[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22] [23] [24] [25] [26] [27] [28] [29]
1 Sử-Ký 1
chọn đoạn khác
1. A-đam sanh Sết, Sết sanh Ê-nót;
2. Ê-nót sanh Kê-nan, Kê-nan sanh Ma-ha-la-le, Ma-ha-la-le sanh Giê-rệt;
3. Giê-rệt sanh Hê-nóc, Hê-nóc sanh Mê-tu-sê-la, Mê-tu-sê-la sanh Lê-méc;
4. Lê-méc sanh Nô-ê, Nô-ê sanh Sem, Cham và Gia-phết.
5. Con trai của Gia-phết là Gô-me, Ma-gốc, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc, và
Ti-ra.
6. Con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Ði-phát, và Tô-ga-ma.
7. Con trai của Gia-van là Ê-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim, và Rô-đa-nim.
8. Con trai của Cham là Cúc, Mích-ra-im, Phút, và Ca-na-an.
9. con trai của Cúc là Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ê-ma là Sê-ba, và Ðê-đan.
10. Cúc sinh Nim-rốt; người khởi đầu làm anh hùng trên mặt đất.
11. Mích-ra-im sinh họ Lu-đim, họ A-na-min, họ Lê-ha-bim, họ Náp-tu-him,
12. họ Phát-ru-sim, họ Cách-lu-him, bởi đó sanh ra họ Phi-li-tin, và họ
Cáp-tô-rim.
13. Ca-na-an sanh ra Si-đôn, là trưởng nam, và Hếch,
14. cùng họ Gie-bu-sít, họ A-mô-rít, họ Ghi-rê-ga-sít,
15. họ Hê-vít, họ A-rê-kít, họ Si-nít,
16. họ A-va-đít, họ Xê-ma-rít, và họ Ha-ma-tít.
17. con trai của Sem là Ê-lam, A-su-rơ, A-các-sát, Lút, A-ram, Út-xơ, Hu-lơ,
Ghê-te, và Mê-siếc.
18. A-bác-sát sanh Sê-lách; Sê-lách sanh Hê-be.
19. Hê-be sanh được hai con trai: một con kêu tên là Bê-lét; bởi vì trong đời
người đó đất đã chia ra; còn tên của người em là Giốc-tan.
20. Giốc-tan sanh A-mô-đát, Sê-lép, Ha-sa-ma-vết, Giê-rách,
21. Ha-đô-ram, U-xa, Ðiếc-la,
22. Ê-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba,
23. Ô-phia, Ha-vi-la, và Giô-báp. Hết thảy những người đó đều là con trai của
Giốc-tan.
24. Sem sanh A-bác-sát, A-bác-sát sanh Sê-lách,
25. Sê-lách sanh Hê-be, Hê-be sanh Bê-léc, Bê-léc sanh Rê-hu,
26. Rê-hu sanh Sê-rúc, Sê-rúc sanh Na-cô, Na-cô sanh Tha-rê,
27. Tha-rê sanh Áp-ram, cũng gọi là Áp-ra-ham.
28. con trai của Áp-ra-ham là Y-sác và Ích-ma-ên.
29. Nầy là dòng dõi của chúng: Con cả của Ích-ma-ên là Nê-ba-giốt; kế đến Kê-đa,
Át-bê-ên, Mi-bô-sam,
30. Mích-ma, Ðu-ma, Ma-sa, Ha-đát, Thê-ma,
31. Giê-hu, Na-phích, và Kết-ma. Ðó là các con trai của Ích-ma-ên.
32. Kê-tu-ra, vợ nhỏ của Áp-ra-ham, sanh các con trai là Xim-ram, Giốc-san,
Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác, và Su-ách. Giốc-san sanh Sê-ba, và Ðê-đan.
33. con trai của Ma-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nóc, A-bi-đa, và Ên-đa. Những
người ấy đều là con cháu của Kê-tu-ra.
34. Áp-ra-ham sanh ra Y-sác. Con trai của Y-sác là Ê-sau và Y-sơ-ra-ên.
35. con trai của Ê-sau là Ê-li-pha, Rê-u-ên, Giê-úc, Gia-lam, và Cô-ra.
36. con trai của Ê-li-pha là Thê-man, Ô-ma, Xê-phi, Ga-tham, Kê-na, Thim-na, và
A-ma-léc.
37. con trai của Rê-u-ên là Na-hát, Xê-rách, Sam-ma, và Mích-xa.
38. con trai của Sê-i-rơ là Lô-than, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na, Ði-sôn, Ét-xe, và
Ði-san.
39. con trai của Lô-than là Hô-ri và Hô-man; còn Thim-na là em gái Lô-than.
40. con trai của Sô-banh là A-li-an, Ma-na-hát, Ê-banh, Sê-phi, và Ô-nam. con
trai của Xi-bê-ôn là Ai-gia và A-na.
41. con trai của A-na là Ði-sôn. con trai của Ði-sôn là Ham-ran, Ếch-ban,
Dít-ran, và Kê-ran.
42. con trai của Ét-xe là Binh-han, Xa-van, và Gia-a-can. con trai của Ði-san là
Út-xơ, và A-ran.
43. Khi trước dân Y-sơ-ra-ên chưa có một vua cai trị, thì đây là danh các vua
trị vì xứ Ê-đôm: Bê-la, con trai Bê-ô; tên bổn thành là Ðin-ha-ba.
44. Vua Bê-la băng, Giô-báp, con trai Xê-rách, người Bốt-ra, kế vị.
45. Vua Giô-háp băng, Hu-sam, người xứ Thê-man, kế vị.
46. Vua Hu-sam băng, Ha-đát, con trai Bê-đát, kế vị; chính vua nầy đánh được dân
Ma-đi-an tại đồng Mô-áp; tên bổn thành là A-vít.
47. Vua Ha-đát băng, Sam-la người Ma-rê-ca, kế vị.
48. Vua Sam-la băng, Sau-lơ, người Rê-hô-bốt ở trên bờ sông, kế vị.
49. Vua Sau-lơ băng, Ba-anh-Ha-nan, con trai Ạc-bồ, kế vị.
50. Vua Ba-anh-Ha-nan băng, Ha-đát kế vị; tên bổn thành là Pha-i; còn vợ người
tên là Mê-hê-ta-bê-ên, con gái của Mát-rết, cháu ngoại Mê-xa-háp.
51. Vua Ha-đát băng. Các trưởng tộc xứ Ê-đôm là: trưởng tộc Thim-na, trưởng tộc
A-li-a; trưởng tộc Giê-tết,
52. trưởng tộc Ô-hô-li-ba-ma, trưởng tộc Ê-la, trưởng tộc Phi-nôn,
53. trưởng tộc Kê-na, trưởng tộc Thê-man, trưởng tộc Mép-xa,
54. trưởng tộc Mác-đi-ên, và trưởng tộc Y-ram. Ðó là các trưởng tộc của Ê-đôm.
1 Sử-Ký 2
chọn đoạn khác
1. Con trai của Y-sơ-ra-ên là Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca,
Sa-bu-lôn,
2. Ðan, Giô-sép, Bên-gia-min, Nép-ta-li, Gát, và A-se.
3. Con trai của Giu-đa là Ê-rơ, Ô-nan, và Sê-la. Ba người nầy Giu-đa sanh ra bởi
con gái Su-a, người Ca-na-an. Ê-rơ, con cả của Giu-đa, làm sự dữ trước mặt Ðức
Giê-hô-va, nên Ngài giết nó đi.
4. Ta-ma, là dâu của Giu-đa, sanh cho người Phê-rết và Xê-rách. Tổng cộng các
con của Giu-đa được năm người.
5. Con trai của Phê-rết là Hết-rôn và Ha-mun.
6. Con trai của Xê-rách là Xim-ri, Ê-than, Hê-man, Canh-côn, và Ða-ra, cộng là
năm người.
7. Con trai của Cạt-mi là A-ca, tức kẻ làm rối loạn trong Y-sơ-ra-ên, phạm đến
vật nghiêm cấm.
8. Con trai của Ê-than là A-xa-ria.
9. Con trai Hết-rôn sanh ra là Giê-rác-mê-en, Ram, và Kê-lu-bai.
10. Ram sanh ra A-mi-na-đáp, A-mi-na-đáp sanh Na-ha-sôn, làm quan trưởng của
người Giu-đa.
11. Na-ha-sôn sanh Sanh-ma,
12. Sanh-ma sanh Bô-ô, Bô-ô sanh Ô-bết, Ô-bết sanh Y-sai.
13. Y-sai sanh con đầu lòng là Ê-li-áp, con thứ nhì là A-bi-na-đáp, thứ ba là
Si-mê-a,
14. thứ tư là Na-tha-na-ên, thứ năm là Ra-đai,
15. thứ sáu là Ô-xem, thứ bảy là Ða-vít.
16. Còn Xê-ru-gia và A-bi-ga-in là chị em của những người ấy. Xê-ru-gia có ba
con là A-bi-sai, Giô-áp, và A-xa-ên.
17. A-bi-ga-in sanh A-ma-sa; cha của A-ma-sa là Giê-the, người Ích-ma-ên.
18. Ca-lép, con của Hết-rôn, lấy vợ, là A-xu-ba, với Giê-ri-ốt, rồi sanh con là
Giê-se, Sô-báp, và Ạt-đôn.
19. A-xu-ba qua đời, thì Ca-lép lấy Ê-phơ-rát; nàng sanh Hu-rơ cho người.
20. Hu-rơ sanh U-ri, U-ri sanh ra Bết-sa-lê-ên.
21. Sau khi ấy, Hết-rôn đã được sáu mươi tuổi, bèn cưới con gái của Ma-ki, là
cha của Ga-la-át, mà làm vợ; người năm cùng nàng, nàng sanh được Sê-gúp.
22. Sê-gúp sanh Giai-rơ, người nầy được hai mươi ba thành trong xứ Ga-la-át.
23. Dân Ghe-su-rơ và dân Sy-ri chiếm lấy những thành Giai-rơ và Kê-nát, luôn với
các hương thôn của địa hạt nó, cộng là sáu mươi thành. Những người ấy đều là con
cháu Ma-ki, cha Ga-la-át.
24. Sau khi Hết-rôn qua đời tại Ca-lép Ép-ra-tha rồi, thì vợ người là A-bi-gia,
sanh cho người A-su-rơ, là cha của Thê-cô-a.
25. Giê-rác-mê-ên, con trưởng nam của Hết-rôn, sanh Ram, là con đầu lòng, kế đến
Bu-na, Ô-ren, Ô-xem, và A-hi-gia.
26. Giê-rác-mê-ên lại lấy vợ khác, tên là A-ta-ra, mẹ của Ô-nam.
27. Con trai của Ram, con trưởng nam của Giê-rác-mê-ên, là Ma-ách, Gia-min, và
Ê-ke.
28. Con trai của Ô-nam là Sa-mai và Gia-đa. Con trai của Sa-mai, là Na-đáp và
A-bi-su.
29. Tên vợ của A-bi-su là A-bi-hai; nàng sanh cho người Ạc-ban và Mô-lít.
30. Con trai của Na-đáp là Sê-le và Áp-ba-im. Nhưng Sê-le qua đời, không có con.
31. Con trai của Áp-ba-im là Di-si. Con trai của Di-si là Sê-san. Con trai của
Sê-san là Ạc-lai.
32. Con trai của Gia-đa, em Sa-mai, là Giê-the và Giô-na-than; Giê-the qua đời,
không có con.
33. Con trai của Giô-na-than là Phê-lết và Xa-xa. Ấy là con cháu Giê-rác-mê-ên.
34. Vả, Sê-san không con trai, song có con gái; cũng có một đứa tôi tớ Ê-díp-tô,
lên là Gia-ra.
