp với vua Y-sơ-ra-ên rằng: Tôi như
ông; dân sự tôi như dân sự ông; và ngựa tôi như ngựa của ông.
5. Song Giô-sa-phát nói với vua Y-sơ-ra-ên rằng: Tôi xin ông phải cầu vấn Ðức
Giê-hô-va trước đã.
6. Vậy, vua Y-sơ-ra-ên nhóm các tiên tri lại, số bốn trăm người, mà hỏi rằng: Ta
có nên đi đánh Ra-mốt tại Ga-la-át, hay là chẳng nên đi? Chúng đáp rằng: Hãy đi
lên; Chúa sẽ phó nó vào tay vua.
7. Nhưng Giô-sa-phát tiếp rằng: Ở đây còn có đấng tiên tri nào khác của Ðức
Giê-hô-va để chúng ta cầu vấn người ấy chăng?
8. Vua Y-sơ-ra-ên đáp với Giô-sa-phát rằng: Còn có một người, tên là Mi-chê, con
trai của Giêm-la; nhờ người ấy ta có thể cầu vấn Ðức Giê-hô-va; nhưng tôi ghét
người, vì người chẳng nói tiên tri lành về tôi, bèn là dữ đó thôi. Giô-sa-phát
nói rằng: Xin vua chớ nói như vậy.
9. Vua Y-sơ-ra-ên bèn đòi một hoạn quan mà bảo rằng: Hãy lập tức mời Mi-chê, con
trai của Giêm-la, đến.
10. Vả, vua Y-sơ-ra-ên và Giô-sa-phát, vua Giu-đa, mỗi người đều mặc đồ triều
phục, đương ngồi trên một cái ngai tại trong sân đạp lúa, nơi cửa thành
Sa-ma-ri; và hết thảy tiên tri nói tiên tri trước mặt hai vua.
11. Sê-đê-kia, con trai Kê-na-na, làm lấy những sừng bằng sắt, và nói rằng: Ðức
giê-hô-va phán như vầy: Với các sừng này, ngươi sẽ báng dân Sy-ri cho đến khi
diệt hết chúng nó.
12. Và hết thảy tiên tri đều nói một cách, mà rằng: Hãy đi lên Ra-mốt trong
Ga-la-át; vua sẽ được thắng, vì Ðức Giê-hô-va sẽ phó thành ấy vào tay vua.
13. Vả, sứ giả đi mời Mi-chê, nói cùng người rằng: Những tiên tri đều đồng lòng
báo cáo sự lành cho vua; tôi xin ông cũng hãy lấy lời như lời của họ mà báo cáo
điều lành.
14. Nhưng Mi-chê đáp rằng: Ta chỉ Ðức Giê-hô-va hằng sống mà thề, ta sẽ báo cáo
điều gì Ðức Giê-hô-va dặn ta.
15. Khi người đã đến cùng vua, vua bèn hỏi rằng: Hỡi Mi-chê, chúng ta có nên đi
hãm đánh Ra-mốt trong Ga-la-át, hay là chẳng nên đi? Mi-chê đáp: Hãy đi, vua sẽ
được thắng: Ðức Giê-hô-va sẽ phó thành ấy vào tay vua.
16. Nhưng vua nói với người rằng: Biết bao lần ta đã lấy lời thề buộc ngươi chỉ
khá nói chơn thật với ta nhơn danh Ðức Giê-hô-va.
17. Bấy giờ Mi-chê đáp rằng: Tôi thấy cả Y-sơ-ra-ên bị tản lạc trên các núi, như
bầy chiên không có người chăn; và Ðức Giê-hô-va phán rằng: Những kẻ ấy không có
chủ; ai nấy khá trở về nhà mình bình yên.
18. Vua Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sa-phát rằng: Tôi há chẳng có nói với vua người
chẳng nói tiên tri lành về việc tôi, bèn là nói tiên tri dữ sao?
19. Mi-chê lại tiếp: Vậy, hãy nghe lời của Ðức Giê-hô-va: Tôi thấy Ðức Giê-hô-va
ngự trên ngôi Ngài và cả cơ binh trên trời đứng chầu Ngài bên hữu và bên tả.
20. Ðức Giê-hô-va phán hỏi: Ai sẽ đi dụ A-háp, để người đi lên Ra-mốt trong
Ga-la-át, và ngã chết tại đó? Người trả lời cách này, kẻ trả lời cách khác.
21. Bấy giờ, có một thần ra đứng trước mặt Ðức Giê-hô-va mà thưa rằng: Tôi sẽ đi
dụ người. Ðức Giê-hô-va phán hỏi thần rằng: Dụ cách nào?
22. Thần thưa lại rằng: Tôi sẽ đi và làm một thần nói dối trong miệng những tiên
tri của người. Ðức Giê-hô-va phán rằng: Phải, ngươi sẽ dụ người được. Hãy đi và
làm như ngươi đã nói.
23. Vậy bây giờ, kìa, Ðức Giê-hô-va đã đặt một thần nói dối trong miệng các tiên
tri vua, và Ðức Giê-hô-va đã phán sự dữ cho vua.
24. Bấy giờ, Sê-đê-kia, con trai của Kê-na-na, đến gần Mi-chê, vả vào má người,
mà rằng: Thần của Ðức Giê-hô-va có do đường nào lìa khỏi ta đặng đến nói với
ngươi?
25. Mi-chê đáp: Trong ngày ngươi chạy từ phòng này đến phòng kia đặng ẩn lánh,
thì sẽ biết điều đó.