35. Sê-san gả con gái mình cho nó; nàng sanh Ạt-tai cho người.
36. Ạt-tai sanh Na-than, Na-than sanh Xa-bát,
37. Xa-bát sanh Ép-la, Ép-la sanh Ô-bết,
38. Ô-bết sanh Giê-hu, Giê-hu sanh A-xa-ria,
39. A-xa-ria sanh Hê-lết, Hê-lết sanh Ê-la-xa,
40. Ê-la-xa sanh Sít-mai, Sít-mai sanh Sa-lum,
41. Sa-lum sanh Giê-ca-mia, Giê-ca-mia sanh Ê-li-sa-ma.
42. Con trai Ca-lép, là em của Giê-rác-mê-ên, là con cả của Mê-sa, tức tổ phụ
của Xíp, và những con trai của Ma-rê-sa, là tổ phụ của Hếp-rôn.
43. Con trai của Hếp-rôn là Cô-ra, Táp-bua, Rê-kem, và Sê-ma.
44. Sê-ma sanh Ra-cham, là tổ phụ của Giô-kê-am; còn Rê-kem sanh Sa-mai.
45. Con trai của Sa-mai là Ma-ôn; và Ma-ôn là tổ phụ của Bết-sua.
46. Ê-pha, là hầu của Ca-lép, anh Ha-ran, Một-sa, và Ga-xe; Ha-ran sanh Ga-xe.
47. Con trai của Gia-đai là Rê-ghem, Giô-than, Ghê-san, Phê-lết, Ê-pha, và
Sa-áp.
48. Hầu của Ca-lép, là Ma-a-ca, sanh Sê-be và Ti-ra-na.
49. Nàng cũng sanh Sa-áp, là tổ phụ của Mát-ma-na, Sê-va, tổ phụ của Mác-bê-na,
và tổ phụ của Ghi-bê-a. Con gái Ca-lép là Ạc-sa.
50. Ðây là những con cháu của Ca-lép: Sô-banh, con trai của Hu-rơ, là con trưởng
nam của Ép-ra-ta, và tổ phụ của Ki-ri-át-Giê-a-rim;
51. Sanh-ma tổ phụ của Bết-lê-hem; Ha-rép tổ phụ của Bết-ga-đe.
52. Sô-banh, tổ phụ của Ki-ri-át-Giê-a-rim có con trai; người sanh Ha-rô-ê và
nửa phần dân Mê-nu-hốt.
53. Các dòng của Ki-ri-át-Giê-a-rim là Dít-rít, Phu-tít, Su-ma-tít, và
Mích-ra-ít; cũng bởi những dòng ấy mà có dân Xô-ra-tít và dân Ếch-tao-lít.
54. Con cháu của Sanh-ma là Bết-lê-hem, người Nê-tô-pha-tít, người
Ạt-rốt-Bết-Giô-áp, nửa phần dân Ma-na-ha-tít, và người Xô-rít.
55. Lại các họ hàng của những thầy thông giáo ở Gia-bết là họ Ti-ra-tít, họ
Si-ma-tít, và họ Su-ca-tít. Ấy là dân Kê-nít, sanh ra bởi Ha-mát, tổ tiên của
nhà Rê-cáp.
1 Sử-Ký 3
chọn đoạn khác
1. Nầy là những con trai Ða-vít sanh tại Hếp-rôn: con trưởng nam là Am-nôn bởi
A-hi-nô-am, người Gít-rê-ên; con thứ nhì là Ða-ni-ên bởi A-bi-ga-in, người
Cạt-mên;
2. thứ ba, Áp-sa-lôm, con trai của Ma-a-ca, con gái của Tanh-mai, vua đất
Ghê-su-rơ; thứ tư, A-đô-ni-gia, con trai của Ha-ghít;
3. thứ năm, Sê-pha-ti-a, con trai của A-bi-tanh; thứ sáu, Dít-rê-am, con của
Éc-la, vợ Ða-vít.
4. Sáu con trai nầy sanh tại Hếp-rôn; ở đó Ða-vít trị vì bảy năm sáu tháng; còn
tại Giê-ru-sa-lem, Ða-vít trị vì ba mươi ba năm.
5. Ðây là những con trai Ða-vít sanh tại Giê-ru-sa-lem: Si-mê-a, Sô-báp,
Na-than, và Sa-lô-môn, cộng được bốn người, đều là con của Bát-sua, con gái của
A-mi-ên.
6. Lại có Gi-ba, E-li-sa-ma, Ê-li-phê-lết,
7. Nô-ga, Nê-phết, Gia-phia,
8. Ê-li-sa-ma, Ê-li-gia-đa, và Ê-li-phê-lết, cộng được chín người.
9. Ấy là những con trai của Ða-vít, chẳng kể các con trai của những cung phi; và
Ta-ma là chị em của chúng.
10. Con trai Sa-lô-môn là Rô-bô-am, con trai Rô-bô-am là A-bi-gia, con trai
A-bi-gia là A-sa, con trai A-sa là Giô-sa-phát,
11. con trai Giô-sa-phát là Giô-ram, con trai Giô-ram là A-cha-xia, con trai
A-cha-xia là Giô-ách;
12. con trai Giô-ách là A-ma-xia, con trai A-ma-xia là A-xa-ria, con trai
A-xa-ria là Giô-tham,
13. con trai Giô-tham là A-cha, con trai A-cha là Ê-xê-chia, con trai Ê-xê-chia
là Ma-na-se,
14. con trai Ma-na-se là A-môn, con trai A-môn là Giô-si-a.
15. Con trai của Giô-si-a: con trưởng nam là Giô-ha-nan; con thứ nhì là
Giê-hô-gia-kim, thứ ba là Sê-đe-kia, thứ tư là Sa-lum.
16. Con trai của Giê-hô-gia-kim là Giê-chô-nia và Sê-đê-kia.
17. Con trai của Giê-chô-nia, tức người bị lưu đày, là Sa-la-thi-ên,
18. Manh-ki-ram, Phê-đa-gia, Sê-na-xa, Giê-ca-mia, Hô-sa-ma, và Nê-đa-bia.
19. Con trai của Phê-đa-gia là Xô-rô-ba-bên và Si-mê-i. Con trai của
Xô-rô-ba-bên là Mê-su-lam và Ha-na-nia; còn Sê-lô-mít là chị em của chúng.
20. Lại có Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-kia, Ha-sa-đia, Du-sáp-Hê-rết, cộng là năm
người.
21. Con trai của Ha-na-nia là Phê-la-tia và Ê-sai; lại có con cháu Ô-ba-đia, và
con cháu Sê-ca-nia.
22. Con trai của Sê-ca-nia là Sê-ma-gia. Những con trai của Sê-ma-gia là
Hát-túc, Di-ganh, Ba-ria, Nê-a-ria, và Sa-phát, cộng được sáu người.
23. Con của Nê-a-ria là Ê-li-ô-ê-nai, Ê-xê-chia, và A-ri-kham, cộng được ba
người.
24. Con trai của Ê-li-ô-ê-nai là Hô-đa-via, Ê-li-a-síp, Phê-la-gia, A-cúp,
Giô-ha-nan, Ðê-la-gia, và A-na-ni, cộng được bảy người.
1 Sử-Ký 4
chọn đoạn khác
1. Con trai của Giu-đa là Phê-rết, Hết-rôn, Cạt-mi, Hu-rơ và Sô-banh.
2. Rê-a-gia, con trai Sô-banh sanh Gia-hát; Gia-hát sanh A-hu-mai và La-hát. Ấy
là các họ hàng của dân Xô-ra-tít.
3. Ðây là con cháu của A-bi-Ê-tam: Gít-rê-ên, Dít-ma và Di-ba; em gái họ là
Ha-sê-lê-bô-ni.
4. Lại có Phê-nu-ên, là tổ phụ của Ghê-đô, và Ê-xe, tổ phụ của Hu-sa. Ấy là con
cháu của Hu-rơ, con trưởng nam của Ép-ra-ta, tổ phụ của Bết-lê-hem.
5. A-su-rơ, tổ phụ của Thê-cô-a, lấy hai vợ là Hê-lê-a và Na-a-ra.
6. Na-a-ra sanh A-hu-xam, Hê-phe, Thê-mê-ni, và A-hách-tha-ri.
7. Ấy là các con trai của Na-a-ra. Con trai của Hê-lê-a là Xê-rết, Xô-ha, và
Ết-nan.
8. Ha-cốt sanh A-núp, Hát-xô-bê-ba, và dòng A-ha-hên, con Ha-rum.
9. Gia-bê được tôn trọng hơn anh em mình; mẹ người đặt tên là Gia-bê, vì nói
rằng: Ta sanh nó trong sự đau đớn.
10. Gia-bê khấn nguyện với Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên rằng: Chớ chi Chúa ban
phước cho tôi, mở bờ cõi tôi rộng lớn; nguyện tay Chúa phù giúp tôi, giữ tôi
được khỏi sự dữ, hầu cho tôi chẳng buồn rầu! Ðức Chúa Trời bèn ban cho y như sự
người cầu nguyện.
11. Kê-lúp, anh em của Su-ha, sanh Mê-hia, tổ phụ của Ê-tôn.
12. Ê-tôn sanh nhà Ra-pha, Pha-sê-a, và Tê-hi-na, tổ tiên của dân thành Na-hách.
Ấy là những người Rê-ca.
13. Con trai của Kê-na là Ốt-ni-ên và Sê-ra-gia. Con trai của Ốt-ni-ên là
Ha-thát.
14. Mê-ô-nô-thai sanh Óp-ra; Sê-ra-gia sanh Giô-áp, tổ phụ của các người ở trũng
thợ mộc, vì họ đều là thợ mộc.
15. Các con trai của Ca-lép, cháu của Giê-phu-nê, là Y-ru, Ê-la, và Na-am, cùng
những con trai của Ê-la và Kê-na.
16. Con trai của Giê-ha-lê-le là Xíp, Xi-pha, Thi-ria, và A-sa-rên.
17. Con trai của E-xơ-ra là Giê-the, Mê-rết, Ê-phe, và Gia-lôn. Vợ của Mê-rết
sanh Mi-ri-am, Sa-mai, và Dít-bác, tổ phụ của Ếch-tê-mô-a.
18. Vợ người là dân Giu-đa, sanh Giê-rệt, tổ phụ của Ghê-đô, Hê-be, tổ phụ của
Sô-cô, và Giê-cu-ti-ên, tổ phụ của Xa-nô-a. Ấy là con cháu của Bi-thia, con gái
của Pha-ra-ôn, mà Mê-rết cưới lấy.
19. Con trai của vợ Hô-đia, chị em Na-ham, là cha của Kê-hi-la, người Gạc-mít,
và Ếch-tê-mô-a, người Ma-ca-thít.
20. Con trai của Si-môn là Am-môn, Ri-na, Bên-Ha-nan, và Ti-lôn. Con trai của
Di-si là Xô-hết và Bên-Xô-hết.
21. Con cháu Sê-la, con trai Giu-đa, là Ê-rơ, tổ phụ của Lê-ca, La-ê-đa, tổ phụ
của Ma-rê-sa, và các họ hàng về dòng dõi Ách-bê-a, là kẻ dệt vải gai mịn;
22. lại có Giô-kim, và những người Cô-xê-ba, Giô-ách, và Sa-ráp, là người cai
trị đất Mô-áp, cùng Gia-su-bi-Lê-chem. Ấy là điều cổ tích.
23. Những người nầy là thợ gốm, ở tại Nê-ta-im, và Ghê-đê-ra; chúng ở gần vua mà
làm công việc người.
24. Con trai của Si-mê-ôn là Nê-mu-ên, Gia-min, Gia-ríp, Xê-ra, Sau-lơ;
25. Sa-lum, con trai của Sau-lơ, Míp-sam, con trai của Sa-lum, và Mích-ma, con
trai của Míp-sam.
26. Con trai của Mích-ma là Ham-mu-ên, con trai của Xa-cu là Si-mê-i.
27. Còn Si-mê-i có mười sáu con trai và sáu con gái; song anh em người không
đông con; cả họ hàng chúng sánh với số người Giu-đa thì kém.
28. Chúng ở tại Bê-e-Sê-ba, tại Mô-la-đa, tại Ha-xa-Sua,
29. tại Bi-la, tại Ê-xem, và tại Tô-lát;
30. lại ở tại Bê-tu-ên, Họt-ma, và Xiếc-lác;
31. ở tại Bết-Ma-ca-bốt, Hát-sa-Su-sim, Bết-Bi-rê, và tại Sa-a-ra-im. Ấy là các
thành của chúng cho đến đời vua Ða-vít.
32. Chúng cũng có năm hương thôn, là Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken, và A-san,
33. cùng các thôn ấp bốn phía của các hương thôn nầy cho đến Ba-anh. Ấy là chỗ ở
và gia phổ của chúng.
34. Lại, Mê-sô-báp, Giam-léc, Giô-sa, con trai của A-ma-xia;
35. Giô-ên và Giê-hu, là con trai Giô-xơ-bia, cháu Sê-ra-gia, chắt A-si-ên;
36. lại có Ê-li-ô-ê-nai, Gia-cô-ba, Giê-sô-hai-gia, A-sa-gia, A-đi-ên,
Giê-si-mi-ên, Bê-na-gia,
37. Xi-xa, con trai của Si-phi, cháu của A-lôn, chắt của Giê-đa-gia, chít của
Sim-ri, là con trai của Sê-ma-gia.
38. Những người kể từng tên nầy là trưởng tộc trong họ mình, tông tộc chúng thì
thêm lên rất nhiều.
39. Chúng sang qua Ghê-đô, đến bên phía đông của trũng, để kiếm đồng cỏ cho đoàn
súc vật mình.
40. Chúng bèn thấy đồng cỏ tươi tốt; còn đất thì rộng rãi, yên lặng và bình an;
khi trước dòng dõi Cham ở đó.
41. Những người đã kể tên trước đây, trong đời Ê-xê-chia, vua nước Giu-đa, kéo
đến đánh các trại quân của chúng, và những người Ma-ô-nít ở đó, tuyệt hết họ,
chiếm lấy đất, và ở thay vào cho đến ngày nay; bởi vì tại đó có đồng cỏ để nuôi
bầy súc vật của họ.
42. Trong dòng Si-mê-ôn có năm trăm người tiến đến núi Sê-i-rơ; các quan-cai họ
là Phê-la-tia, Nê-a-ria, Rê-pha-gia, và U-xi-ên; ấy là các con trai của Di-si.
43. Chúng đánh người A-ma-léc còn sót lại, rồi ở đó cho đến ngày nay.
1 Sử-Ký 5
chọn đoạn khác
1. Vả, Ru-bên, con trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, vì làm ô uế giường của cha mình,
nên quyền trưởng tử đã về các con trai Giô-sép, là con trai Y-sơ-ra-ên; dầu vậy,
trong gia phổ không chép Giô-sép là trưởng tử;
2. vì Giu-đa trổi hơn anh em mình, và bởi người mà ra vua chúa; song quyền
trưởng tử thì về Giô-sép.
3. Nầy con trai của Ru-bên, con trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, là Hê-nóc, Pha-lu,
Hết-rôn, và Cạt-mi.
4. Con trai của Giô-ên là Sê-ma-gia, con trai của Sê-ma-gia là Gót, con trai của
Gót là Si-mê-i,
5. con trai của Si-mê-i là Mi-ca, con trai của Mi-ca là Rê-a-gia, con trai của
Rê-a-gia là Ba-anh,
6. con trai của Ba-anh là Bê-ê-ra, bị Tiếc-lát-Phin-nê-se, vua nước A-si-ri, bắt
làm phu tù; người vốn làm trưởng tộc trong chi phái Ru-bên.
7. Anh em của Bê-ê-ra theo họ hàng mình, y như đã chép vào sách gia phổ là,
Giê-i-ên, trưởng tộc, Xa-cha-ri,
8. Bê-la, con trai của A-xa, cháu của Sê-ma, chắt của Giô-ên; Bê-la ở tại
A-rô-e, cho đến Nê-bô và Ba-anh-Mê-ôn;
9. về phía đông người ở vào lối đồng vắng cho đến sông Ơ-phơ-rát, vì trong xứ
Ga-la-át bầy súc vật chúng có sanh thêm nhiều lắm.
10. Trong đời vua Sau-lơ, chúng ra đánh giặc với dân Ha-ga-rít, thắng hơn họ, và
ở trong trại họ tại khắp miền phía đông xứ Ga-la-át.
11. Con cháu Gát ở đối ngang chúng nó trong xứ Ba-san, cho đến Sanh-ca.
12. Giô-ên là trưởng tộc, Sa-pham làm phó; lại có Gia-nai và Sa-phát ở Ba-san.
13. Anh em tùy theo tông tộc chúng, là bảy người: Mi-ca-ên, Mê-su-lam, Sê-ba,
Giô-rai, Gia-can, Xia và Ê-be.
14. Ấy là các con trai của A-bi-hai, A-bi-hai con trai của Hu-ri. Hu-ri con trai
của Gia-rô-a, Gia-rô-a con trai của Ga-la-át, Ga-la-át con trai của Mi-ca-ên,
Mi-ca-ên con trai của Giê-si-sai, Giê-si-sai con trai của Giác-đô, Giác-đô con
trai của Bu-xơ;
15. A-hi con trai của Áp-đi-ên, Áp-đi-ên con trai của Gu-ni; A-hi làm trưởng
tộc.
16. Chúng ở nơi Ga-la-át, Ba-san, cùng trong các hương thôn của xứ ấy; lại ở
trong cõi Sa-rôn cho đến giới hạn nó.
17. Những kẻ nầy đã được biên vào sách gia phổ trong đời vua Giô-tham nước
Giu-đa, và trong đời vua Giê-rô-bô-am nước Y-sơ-ra-ên.
18. Trong con cháu Ru-bên, người Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se, các người
lính chiến có tài cầm khiên, cầm gươm, giương cung, và thạo về chinh chiến, là
bốn vạn bốn ngàn bảy trăm sáu mươi người, có thể ra trận được.
19. Chúng giao chiến với dân Ha-ga-rít, dân Giê-tua, dân Na-phi, và dân Nô-đáp.
20. Trong khi giao chiến, chúng kêu cầu cùng Ðức Chúa Trời, và Ðức Chúa Trời vì
chúng có lòng tin cậy Ngài, thì cứu giúp cho, phó dân Ha-ga-rít và cả những kẻ
theo nó vào tay chúng.
21. Chúng bắt được những bầy súc vật của các dân ấy, là năm vạn lạc đà, hai mươi
lăm vạn chiên, hai ngàn lừa, và luôn mười vạn người.
22. Cũng có nhiều người bị chết, vì trận nầy bởi Ðức Chúa Trời mà có. Chúng ở
thay vào các dân tộc ấy cho đến khi bị bắt dẫn đi làm phu tù.
23. Người nửa chi phái Mê-na-se ở trong xứ từ Ba-san cho đến Ba-anh-Hẹt-môn,
Sê-nia, và núi Hẹt-môn; nhân số họ rất đông.
24. Ðây là các trưởng tộc trong dòng dõi chúng: Ê-phe, Di-si, Ê-li-ên,
Ách-ri-ên, Giê-rê-mi, Hô-đa-via, và Giắc-đi-ên, đều là các trưởng tộc, vốn người
mạnh dạn, có danh tiếng.
25. Song chúng phạm tội cùng Ðức Chúa Trời của các tổ phụ mình, và thông dâm
cùng những thần của các dân tộc của xứ mà Ðức Chúa Trời đã hủy hoại trước mặt
chúng.
26. Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên xui giục lòng Phun, vua nước A-si-ri, và
Tiếc-lát-Phin-nê-se, cùng vua nước A-si-ri, đến bắt người Ru-bên, người Gát, và
nửa chi phái Mê-na-se, đem chúng về ở Ha-la, Cha-bo, Ha-ra, và miền gần sông
Gô-xan, là nơi chúng còn ở cho đến ngày nay.
1 Sử-Ký 6
chọn đoạn khác
1. Con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
2. Con trai của Kê-hát là Am-ram, Két-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên.
3. Con trai của Am-ram là A-rôn, Môi-se và Mi-ri-am. Con trai của A-rôn là
Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma.
4. Ê-lê-a-sa sanh Phi-nê-a; Phi-nê-a sanh A-bi-sua;
5. A-bi-sua sanh Bu-ki, Bu-ki sanh U-xi;
6. U-xi sanh Xê-ra-hi-gia; Xê-ra-hi-gia sanh Mê-ra-giốt;
7. Mê-ra-giốt sanh A-ma-ria; A-ma-ria sanh A-hi-túp;
8. A-hi-túp sanh Xa-đốc; Xa-đốc sanh A-hi-ma-ách;
9. A-hi-ma-ách sanh A-xa-ria; A-xa-ria sanh Giô-ha-nan;
10. Giô-ha-nan sanh A-xa-ria, là kẻ làm chức tế lễ trong đền vua Sa-lô-môn đã
xây ở thành Giê-ru-sa-lem.
11. A-xa-ria sanh A-ma-ria; A-ma-ria sanh A-hi-túp;
12. A-hi-túp sanh Xa-đốc; Xa-đốc sanh Sa-lum;
13. Sa-lum sanh Hinh-kia; Hinh-kia sanh A-xa-ria;
14. A-xa-ria sanh Sê-ra-gia; Sê-ra-gia sanh Giê-hô-xa-đác;
15. Giê-hô-xa-đác bị bắt làm phu tù khi Ðức Giê-hô-va dùng tay Nê-bu-cát-nết-sa
mà bắt dẫn dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đi.
16. Con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
17. Ðây là những tên của các con trai Ghẹt-sôn: Líp-ni và Si-mê-i.
18. Con trai của Kê-hát là Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên.
19. Con trai của Mê-ra-ri là Mách-li và Mu-si. Ấy là các họ hàng người Lê-vi
theo tông tộc mình.
20. Con trai của Ghẹt-sôn là Líp-ni; con trai của Líp-ni là Gia-hát; con trai
của Gia-hát là Xim-ma; con trai của Xim-ma là Giô-a;
21. con trai của Giô-a là Y-đô; con trai của Y-đô là Xê-ra; con trai của Xê-ra
là Giê-a-trai.
22. Con trai của Kê-hát là A-mi-na-đáp; con trai của A-mi-na-đáp là Cô-rê; con
trai của Cô-rê là Át-si; con trai của Át-si là Ên ca-na;
23. con trai của Ên ca-na là Ê-bi-a-sáp; con trai của Ê-bi-a-sáp là Át-si;
24. con trai của Át-si là Ta-hát; con trai của Ta-hát là U-ri-ên; con trai của
U-ri-ên là U-xi-gia; con trai của U-xi-gia là Sau-lơ.
25. Con trai của Ên-ca-na là A-ma-sai và A-hi-mốt.
26. Con trai của Ên-ca-na là Xô-phai; con trai của Xô-phai là Na-hát;
27. con trai của Na-hát là Ê-li-áp; con trai của Ê-li-áp là Giê-rô-ham; con trai
của Giê-rô-ham là Ên-ca-na.
28. Các con trai của Sa-mu-ên là: Con trưởng nam là Va-sê-ni, con thứ hai
A-bi-gia.
29. Con trai của Mê-ra-ri là Mách-li, con trai của của Mách-li là Líp-ni; con
trai của Líp-ni là Si-mê-i; con trai của Si-mê-i là U-xa;
30. con trai của U-xa là Si-mê-a; con trai của Si-mê-a là Ha-ghi-gia; con trai
của Ha-ghi-gia là A-sai-gia.
31. Sau khi hòm giao ước đã để yên rồi, vua Ða-vít có đặt những kẻ để coi sóc
việc hát xướng trong đền Ðức Giê-hô-va.
32. Chúng hầu việc trước đền tạm về việc hát xướng cho đến khi vua Sa-lô-môn xây
xong đền thờ của Ðức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem: ai nấy đều theo ban thứ mình
mà làm việc.