26. Vua Y-sơ-ra-ên truyền lịnh rằng: Hãy bắt Mi-chê dẫn đến cho A-môn, quan cai
thành, và cho Giô-ách, con trai của vua,
27. rồi hãy nói rằng: Vua bảo như vầy: Hãy bỏ tù người này, lấy bánh và nước khổ
nạn mà nuôi nó cho đến khi ta trở về bình an.
28. Mi-chê tiếp rằng: Nếu vua trở về bình an, thì Ðức Giê-hô-va không cậy tôi
phán. Người lại nói: Hỡi chúng dân! các ngươi khá nghe ta.
29. Vậy, vua Y-sơ-ra-ên đi lên Ra-mốt trong Ga-la-át với Giô-sa-phát, vua
Giu-đa.
30. Vua Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sa-phát rằng: Tôi sẽ giả dạng ăn mặc, rồi ra
trận; còn vua hãy mặc áo của vua. Như vậy, vua Y-sơ-ra-ên ăn mặc giả dạng mà ra
trận.
31. Vả, vua Sỵ-ri đã truyền lịnh cho ba mươi hai quan coi xe mình rằng: Các
ngươi chớ áp đánh ai bất kỳ lớn hay nhỏ, nhưng chỉ một mình vua Y-sơ-ra-ên mà
thôi.
32. Vậy, khi các quan coi xe thấy Giô-sa-phát thì nói rằng: Ấy quả thật là vua
Y-sơ-ra-ên. Chúng bèn đến gần người đặng áp đánh; nhưng Giô-sa-phát kêu la lên.
33. Khi các quan coi xe thấy chẳng phải vua Y-sơ-ra-ên, thì thối lại, không đuổi
theo nữa.
34. Bấy giờ, có một người tình cờ giương cung bắn vua Y-sơ-ra-ên, trúng nhằm
người nơi giáp đâu lại. Vua nói cùng kẻ đánh xe mình rằng: Hãy quay cương lại,
dẫn ta ra ngoài hàng quân, vì ta bị thương nặng.
35. Nhưng trong ngày đó thế trận thêm dữ dội; có người nâng đỡ vua đứng trong xe
mình đối địch dân Sy-ri. Ðến chiều tối vua chết; huyết của vít thương người chảy
xuống trong lòng xe.
36. Lối chiều, trong hàng quân có rao truyền rằng: Ai nấy hãy trở về thành mình,
xứ mình.
37. Vua băng hà là như vậy; người ta đem thây vua về Sa-ma-ri, và chôn tại đó.
38. Người ta rửa xe người tại trong ao Sa-ma-ri, là nơi những bợm buôn hương
tắm, và có những chó liếm máu người, y như lời Ðức Giê-hô-va phán.
39. Các chuyện khác của A-háp, những công việc người làm, cái đền bằng ngà người
cất, và các thành người xây, đều chép trong sử ký về các vua Y-sơ-ra-ên.
40. Vậy A-háp an giấc cùng tổ phụ mình, và A-cha-xia, con trai người, kế vị
người.
41. Năm thứ tư đời A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, thì Giô-sa-phát con trai A-sa, lên
ngôi làm vua Giu-đa.
42. Giô-sa-phát lên ngôi, tuổi được ba mươi lăm; người cai trị hai mươi lăm năm
tại Giê-ru-sa-lem. Tên của mẹ người là A-xu-ba, con gái của Si-chi.
43. Người đi theo đường của A-sa, cha người chẳng xây bỏ đi, song làm điều thiện
trước mặt Ðức Giê-hô-va. (22:44) Nhưng người không trừ bỏ các nơi cao; dân sự
còn tế lễ và đốt hương tại trên các nơi cao.
44. (22:45) Giô-sa-phát và vua Y-sơ-ra-ên ở hòa hảo với nhau.
45. (22:46) Các chuyện khác của Giô-sa-phát, dõng lực người, những giặc giã
người, đều đã chép trong sử ký về các vua Giu-đa.
46. (22:47) Người trừ diệt những bợm vĩ-gian còn lại trong xứ từ đời A-sa, cha
mình.
47. (22:48) Bấy giờ, dân Ê-đôm không có vua, có một quan trấn thủ cai trị.
48. (22:49) Giô-sa-phát đóng một đoàn tàu Ta-rê-si đặng đi Ô-phia chở vàng,
nhưng không đi đến đó được, bởi vì tàu vỡ ra tại Ê-xi-ôn-Ghê-be.
49. (22:50) A-cha-xia, con trai của A-háp, nói với Giô-sa-phát rằng: Hãy cho
phép các đầy tớ ta đi tàu với các đầy tớ ông. Nhưng Giô-sa-phát không chịu.
50. (22:51) Giô-sa-phát an giấc với tổ phụ mình, được chôn với họ trong thành
Ða-vít, cha người, và Giô-ram, con trai người, kế vị người.
51. (22:52) Năm thứ bảy đời Giô-sa-phát, vua Giu-đa, thì A-cha-xia, con trai
A-háp, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri, và cai trị hai năm.
52. (22:53) Người làm điều ác trước mặt Ðức Giê-hô-va, đi theo con đường của cha
và mẹ mình, cùng theo đường của Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát, là người xui
cho Y-sơ-ra-ên phạm tội.
53. (22:54) Người hầu việc Ba-anh và thờ lạy nó, chọc giận Giê-hô-va Ðức Chúa
Trời của Y-sơ-ra-ên, cứ theo mọi sự cha người đã làm.