33. Ðây là những kẻ chầu chực với con trai mình. Trong con cháu Kê-hát có Hê-man
là kẻ nhã nhạc, con trai của Giô-ên, Giô-ên con trai của Sa-mu-ên,
34. Sa-mu-ên con trai của Ên-ca-na, Ên-ca-na con trai của Giê-rô-ham, Giê-rô-ham
con trai của Ê-li-ên, Ê-li-ên con trai của Thô-a,
35. Thô-a con trai của Xu-phơ, Xu-phơ con trai của Ên-ca-na, Ên-ca-na con trai
của Ma-hát, Ma-hát con trai của A-ma-sai,
36. A-ma-sai con trai của Ên-ca-na, Ên-ca-na con trai của Giô-ên, Giô-ên con
trai của A-xa-ria, A-xa-ria con trai của Xô-phô-ni,
37. Xô-phô-ni con trai của Ta-hát, Ta-hát con trai của Át-si, Át-si con trai của
Ê-bi-a-sáp, Ê-bi-a-sáp con trai của Cô-rê,
38. Cô-rê con trai của Dít-sê-ha, Dít-sê-ha con trai của Kê-hát, Kê-hát con trai
của Lê-vi, Lê-vi con trai của Y-sơ-ra-ên.
39. A-sáp, anh em của Hê-man, chầu chực bên hữu người. A-sáp là con trai của
Bê-rê-kia, Bê-rê-kia con trai của Si-mê-a,
40. Si-mê-a con trai của Mi-ca-ên, Mi-ca-ên con trai của Ba-sê-gia, Ba-sê-gia
con trai của Manh-ki-gia,
41. Manh-ki-gia con trai của Ét-ni, Ét-ni con trai của Xê-ra, Xê-ra con trai của
A-đa-gia,
42. A-đa-gia con trai của Ê-than, Ê-than con trai của Xim-ma, Xim-ma con trai
của Si-mê-i,
43. Si-mê-i con trai của Gia-hát, Gia-hát con trai của Ghẹt-sôn, Ghẹt-sôn con
trai của Lê-vi.
44. Các con cháu của Mê-ra-ri, anh em của chúng, đều chầu chực bên tả, là Ê-than
con trai của Ki-si, Ki-si con trai của Áp-đi, Áp-đi con trai của Ma-lúc,
45. Ma-lúc con trai của Ha-sa-bia, Ha-sa-bia con trai của A-ma-xia, A-ma-xia con
trai của Hinh-kia,
46. Hinh-kia con trai của Am-si, Am-si con trai của Ba-ni, Ba-ni con trai của
Sê-me,
47. Sê-me con trai của Mách-lị, Mách-lị con trai của Mu-si, Mu-si con trai của
Mê-ra-ri, Mê-ra-ri con trai của Lê-vi.
48. Các anh em chúng, là những người Lê-vi khác, đều được cắt làm mọi việc trong
đền tạm của Ðức Chúa Trời.
49. A-rôn và các con trai người đều dâng của lễ hoặc trên bàn thờ về của lễ
thiêu hay trên bàn thờ xông hương, làm mọi việc ở nơi chí thánh, và làm lễ chuộc
tội cho Y-sơ-ra-ên, theo như mọi sự Môi-se, đầy tớ Ðức Chúa Trời, đã trừ diệt.
50. Ðây là dòng dõi của A-rôn: Ê-lê-a-sa con trai của A-rôn, Phi-nê-a con trai
của Ê-lê-a-sa, A-bi-sua con trai của Phi-nê-a,
51. Bu-ki con trai của A-bi-sua, U-xi con trai của Bu-ki, Xê-ra-hi-gia con trai
của U-xi,
52. Mê-ra-giốt con trai của Xê-ra-hi-gia, A-ma-ria con trai của Mê-ra-giốt,
A-hi-túp con trai của A-ma-ria,
53. Xa-đốc con trai của A-hi-túp, A-hi-ma-ách con trai của Xa-đốc.
54. Nầy là nơi ở của con cái A-rôn, tùy theo nơi đóng trại mình trong địa phận
chúng. Họ hàng Kê-hát bắt thăm trước hết.
55. Họ phân cấp cho chúng thành Hếp-rôn tại xứ Giu-đa và các cõi bốn phía.
56. Song đất ruộng và hương thôn của thành đều ban cho Ca-lép, con trai
Giê-phu-nê.
57. Lại con cháu A-rôn được những thành ẩn náu, là Hếp-rôn, Líp-na, và địa hạt
nó; Gia-tia, Ếch-tê-mô-a, và địa hạt nó;
58. Hi-lên, với địa hạt nó; Ðê-bia, với địa hạt nó;
59. A-san, với địa hạt nó; Bết-Sê-mết, với địa hạt nó.
60. Bởi từ chi phái Bên-gia-min họ được Ghê-ba, với địa hạt nó; A-lê-mết, với
địa hạt nó; A-na-tốt, với địa hạt nó. Các thành của chúng cộng lại được mười ba
cái, tùy theo gia tộc họ.
61. Con cháu Kê-hát còn lại bắt thăm mà được mười thành trong nửa chi phái
Mê-na-se.
62. Con cháu Ghẹt-sôn, tùy theo họ hàng, đều được mười ba thành bởi trong chi
phái Y-sa-ca, chi phái A-se, chi phái Nép-tha-li, và chi phái Ma-na-se tại đất
Ba-san.
63. Con cháu Mê-ra-ri, tùy theo gia tộc họ, đều bắt thăm mà được mười hai thành,
bởi trong chi phái Ru-bên, chi phái Gát và chi phái Sa-bu-lôn.
64. Dân Y-sơ-ra-ên chia cấp cho người Lê-vi các thành ấy và địa hạt nó.
65. Họ bắt thăm mà cho bởi trong chi phái Giu-đa, chi phái Si-mê-ôn, và chi phái
Bên-gia-min, những thành đã kể ở trên.
66. Trong người Kê-hát có mấy nhà đã được những thành bởi trong chi phái
Ép-ra-im;
67. chúng được những thành ẩn náu, là Si-chem với địa hạt nó, tại trên núi
Ép-ra-im, Ghê-xe với địa hạt nó,
68. Giốc-mê-am với địa hạt nó, Bết-Hô-rôn với địa hạt nó,
69. A-gia-lôn với địa hạt nó, Gát-Rim-môn với địa hạt nó;
70. và bởi trong nửa chi phái Mê-na-se họ được A-ne với địa hạt nó, Bi-lê-am với
địa hạt nó. Người ta chia cấp các thành ấy cho những người của dòng Kê-hát còn
sót lại.
71. Con cháu Ghẹt-sôn bởi họ hàng của nửa chi phái Mê-na-se, được Gô-lan ở đất
Ba-san với địa hạt nó; Ách-ta-rốt với địa hạt nó;
72. bởi chi phái Y-sa-ca, họ được Kê-đe với địa hạt nó;
73. Ra-mốt với địa hạt nó; A-nem với địa hạt nó;
74. bởi chi phái A-se, họ được Ma-sanh với địa hạt nó; Áp-đôn với địa hạt nó;
Hu-cô với địa hạt nó;
75. Rê-hốp với địa hạt nó;
76. bởi chi phái Nép-ta-li, họ được Kê-đe trong Ga-li-lê, với địa hạt nó;
Ham-môn với địa hạt nó; Ki-ria-ta-im với địa hạt nó.
77. Con cháu Mê-ra-ri còn sót lại bởi chi phái Sa-bu-lôn được Ri-mô-nô với địa
hạt nó; Tha-bô với địa hạt nó;
78. còn bên kia sông Giô-đanh về phía đông, đối ngang Giê-ri-cô, bởi chi phái
Ru-bên, họ được Bết-se trong rừng với địa hạt nó; Gia-xa với địa hạt nó;
79. Kê-đê-mốt với địa hạt nó; Mê-phát với địa hạt nó;
80. bởi chi phái Gát, họ được Ra-mốt ở đất Ga-la-át, với địa hạt nó; Ma-ha-na-im
với địa hạt nó;
81. Hết-bôn với địa hạt nó; Gia-ê-xe với địa hạt nó.
1 Sử-Ký 7
chọn đoạn khác
1. Con trai của Y-sa-ca là: Thô-la, Phu-a, Gia-súp, và Sim-rôn, bốn người.
2. Con trai của Thô-la là: U-xi, Rê-pha-gia, Giê-ri-ên, Giác-mai, Díp-sam,
Sa-mu-ên, đều là trưởng trong tông tộc Thô-la, và làm người anh hùng, mạnh dạn
trong dòng dõi họ; về đời Ða-vít, số con cái họ được hai vạn hai ngàn sáu trăm
người.
3. Con trai của U-xi là Dít-ra-hia; con trai của Dít-ra-hia là Mi-ca-ên,
O-ba-đia, Giô-ên, và Di-si-gia, cả cha con năm người, đều là trưởng tộc
4. với họ có những đội binh sẵn ra trận, cứ theo tông tộc và thế hệ của chúng,
số được ba vạn sáu ngàn quân; bởi vì chúng có nhiều vợ và nhiều con.
5. Lại anh em chúng trong dòng Y-sa-ca, là những người anh hùng, mạnh dạn, theo
gia phổ, số được tám vạn bảy ngàn tên.
6. Con trai của Bên-gia-min là Bê-la, Bê-ke, và Giê-đi-a-ên, ba người.
7. con trai của Bê-la là Ét-bôn, U-xi, U-xi-ên, Giê-ri-mốt, và Y-ri, năm người;
thảy đều là trưởng tộc, người mạnh dạn; số con cháu họ, theo gia phổ, được hai
vạn hai ngàn ba mươi bốn người.
8. Con trai của Bê-ke là Xê-mi-ra, Giô-ách, Ê-li-ê-se, Ê-li-ô-ê-nai, Ôm-ri,
Giê-rê-mốt, A-bi-gia, A-na-tốt, và A-lê-mết. Những kẻ ấy là con trai Bê-ke,
9. họ đều là trưởng tộc, và người mạnh dạn; số con cháu họ, theo gia phổ của
chúng, được hai vạn hai trăm người.
10. Con trai của Giê-đi-a-ên là Binh-han; con trai của Binh-han là Giê-úc,
Bên-gia-min, Ê-hút, Kê-na-na, Xê-than, Ta-rê-si, và A-hi-sa-ha.
11. Những kẻ nầy là con trai của Giê-đi-a-ên, đều là trưởng tộc, vốn người mạnh
dạn; trong con cái chúng kẻ được ra trận, số là một vạn bảy ngàn hai trăm người.
12. Lại có Súp-bim và Hốp-bim, con trai của Y-rơ; Hu-rim con trai của A-he.
13. Con trai của Nép-ta-li là Gia-si-ên, Gu-ni, Gie-xe, và Sa-lum, đều là con
của bà Bi-la.
14. Con trai của Ma-na-se là Ách-ri-ên, mà hầu A-ram của người sanh; nàng cũng
sanh Ma-ki, là tổ phụ của Ga-la-át.
15. Ma-ki cưới em gái của Hốp-kim và Súp-bim, tên là Ma-a-ca mà làm vợ. Tên của
con thứ là Xê-lô-phát; Xê-lô-phát sanh ra mấy con gái.
16. Ma-a-ca, vợ của Ma-ki, sanh được một đứa con trai, đặt tên là Phê-rết; tên
của người em là Sê-rết. Sê-rết sanh ra U-lam và Ra-kem.
17. Con trai của U-lam và Bê-đan. Ấy là con trai của Ga-la-át, cháu của Ma-ki,
chắt của Ma-na-se.
18. Em gái của Ga-la-át, là Ha-mô-lê-kết, anh Y-sốt, A-bi-ê-xe, và Mác-la.
19. Con trai của Sê-mi-đa là A-hi-an, Sê-kem, Li-khi, và A-ni-am.
20. Con trai của Ép-ra-im là Su-tê-la; con trai của Su-tê-la là Bê-re, con trai
của Bê-re là Ta-hát, con trai của Ta-hát là Ê-lê-a-đa, con trai của Ê-lê-a-đa là
Ta-hát,
21. con trai của Ta-hát là Xa-bát, con trai của Xa-bát là Su-tê-la, Ê-xe, và
Ê-lê-át; chúng nó bị người đất Gát giết, vì có xuống Gát đặng cướp súc vật của
họ.
22. Ép-ra-im, cha chúng nó, để tang lâu ngày, và anh em người đều tới an ủi
người.
23. Ðoạn, người ăn ở cùng vợ mình, nàng có thai, sanh được một đứa trai, đặt tên
là Bê-ri-a, vì nhà người đã bị tai họa.
24. Con gái người là Sê-ê-ra; nàng xây Bết-Hô-rôn trên và dưới, cùng
U-xên-Sê-ê-ra.
25. Lại người sanh Rê-pha; Rê-pha sanh Rê-sép và Tê-la; Tê-la sanh Ta-han;
26. Ta-han sanh La-ê-đan; La-ê-đan sanh Am-mi-hút; Am-mi-hút sanh Ê-li-sa-ma;
27. Ê-li-sa-ma sanh Nun; và Nun sanh Giô-suê.
28. Sản nghiệp và nơi ở của chúng là Bê-tên và các hương thôn nó; về phía đông
là Na-a-ran, và về phía tây là Ghe-xe với các hương thôn nó.
29. Gần bờ cõi chi phái Ma-na-se có Bết-Sê-an và các hương thôn nó, Mê-ghi-đô và
các hương thôn nó. Ðô-rơ và các hương thôn nó. Con cháu Giô-sép, con trai
Y-sơ-ra-ên, đều ở tại những chỗ ấy.
30. Con trai của A-se là Dim-na, Dích-và, Dích-vi, Bê-ri-a và Sê-ra, là em gái
chúng nó.
31. Con trai của Bê-ri-a là Hê-be và Manh-ki-ên; Manh-ki-ên là tổ phụ của
Biếc-xa-vít.
32. Hê-be sanh Giáp-phơ-lết, Sô-mê, Hô-tham, và Su-a, là em gái của chúng nó.
33. Con trai của Giát-phơ-lết là Pha-sác, Bim-hanh, và A-vát. Ðó là những con
trai của Giáp-phơ-lết.
34. Con trai của Sê-me là A-hi, Rô-hê-ga, Hu-ba, và A-ram.
35. Con trai của Hê-lem, anh em Sê-me, là Xô-pha, Dim-na, Sê-lết, và A-manh.
36. Con trai của Xô-pha là Su-a, Hạt-nê-phê, Su-anh, Bê-ri, Dim-ra,
37. Bết-se, Hốt, Sa-ma, Sinh-sa, Dít-ran, và Bê-ê-ra.
38. Con trai của Giê-the là Giê-phu-nê, Phít-ba, và A-ra.
39. Con trai của U-la là A-ra, Ha-ni-ên, và Ri-xi-a.
40. Những kẻ ấy đều là con cái của A-se, làm trưởng tộc, vốn là tinh binh và
mạnh dạn, đứng đầu các quan tướng. Các người trong chúng hay chinh chiến, theo
gia phổ, số được hai vạn sáu ngàn tên.
1 Sử-Ký 8
chọn đoạn khác
1. Bên-gia-min sanh Bê-la, con trưởng nam, thứ nhì là Ách-bên, thứ ba là Ạc-ra,
2. thứ tư là Nô-ha, và thứ năm là Ra-pha.
3. Con trai của Bê-la là Át-đa, Ghê-ra, A-bi-hút,
4. A-bi-sua, Na-a-man, A-hoa,
5. Ghê-ra, Sê-phu-phan, và Hu-ram.
6. Ðây là các con trai của Ê-hút; những người ấy đều làm trưởng tộc của dân
Ghê-ba; dân ấy bị bắt làm phu tù dẫn đến đất Ma-na-hát;
7. Na-a-man, A-hi-gia, và Ghê-ra, đều bị bắt làm phu tù, và người sanh ra U-xa
và A-hi-hút.
8. Sa-ha-ra-im sanh con ở trong xứ Mô-áp, sau khi để Hu-sim và Ba-ra, hai vợ
người.
9. Bởi Hô-đe, vợ người, thì sanh được Giô-báp, Xi-bia, Mê-sa, Manh-cam,
10. Giê-út, Sô-kia, và Mịt-ma. Những người nầy là con trai của người và đều làm
trưởng tộc.
11. Bởi bà Hu-sim, người sanh A-bi-túp và Ên-ba-anh.
12. Con trai của Ên-ba-anh là Ê-be, Mi-sê-am, và Sê-mết; người ấy xây thành
Ô-nô, và Lót và các hương thôn nó;
13. lại sanh Bê-ri-a và Sê-ma; hai người làm trưởng tộc của dân cư A-gia-lôn, và
đã đuổi dân thành Gát.
14. Con trai của Bê-ria là A-hi-ô, Sa-sác,
15. Giê-rê-mốt, Xê-ba-đia, A-rát, E-đe,
16. Mi-ca-ên, Dít-pha, và Giô-ha.
17. Con trai của Ên-ba-anh là Xê-ba-đia, Mê-su-lam, Hi-ki, Hê-be,
18. Gít-mê-rai, Gít-lia, và Giô-báp.
19. Con trai của Si-mê-i là Gia-kim, Xiếc-ri, Xáp-đi,
20. Ê-li-ê-nai, Xi-lê-tai, Ê-li-ên,
21. A-đa-gia, Bê-ra-gia, và Sim-rát.
22. Con trai của Sa-sác là Gít-ban, Ê-be, Ê-li-ên,
23. Áp-đôn, Xiếc-ri, Ha-nan,
24. Ha-na-nia, Ê-lam, An-tô-ti-gia,
25. Gíp-đê-gia, và Phê-nu-ên.
26. Con trai của Giê-rô-ham là Sam-sê-rai, Sê-ha-ria, A-ta-lia,
27. Gia-rê-sia, Ê-li-gia, và Xiếc-ri.
28. Những kẻ ấy làm trưởng tộc, đứng đầu trong dòng dõi của họ, và ở tại thành
Giê-ru-sa-lem.
29. tổ phụ của Ba-ba-ôn ở tại Ga-ba-ôn; tên vợ người là Ma-a-ca.
30. Con trưởng nam người là Áp-đôn; lại có sanh Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Na-đáp,
31. Ghê-đôn, A-hi-ô, và Xê-ke.
32. Mích-lô sanh Si-mê-a; chúng cũng đồng ở cùng anh em mình tại Giê-ru-sa-lem
đối mặt nhau.
33. Nê-rơ sanh Kích; Kích sanh Sau-lơ; Sau-lơ sanh Giô-na-than, Manh-ki-sua,
A-bi-na-đáp, và Ếch-ba-anh.
34. Con trai của Giô-na-than là Mê-ri-Ba-anh; Mê-ri-Ba-anh sanh Mi-ca.
35. Con trai của Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a, và A-cha.
36. A-cha sanh Giê-hô-a-đa; Giê-hô-a-đa sanh A-lê-mết, Át-ma-vết, và Xim-ri;
Xim-ri sanh Một-sa;
37. Một-sa sanh Bi-nê-a; con trai của Bi-nê-a là Ra-pha; Ra-pha sanh Ê-lê-a-sa,
Ê-lê-a-sa sanh A-xên.
38. A-xên có sáu con trai, tên là A-ri-kham, Bốc-cu, Ích-ma-ên, Sê-a-ria,
Ô-ba-đia, và Ha-nan. hết thảy những người ấy đều là con trai của A-xên.
39. con trai Ê-sết, anh em của A-xên, là U-lam, con trưởng nam, Giê-úc thứ nhì,
và thứ ba là Ê-li-phê-lết.
40. Con trai của U-lam đều là anh hùng, mạnh dạn, có tài bắn giỏi; chúng có con
và cháu rất đông, số là một trăm năm mươi người. hết thảy người nầy đều là con
cháu của Bên-gia-min.
1 Sử-Ký 9
chọn đoạn khác
1. Ấy vậy, cả dân Y-sơ-ra-ên được biên vào sổ theo các gia phổ; kìa đã ghi chép
vào sách ký lược của các vua Y-sơ-ra-ên. Dân Giu-đa, tại tội lỗi họ, bị bắt đem
qua nước Ba-by-lôn.
2. Sau khi từ Ba-by-lôn trở về, các người ở đầu tiên trong địa nghiệp và trong
các thành ấp của chúng, là người Y-sơ-ra-ên, thầy tế lễ, người Lê-vi, và người
Nê-thi-nim.
3. Ở tại thành Giê-ru-sa-lem, có người Giu-đa, người Bên-gia-min, người
Ép-ra-im, và người Mê-na-se.
4. Về dòng Phê-lết, là con của Giu-đa, có U-thai, con trai của A-mi-hút,
A-mi-hút con trai của Ôm-ri, Ôm-ri con trai của Im-ri, và Im-ri con trai của
Ba-ni.
5. Bởi người Si-lô-ni có A-sai-gia con trưởng nam, và các con trai của người.
6. Bởi con cái Xê-rách, có Giê-u-ên và anh em người, là sáu trăm chín mươi
người.
7. Về dòng Bên-gia-min, có Sa-lu, con trai của Mê-su-lam; Mê-su-lam, con trai
của Hô-đa-via; Hô-đa-via, con trai của A-sê-nu-a;
8. lại có Gíp-nê-gia, con trai của Giê-rô-ham, Ê-la con trai của U-xi; U-xi là
con trai của Mi-cơ-ri và Mê-su-lam, con trai của Sê-pha-tia; Sê-pha-tia là con
trai của Rê-u-ên; Rê-u-ên con trai của Gíp-nê-gia,
9. và anh em chúng kể theo thế hệ thì được chín trăm năm mươi sáu người. Những
người ấy đều làm trưởng tộc.
10. Trong những thầy tế lễ có Giê-đai-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin,
11. và A-xa-ria, con trai của Hinh-kia; Hinh-kia con trai của Mê-su-lam;
Mê-su-lam con trai của Xa-đốc; Xa-đốc con trai của Mê-ra-giốt; Mê-ra-giốt, con
trai của A-hi-túp, là kẻ cai quản đền của Ðức Chúa Trời;
12. lại có A-đa-gia, con trai của Giê-rô-ham; Giê-rô-ham, con trai của Pha-sua;
Pha-sua, con trai của Manh-ki-gia; Manh-ki-gia, con trai của Ma-ê-sai; Ma-ê-sai,
con trai của A-đi-ên; A-đi-ên, con trai của Gia-xê-ra; Gia-xê-ra, con trai của
Mê-su-lam; Mê-su-lam, con trai của Mê-si-lê-mít; Mê-si-lê-mít, con trai của
Y-mê;
13. và anh em của chúng, số là một ngàn bảy trăm sáu mươi người, đều làm trưởng
tộc, có tài hầu việc trong đền của Ðức Chúa Trời.
14. Trong người Lê-vi có Sê-ma-gia, con trai của Ha-súp, cháu của A-ri-kham,
chắt của Ha-sa-bia; thảy đều thuộc về dòng Mê-ra-ri;
15. lại có Bác-ba-cát, Hê-re, Ga-la, Ma-tha-nia, đều là con trai của Mi-ca, cháu
của Xiếc-ri, chắt của A-sáp;
16. Ô-ba-đia, con trai của Sê-ma-gia, cháu của Ga-la, chắt của Giê-đu-thum;
Bê-rê-kia, con trai của A-sa, cháu của Ên-ca-na, là người ở trong làng dân
Nê-tô-pha-tít.
17. Những kẻ canh cửa, là Sa-lum, A-cúp, Tanh-môn, A-hi-man, và anh em của
chúng; Sa-lum làm đầu.
18. Cho đến bây giờ họ canh cửa đông của vua; còn xưa tổ tiên họ đều giữ cửa
trại người Lê-vi.
19. Sa-lum con trai Cô-rê, cháu của Ê-bi-a-sáp, chắt của Cô-ra, và anh em tông
tộc mình; ấy là dân Cô-rê lo coi sóc sự phục dịch, và canh giữ các cửa đền tạm;
xưa tổ phụ chúng cai quản trại của Ðức Giê-hô-va, và giữ cửa tại.
20. Xưa Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa, làm quan cai chúng, và Ðức Giê-hô-va ở với
người.
21. Xa-cha-ri, con trai Mê-sê-lê-mia, là kẻ giữ cửa hội mạc.
22. Những kẻ nầy đã được lựa chọn hầu canh giữ các cửa, số được hai trăm mười
hai người. Người ta chép gia phổ họ theo các hương họ; vua Ða-vít và Sa-mu-ên,
là đấng tiên kiến, đã lập mấy người ấy trong chức của họ.
23. Ấy vậy, chúng và con cháu của chúng, đều theo ban thứ, mà coi giữ các cửa
đền của Ðức Giê-hô-va, tức là đền tạm.
24. Các kẻ giữ cửa đặt ở bốn phía đền về đông, tây, nam, và bắc.
25. Các anh em chúng ở trong các làng mình phải đến từng tuần, theo phiên thứ,
mà giúp đỡ.
26. Còn bốn người Lê-vi làm trưởng những người canh cửa, hằng giữ chức mình, và
coi sóc các phòng và khung thành trong đền của Ðức Chúa Trời.
27. Ban đêm chúng ở xung quanh đền của Ðức Chúa Trời canh giữ nó; đến mỗi buổi
sáng sớm chúng lại lo mở cửa ra.
28. Trong bọn chúng cũng có mấy người được chức giữ đồ khí dụng, vì các đồ ấy
đem ra đem vô y theo số.
29. Lại có kẻ khác được cắt coi sóc đồ đạc và các khí dụng tại nơi thánh, cùng
lo giữ bột miến, rượu, dầu, nhũ hương, và các thuốc thơm.
30. Có mấy kẻ trong bọn con trai những thầy tế lễ chế các thứ hương hoa.
31. Còn Ma-ti-thia, người Lê-vi, con trưởng nam của Sa-lum, thuộc về dòng Cô-rê,
coi sóc việc làm bánh rán trong chảo.
32. Mấy kẻ trong vòng anh em chúng về dòng Kê-hát, được chức coi về việc làm
bánh trần thiết, hễ đến ngày sa-bát thì phải sắm cho sẵn.
33. Ðây là những người có chức hát xướng, đều làm trưởng tộc trong người Lê-vi,
vẫn ở trong các phòng của đền, và vì phục sự ngày và đêm, nên được miễn các công
việc khác.
34. Những người ấy đều làm trưởng tộc của người Lê-vi, theo dòng dõi họ, và ở
tại thành Giê-ru-sa-lem.
35. Giê-i-ên, tổ phụ của Ga-ba-ôn, ở tại thành Ga-ba-ôn; tên vợ người là
Ma-a-ca.
36. Con trưởng nam của người là Áp-đôn; lại sanh Xu-rơ, Kích, Banh, Nê-rơ,
Na-đáp,
37. Ghê-đô, A-hi-ô, Xa-cha-ri, và Mích-lô.
38. Mích-lô sanh Si-mê-am. Chúng cũng đồng ở cùng anh em mình trong thành
Giê-ru-sa-lem đối mặt nhau.
39. Nê-rơ sanh Kích; Kích sanh Sau-lơ; Sau-lơ sanh Giô-na-than, Manh-ki-sua,
A-bi-na-đáp, và Ếch-ba-anh.
40. Con trai Giô-na-than là Mê-ri-Banh; Mê-ri-Banh sanh Mi-ca.
41. Con trai của Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a, và A-cha.
42. A-cha sanh Gia-ê-ra; Gia-ê-ra sanh A-lê-mết, Ách-ma-vết và Xim-ri; Xim-ri
sanh Một-sa;
43. Một-sa sanh Bi-nê-a, con trai Bi-nê-a là Rê-pha-gia; Rê-pha-gia sanh
Ê-lê-a-sa, và Ê-lê-a-sa sanh A-xên.
44. A-xên có sáu người con trai, tên là A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria,
Ô-ba-đia, và Ha-nan; ấy đều là con trai của A-xên.
1 Sử-Ký 10
chọn đoạn khác
1. Vả, dân Phi-li-tin tranh chiến với Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên chạy trốn khỏi
trước mặt dân Phi-li-tin, có nhiều người bị thương chết trên núi Ghinh-bô-a.
2. Dân Phi-li-tin đuổi theo kịp Sau-lơ và các con trai người, đánh giết các con
trai ấy, là Giô-na-than, A-bi-na-đáp, và Manh-ki-sua.
3. Cơn giặc rất kịch liệt, làm cho Sau-lơ thiệt cực khổ; khi lính cầm cung kịp
đến người bèn bắn người bị thương.
4. Sau-lơ bảo kẻ vác binh khí hầu mình rằng: Ngươi hãy tuốt gươm của ngươi và
đâm giết ta, kẻo kẻ chẳng chịu cắt bì kia đến sản nghiệp ta. Song kẻ vác binh
khí người không khứng vâng mạng, vì lấy làm sợ hãi. Sau-lơ bèn cầm lấy gươm mình
cúi thúc vào ngực.
5. Khi kẻ vác binh khí thấy Sau-lơ chết rồi, thì cũng lấy gươm cúi thúc vào ngực
mình luôn.
6. Vậy, Sau-lơ, ba con trai người, và cả nhà người đều đồng nhau chết.
7. Khi dân Y-sơ-ra-ên ở trong đồng bằng thấy đạo binh chạy trốn, Sau-lơ cùng các
con trai người đã chết rồi, thì bỏ thành mình mà trốn đi; dân Phi-li-tin đến ở
trong các thành ấy.
8. Ngày hôm sau, dân Phi-li-tin đến bóc lột những kẻ tử trận, thấy Sau-lơ và các
con trai người ngã chết trên núi Ghinh-bô-a.
9. Chúng bóc lột thây Sau-lơ, chém đầu người, cất lấy binh khí người, rồi sai kẻ
đi khắp xứ Phi-li-tin, để báo tin cho các thần tượng và dân sự.
10. Chúng để binh khí của người tại trong miễu các thần của chúng nó, còn đầu
người thì đóng đinh treo trong chùa Ða-gôn.
11. Khi dân cư Gia-be ở Ga-la-át nghe những điều dân Phi-li-tin đã làm cho
Sau-lơ,
12. thì những người mạnh dạn đều cảm động đi lên cướp lấy xác vua Sau-lơ và xác
các con trai người, đem về Gia-be, chôn hài cốt của họ dưới cây thông tại
Gia-be, đoạn kiêng ăn bảy ngày.
13. Ấy vậy, vua Sau-lơ chết, vì tội lỗi mình đã phạm cùng Ðức Giê-hô-va, và vì
chẳng có vâng theo mạng lịnh của Ngài; lại vì đã cầu hỏi bà bóng,
14. chẳng có cầu hỏi Ðức Giê-hô-va; vậy, vì cớ ấy Ngài giết người, dời nước
người cho về Ða-vít, con trai Y-sai.
1 Sử-Ký 11
chọn đoạn khác
1. Lúc ấy, cả Y-sơ-ra-ên đều nhóm đến cùng Ða-vít tại Hếp-rôn, mà nói rằng: Kìa,
chúng tôi vốn là xương thịt của ông.
2. Khi trước dầu Sau-lơ còn cai trị chúng tôi, thì ông đã dẫn dân Y-sơ-ra-ên vào
ra; và Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của ông có phán cùng ông rằng: Ngươi sẽ chăn nuôi
dân ta là Y-sơ-ra-ên, làm quan tướng chúng nó.
3. Ấy vậy, các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến cùng vua ở Hếp-rôn; Ða-vít bèn lập giao
ước với chúng tại Hếp-rôn trước mặt Ðức Giê-hô-va; đoạn, chúng xức dầu cho
Ða-vít làm vua trên Y-sơ-ra-ên, y như lời của Ðức Giê-hô-va đã cậy Sa-mu-ên phán
ra vậy.
4. Ða-vít và cả dân Y-sơ-ra-ên đi lên thành Giê-ru-sa-lem, ấy là Giê-bu; ở đó có
người Giê-bu-sít, là dân của xứ.
5. Dân cư Giê-bu nói cùng Ða-vít rằng: Ngươi sẽ chẳng hề vào đây. Dầu vậy,
Ða-vít chiếm lấy đồn lũy Si-ôn, lấy là thành Ða-vít.
6. Ða-vít nói rằng: Hễ ai hãm đánh dân Giê-bu-sít trước hết, ắt sẽ được làm
trưởng và làm tướng. Vậy, Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đi lên đánh trước hết, nên
được làm quan trưởng.
7. Ða-vít ở trong đồn; vậy nên gọi là thành Ða-vít.
8. Người xây tường thành bốn phía, từ Mi-lô cho đến khắp chung quanh; còn phần
thành dư lại thì Giô-áp sửa sang.
9. Ða-vít càng ngày càng cường thạnh; vì Ðức Giê-hô-va vạn quân ở cùng người.
10. Ðây là những kẻ làm tướng các lính mạnh dạn của Ða-vít, và đã phụ giúp người
được ngôi nước, cùng với cả Y-sơ-ra-ên, lập người lên làm vua, y như lời Ðức
Giê-hô-va đã phán về Y-sơ-ra-ên.
11. Nầy là số các lính mạnh dạn của Ða-vít: Gia-sô-bê-am, con trai của
Hác-mô-ni, làm đầu các tướng; ấy là người dùng giáo mình mà giết ba trăm người
trong một lượt.
12. Sau người có Ê-lê-a-sa, con trai của Ðô-đô, ở A-hô-a, là một người trong ba
người mạnh dạn.
13. Người nầy ở cùng Ða-vít nơi Pha-đa-mim, khi quân Phi-li-tin nhóm lại đặng
giao chiến. Ở đó có một đám ruộng mạch nha, và dân sự đều chạy trốn khỏi mặt dân
Phi-li-tin.
14. Còn họ đều đứng trong ruộng binh vực nó, và đánh hơn dân Phi-li-tin, và Ðức
Giê-hô-va khiến cho họ đặng sự thắng trận rất lớn.
15. Trong bọn ba mươi người làm tướng, có ba người đi xuống hang đá A-đu-lam,
đến cùng Ða-vít. Còn đội quân Phi-li-tin đóng trại trong trũng Rê-pha-im.
16. Lúc ấy Ða-vít ở trong đồn, và có phòng binh của dân Phi-li-tin ở Bết-lê-hem.
17. Ða-vít ước ao rằng: Than ôi! chớ gì ai ban cho ta nước uống của giếng bên
cửa thành Bết-lê-hem!
18. Vậy, ba người nầy xông ngang qua trại Phi-li-tin múc nước trong giếng bên
cửa thành Bết-lê-hem, đem về cho Ða-vít uống; song người chẳng chịu uống, bèn
rảy nước ấy ra trước mặt Ðức Giê-hô-va,
19. mà nói rằng: Cầu Chúa giữ lấy tôi, đừng để tôi làm sự nầy; tôi hẳn không
uống huyết của ba người nầy, đã liều thân mình đặng đem nước đến. Vì cớ ấy nên
người không chịu uống. Ấy là công việc của ba người mạnh dạn đó đã làm.
20. Lại có A-bi-sai, em của Giô-áp, làm đầu trong ba người mạnh dạn; người dùng
giáo mình giết ba trăm người, nên nổi danh tiếng trong ba người ấy.
21. Trong ba người mạnh dạn ấy, người sang trọng hơn, được làm trưởng của họ,
song chẳng bằng ba người trước.
22. Lại có Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa ở Cáp-xê-ên, là một người mạnh dạn
đã làm nhiều công việc cả thể; người đã giết hai người Mô-áp mạnh bạo hơn hết;
trong kỳ sa tuyết, người xuống một cái hố giết một con sư tử.
23. Ngài cũng đánh giết một người Ê-díp-tô cao năm thước; người Ê-díp-tô cầm nơi
tay cây giáo lớn bằng trục máy dệt, còn Bê-na-gia xuống đón người, cầm một cây
gậy, rút lấy giáo khỏi tay người Ê-díp-tô, dùng giáo nó mà giết nó.
24. Ấy là công việc Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, đã làm, được nổi danh
tiếng trong ba người mạnh dạn.
25. Trong ba mươi người mạnh dạn, người được sang trọng hơn hết, song chẳng bằng
ba người trước. Ða-vít nhận người vào bàn mật nghị mình.
26. Lại có các người mạnh dạn trong đội binh, là: A-sa-ên, em của Giô-áp;
Ên-ca-nan, con trai của Ðô-đô ở Bết-lê-hem;
27. Sa-mốt, người Ha-rôn; Hê-lết, người Pha-ôn;
28. Y-ra, con trai của Y-kết ở Thê-kô-a; A-bi-ê-xe ở A-na-tốt;
29. Si-bê-cai ở Hu-sa; Y-lai ở A-hô-a;
30. Ma-ha-rai ở Nê-tô-pha; Hê-lết, con trai của Ba-a-na ở Nê-tô-pha;
31. Y-tai, con trai Ri-bai ở Ghi-bê-a, thành của con cái Bên-gia-min; Bê-na-gia
ở Phi-ra-thôn;
32. Hu-rai ở Na-ha-lê-Ga-ách; A-bi-ên ở A-ra-ba;
33. Ách-ma-vết ở Ba-hu-rim; Ê-li-ác-ba ở Sa-anh-bôn;
34. Bê-nê-ha-sem ở Ghi-xôn; Giô-na-than, con trai Sa-ghê ở Ha-ra;
35. A-hi-giam, con trai Sa-ca ở Ha-ra; Ê-li-pha, con trai U-rơ;
36. Hê-phe ở Mê-kê-ra; A-hi-gia ở Pha-lôn;
37. Hết-rô ở Cạt-mên; Na-a-rai, con trai E-bai;
38. Giô-ên em của Na-than,; Mi-bê-ha, con trai của Ha-gơ-ri; Xê-léc là người
Am-môn;
39. Na-ha-rai ở Bê-ê-rốt, là kẻ vác binh khí của Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia;
40. Y-ra ở Giê-the; Ga-rép cũng ở Giê-the;
41. U-ri người Hê-tít; Xa-bát, con trai Ạc-lai;
42. A-đi-na, con trai của Si-xa, người Ru-bên, làm trưởng dòng Ru-bên, và có ba
mươi binh chiến ở với người;
43. Ha-nan, con trai của Ma-a-ca; Giô-sa-phát ở Mê-then;
44. U-xia ở Ách-ta-rốt; Sa-ma và Giê-hi-ên, con trai của Hô-tam ở A-rô-e;
45. Giê-đi-a-ên, con trai của Sim-ri; Giô-ha, anh em người dân Thi-sít;
46. Ê-li-en ở Ma-ha-vim; Giê-ri-bai và Giô-sa-via, con trai của Ên-na-am; Gít-ma
là người Mô-áp;
47. Ê-li-ên, Ô-bết, và Gia-a-si-ên, là người Mết-sô-ba.
1 Sử-Ký 12
chọn đoạn khác
1. Trong khi Ða-vít tránh khỏi mặt Sau-lơ, con trai của Kích, thì có mấy người
mạnh dạn đến cùng người, tại Xiếc-lạc giúp đỡ người trong cơn giặc.
2. Chúng đều có tài giương cung, giỏi dùng dây gióng liệng đá, cầm cung bắn tên,
hoặc bằng tay hữu hay là bằng tay tả; cả đều thuộc về dòng Sau-lơ, về chi phái
Bên-gia-min. Nầy là tên họ:
3. A-hi-ê-xe làm đầu, và Giô-ách, con trai của Sê-ma ở Ghi-bê-a, Giê-xi-ên và
Phê-lết, con trai của Ách-ma-vết; Bê-ca-ra, Giê-hu ở A-na-tốt;
4. Gít-mai-gia ở Ga-ba-ôn, là kẻ mạnh dạn trong ba mươi người kia, và làm đầu
họ; lại có Giê-rê-mi; Gia-ha-xi-ên; Giô-ha-nan; Giô-xa-bát ở Ghê-đê-ra;
5. Ê-lu-xai; Giê-ri-mốt; Bê-a-lia; Sê-ma-ri-a; Sê-pha-ti-a ở Ha-rốp;
6. Ên-ca-na, Di-si-gia, A-xa-rên, Giô-ê-xe, và Gia-sô-bê-am, người Cô-rê;
7. Giô-ê-la và Xê-ba-đia, con trai của Giê-rô-ham ở Ghê-đô.
8. Trong chi phái Gát, có những người tới cùng Ða-vít tại nơi đồn trong đồng
vắng, vốn là kẻ mạnh mẽ, có tài chiến trận, cầm khiên, cầm giáo, diện mạo như sư
tử, lanh lẹ như hoàng dương trên núi.
9. Ê-xe làm đầu; Ô-ba-đia thứ nhì, Ê-li-áp thứ bảy,
10. Mích-ma-nan thứ tư, Giê-rê-mi thứ năm,
11. Ạt-tai thứ sáu, Ê-li-ên thứ bảy,
12. Giô-ha-nan thứ tám, Ên-xa-bát thứ chín,
13. Giê-rê-mi thứ mười, Mác-ba-nai thứ mười một,
14. chúng đều là con cháu của Gát, và làm quan cai cơ binh; kẻ nhỏ cai một trăm
người, kẻ lớn cai một ngàn người.
15. Ấy là những kẻ đi qua sông Giô-đanh trong tháng giêng, lúc nước ngập hai bên
bờ, đuổi các dân sự ở tại trũng hoặc về phía đông hay về phía tây.
16. Lại có người thuộc về Bên-gia-min và Giu-đa cũng đi tới cùng Ða-vít trong
đồn người.
17. Ða-vít ra đón rước chúng, mà nói rằng: Nếu các ngươi đến cùng ta cách hòa
bình để hùa giúp ta, thì lòng ta sẽ hiệp cùng các ngươi; ví bằng các ngươi thầm
mưu lừa ta cho kẻ thù nghịch, nguyện Ðức Chúa Trời của tổ phụ ta xem xét và đoán
phạt; vì tay ta không có phạm điều lỗi nào.
18. Khi ấy có A-ma-sai làm đầu trong ba mươi người ấy, được Thánh Linh cảm động,
mà nói rằng: Hỡi Ða-vít, chúng tôi đều về ông! Hỡi con trai Y-sai, chúng tôi
binh vị ông! Nguyện ông được bình yên, bình yên; nguyện kẻ giúp đỡ ông cũng được
bình yên; bởi vì Ðức Chúa Trời ông phò trợ ông! Ða-vít bèn nhận tiếp các ngươi
ấy, đặt làm tướng.
19. Cũng có mấy người thuộc về Mê-na-se đến theo Ða-vít khi người cùng quân
Phi-li-tin đi giao chiến cùng Sau-lơ; song họ chẳng giúp đỡ quân Phi-li-tin, vì
các quan trưởng Phi-li-tin bàn luận nhau rằng: Sợ e nó trở về cùng Sau-lơ, chủ
nó, làm nguy cho đầu chúng ta chăng.
20. Khi người trở về Xiếc-lạc, có mấy người bởi Mê-na-se đến theo người, là
Át-na, Giô-xa-bát, Ê-li-hu, và Xi-lê-thai, đều làm quan-cai ngàn quân trong chi
phái Mê-na-se.
21. Những kẻ nầy phụ giúp Ða-vít đối địch với quân giặc cướp, bởi vì chúng đều
là người mạnh dạn, và làm quan tướng đội binh.
22. Hằng ngày có người đến cùng Ða-vít đặng giúp đỡ người, cho đến khi thành đội
quân lớn, như đội quân của Ðức Chúa Trời.
23. Ðây là số các quân lính đến cùng Ða-vít tại Hếp-rôn, đặng làm cho nước
Sau-lơ thuộc về người, theo như lời của Ðức Giê-hô-va.
24. Trong con cháu Giu-đa có sáu ngàn tám trăm người đều cầm khiên, cầm giáo,
sắm sửa tranh chiến.
25. Bởi con cháu Si-mê-ôn, có bảy ngàn một trăm người mạnh dạn đều ra trận được.
26. Bởi con cháu Lê-vi, có bốn ngàn sáu trăm.
27. Giê-hô-gia-đa cai quản nhà A-rôn, và với người có ba ngàn bảy trăm người.
28. Lại có Xa-đốc, là kẻ trai trẻ mạnh dạn, và với người có hai mươi hai trưởng
của nhà cha người.
29. Về con cháu Bên-gia-min, anh em của Sau-lơ, được ba ngàn người; vì đến bấy
giờ, phần lớn hơn chúng nó còn đương theo nhà Sau-lơ.
30. Về con cháu Ép-ra-im, có được hai vạn tám trăm người, đều là người mạnh dạn,
có danh tiếng trong nhà cha mình.
31. Về nửa chi phái Mê-na-se, có một vạn tám ngàn người, ai nấy đều kể từng tên,
đến đặng lập Ða-vít làm vua.
32. Về con cháu Y-sa-ca, có những kẻ hiểu biết thì giờ, và việc dân Y-sơ-ra-ên
nên làm; chúng nó hai trăm trưởng tộc; còn những người anh em chúng cũng vâng
lịnh chúng bàn.
33. Về Sa-bu-lôn, có năm vạn người hay bày trận, cầm các thứ binh khí dự bị đặng
giao chiến, hàng ngũ chỉnh tề, có một lòng một dạ.
34. Về Nép-ta-li, có một ngàn quan cai, với ba vạn bảy ngàn người cầm khiên cầm
giáo theo mình.
35. Về Ðan, có hai vạn tám ngàn sau trăm người có tài dàn trận.
36. Về A-se, có bốn vạn người hay kéo ra chinh chiến, và có tài dàn trận.
37. Còn về Ru-bên, Gát, và về nửa chi phái Mê-na-se ở bên kia sông Giô-đanh, có
mười hai vạn người cầm các thứ binh khí sẵn ra trận.
38. Những người nầy là lính chiến có tài bày trận, đều lấy lòng thành mà kéo đến
Hếp-rôn đặng lập Ða-vít làm vua trên cả Y-sơ-ra-ên; còn những người khác trong
Y-sơ-ra-ên cũng đều một lòng một dạ muốn tôn Ða-vít làm vua.
39. Chúng ở lại với vua Ða-vít ba ngày và ăn uống; vì anh em của chúng đã sắm
sẵn cho.
40. Còn những người ở miền lân cận hơn cho đến đất Y-sa-ca, Sa-bu-lôn, và
Nép-ta-li đều đem chở bằng lửa, lạc đà, con la, và con bò, nào bánh mì, bột
miến, trái vả, nho khô, rượu, dầu, cùng dẫn bò và chiên đến rất nhiều, bởi vì có
sự vui vẻ nơi Y-sơ-ra-ên.
1 Sử-Ký 13
chọn đoạn khác
1. Ða-vít hội nghị với quan tướng ngàn quân, quan tướng trăm quân, cùng các quan
trưởng của dân.
2. Ða-vít nói với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng: Nếu các ngươi lấy đều nầy làm
tốt lành, và nếu sự nầy do nơi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng ta mà đến, thì ta
hãy sai người đi khắp mọi nơi, đến cùng anh em chúng ta còn lại ở khắp xứ
Y-sơ-ra-ên, và đến cùng những thầy tế lễ và người Lê-vi ở trong các thành địa
hạt chúng, để nhóm chúng lại cùng ta;
3. rồi chúng ta phải thỉnh hòm của Ðức Chúa Trời về cùng chúng ta; vì trong đời
Sau-lơ, chúng ta không có đến trước hòm giao ước mà cầu vấn Ðức Chúa Trời.
4. Cả hội chúng đều nói rằng nên làm như vậy; vì cả dân sự lấy lời ấy làm tốt
lành.
5. Ða-vít bèn nhóm cả Y-sơ-ra-ên, từ Si-ho, khe Ê-díp-tô, cho đến nơi nào
Ha-mát, để rước hòm của Ðức Chúa Trời từ Ki-ri-át-Giê-a-rim về.
6. Ða-vít và cả Y-sơ-ra-ên đồng đi lên Ba-a-la, tại Ki-ri-át-Giê-a-rim, thuộc về
Giu-đa, đặng rước hòm của Ðức Chúa Trời lên, tức là Ðức Giê-hô-va ngự giữa
Chê-ru-bin, là nơi cầu khẩn danh của Ngài.
7. Chúng rước hòm giao ước của Ðức Chúa Trời từ nhà A-bi-na-đáp, để lên trên một
cái cộ mới; còn U-xa và A-hi-ô thì dắt cộ.
8. Ða-vít và cả Y-sơ-ra-ên đều hết sức vui chơi trước mặt Ðức Chúa Trời, xướng
ca, dùng đờn cầm, đờn sắt, trống nhỏ, chập chỏa, và kèn mà vui mừng.
9. Khi chúng đến sân đạp lúa của Ki-đôn, U-xa bèn giơ tay ra nắm lấy hòm, bởi vì
bò trợt bước.
10. cơn thịnh nộ của Ðức Giê-hô-va nổi lên cùng U-xa, và Ngài đánh người, bởi vì
người có giơ tay ra trên hòm; người bèn chết tại đó trước mặt Ðức Chúa Trời.
11. Ða-vít chẳng vừa ý, vì Ðức Giê-hô-va đã hành hạ U-xa; người gọi nơi ấy là
Bê-rết-U-xa, hãy còn gọi vậy cho đến ngày nay.
12. Trong ngày ấy, Ða-vít lấy làm sợ hãi Ðức Chúa Trời, mà nói rằng: Ta rước hòm
của Ðức Chúa Trời vào nhà ta sao được?
13. Vậy, Ða-vít không thỉnh hòm về nhà mình tại trong thành Ða-vít, nhưng bởi
đem để vào nhà Ô-bết-Ê-đôm, là người Gát.
14. Hòm của Ðức Chúa Trời ở ba tháng trong nhà Ô-bết-Ê-đôm; Ðức Giê-hô-va ban
phước cho nhà Ô-bết-Ê-đôm và mọi vật thuộc về người.
1 Sử-Ký 14
chọn đoạn khác
1. Hi-ram, vua Ty-rơ, sai sứ giả đến Ða-vít, cùng gởi gỗ bá hương, thợ hồ, thợ
mộc, đặng cất cho người một cái cung.
2. Ða-vít nhìn biết rằng Ðức Giê-hô-va đã vững lập mình làm vua trên Y-sơ-ra-ên;
vì cớ dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, nước người được hưng vượng thêm.
3. Tại Giê-ru-sa-lem, Ða-vít lại còn lấy vợ khác, và sanh những con trai con
gái.
4. Nầy là tên các con cái người sanh tại Giê-ru-sa-lem: Sa-mua, Sô-háp, Na-than,
Sa-lô-môn,
5. Gi-ba, Ê-li-sua, Ên-bê-lết,
6. Nô-ga, Nê-phết, Gia-phia,
7. Ê-li-sa-ma, Bê-ên-gia-đa, và Ê-li-phê-lết.
8. Khi dân Phi-li-tin hay rằng Ða-vít đã được xức dầu làm vua trên cả
Y-sơ-ra-ên, thì hết thảy người Phi-li-tin đều đi lên đặng tìm người; Ða-vít hay
đều đó, bèn đi ra đón chúng nó.
9. Vả dân Phi-li-tin đã loán đến, tràn ra trong trũng Rê-pha-im.
10. Ða-vít cầu vấn Ðức Chúa Trời rằng: Tôi phải đi lên đánh dân Phi-li-tin
chăng? Chúa sẽ phó chúng nó vào tay tôi chăng? Ðức Giê-hô-va đáp lời cùng người
rằng: Hãy đi lên, ta sẽ phó chúng nó vào tay ngươi.
11. Ngài Phi-li-tin kéo lên Ba-anh-Phê-rát-sim, rồi tại đó Ða-vít đánh chúng nó;
đoạn, Ða-vít nói rằng: Ðức Chúa Trời có dùng tay ta đã đánh phá cơn thịnh nộ ta,
như nước phá vỡ vậy; bởi cớ ấy người ta gọi chỗ đó là Ba-anh-Phê-rát-sim.
12. Người Phi-li-tin bỏ các thần tượng mình tại đó; Ða-vít truyền thiêu nó trong
lửa.
13. Người Phi-li-tin lại bủa khắp trong trũng.
14. Ða-vít cầu vấn Ðức Chúa Trời nữa; Ðức Chúa Trời đáp với người rằng: Ngươi
chớ đi lên theo chúng nó; hãy đi vòng chúng nó, rồi đến hãm đánh chúng nó tại
nơi đối ngang cây dâu.
15. Vừa khi ngươi nghe tiếng bước đi trên ngọn cây dâu, bấy giờ ngươi sẽ kéo ra
trận; vì Ðức Chúa Trời ra trước ngươi đặng hãm đánh đạo quân Phi-li-tin.
16. Ða-vít làm y như lời Ðức Chúa Trời đã phán dặn; họ đánh đuổi đạo quân
Phi-li-tin từ Ga-ba-ôn cho đến Ghê-xe.
17. Danh của Ða-vít đồn ra trong khắp các nước; Ðức Giê-hô-va khiến cho các dân
tộc đều kính sợ Ða-vít.
1 Sử-Ký 15
chọn đoạn khác
1. Ða-vít cất cho mình những cung điện tại thành Ða-vít, và sắm sửa một nơi cho
hòm của Ðức Chúa Trời, cùng dựng nhà trại cho hòm ấy.
2. Khi ấy Ða-vít bèn nói rằng: Ngoại trừ người Lê-vi, chẳng ai xứng đáng khiêng
hòm của Ðức Chúa Trời, và hầu việc Ngài luôn luôn.
3. Ða-vít bèn nhóm cả Y-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem, đặng thỉnh hòm của Ðức Chúa
Trời về nơi người đã sắm sửa cho hòm.
4. Ða-vít cũng hội lại các con cháu A-rôn và người Lê-vi:
5. về dòng Kê-hát có U-ri-ên, là trưởng tộc, cùng các anh em người, được hai
trăm hai mươi người;
6. về dòng Mê-ra-ri có A-sa-gia, là trưởng tộc, cùng các anh em người, được hai
trăm hai mươi người;
7. về dòng Ghẹt-sôn có Giô-ên, là trưởng tộc, cùng các anh em người, được một
trăm ba mươi người;
8. về dòng Ê-li-sa-phan có Sê-ma-gia, là trưởng tộc, cùng các anh em người, được
hai trăm người;
9. về dòng Hếp-rôn có Ê-li-ên, là trưởng tộc, cùng các anh em người, được tám
mươi người;
10. về dòng U-xi-ên có A-mi-na-đáp, là trưởng tộc, cùng các anh em người, được
một trăm mười hai người.
11. Ða-vít gọi thầy tế lễ Xa-đốc, A-bia-tha, và những người Lê-vi, tức U-ri-ên,
A-sa-gia, Giô-ên, Sê-ma-gia, Ê-li-ên, và A-mi-na-đáp, mà bảo rằng:
12. Các ngươi là tộc trưởng của chi phái Lê-vi; vậy, hãy cùng anh em các ngươi
dọn mình cho thánh sạch, rồi khiêng hòm của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên đến nơi mà ta đã sắm sẵn cho hòm.
13. Vì tại lần trước các ngươi không theo lệ đã định mà cầu vấn Ðức Giê-hô-va;
nên Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng ta đã hành hạ chúng ta.
14. Vậy, những thầy tế lễ và người Lê-vi dọn mình cho thánh sạch đặng thỉnh hòm
của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
15. Các con cháu Lê-vi dùng đòn khiêng hòm của Ðức Chúa Trời trên vai mình, y
như Môi-se đã dạy bảo tùy lời của Ðức Giê-hô-va.
16. Ða-vít truyền cho các trưởng tộc người Lê-vi; hãy cắt trong anh em họ những
người hát xướng, cầm các thứ nhạc khí, ống quyển, đờn cầm, chập chỏa để cất
tiếng vui mừng vang rền lên.
17. Người Lê-vi bèn cắt Hê-man, con trai của Giô-ên, và A-sáp, con trai của
Bê-rê-kia thuộc trong dòng họ người; lại về dòng Mê-ra-ri, là anh em họ, thì đặt
Ê-than, con trai của Cu-sa-gia;
18. chung với các ngươi ấy lại lập những anh em dòng thứ, là Xa-cha-ri, Bên,
Gia-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ma-a-xê-gia,
Ô-bết-Ê-đôm, và Giê-i-ên, là người giữ cửa.
19. Những người hát xướng, là Hê-man, A-sáp, và Ê-than, dùng những chập chỏa
đồng, đặng vang dầy lên;
20. Xa-cha-ri, A-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Ma-a-xê-gia, và
Bê-na-gia, dùng ống quyển thổi theo điệu A-la-mốt;
21. Còn Ma-ti-thia, Ê-li-phê-lê, Mích-nê-gia, Ô-bết-Ô-đôm, Giê-i-ên, và
A-xa-xia, đều dùng đờn cầm đánh theo giọng Sê-mi-nít, đặng dẫn tiếng hát.
22. Kê-na-nia, trưởng tộc người Lê-vi, cai việc ca xướng, và dạy hát, vì người
giỏi về nghề ấy.
23. còn Bê-rê-kia và Ên-ca-na giữ cửa trước hòm giao ước.
24. Sê-ba-nia, Giô-sa-phát, Nê-tha-nê-ên, A-ma-xai, Xa-cha-ri, Bê-na-gia, và
Ê-li-ê-se, tức là những thầy tế lễ, đều thổi kèn trước hòm của Ðức Chúa Trời;
Ô-bết-Ê-đôm và Giê-hi-gia giữ cửa trước hòm giao ước.
25. Vậy, Ða-vít, các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên, và các quan tướng ngàn quân, đều
đi thỉnh hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va lên từ nhà của Ô-bết-Ê-đôm cách vui
mừng.
26. Khi Ðức Chúa Trời phù trợ người Lê-vi khiêng hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va,
thì người ta tế lễ bảy con bò đực và bảy con chiên đực.
27. Ða-vít và các người Lê-vi khiêng hòm, kẻ ca hát, và Kê-na-nia, làm đầu những
kẻ hát, đều mặc áo vải gai mịn; Ða-vít cũng mặc trên mình một cái ê-phót bằng
vải gai.
28. Như vậy cả Y-sơ-ra-ên đều thỉnh hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va lên, có tiếng
vui mừng, tiếng còi, tiếng kèn, chập chỏa, và vang dầy giọng đờn cầm đờn sắt.
29. Khi hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va đến thành Ða-vít, thì Mi-canh, con gái
của Sau-lơ, ngó ngang qua cửa sổ, thấy vua Ða-vít nhảy nhót vui chơi, thì trong
lòng khinh bỉ người.
1 Sử-Ký 16
chọn đoạn khác
1. Chúng thỉnh hòm của Ðức Chúa Trời về, để trong trại của Ða-vít đã dựng lên
cho nó; đoạn dâng những của lễ thiêu và của lễ bình an tại trước mặt Ðức Chúa
Trời.
2. Khi Ða-vít đã dâng của lễ thiêu và của lễ bình an xong, bèn nhơn danh Ðức
Giê-hô-va chúc phước cho dân sự;
3. đoạn phân phát cho hết thảy người Y-sơ-ra-ên, cả nam và nữ, mỗi người một ổ
bánh, một miếng thịt, và một cái bánh nho khô.
4. Ngươi lập mấy người Lê-vi hầu việc trước hòm của Ðức Giê-hô-va, ngợi khen,
cảm tạ, và ca tụng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên:
5. A-sáp làm chánh, Xa-cha-ri làm phó, rồi thì Giê-i-ên, Sê-mi-ra-mốt,
Giê-hi-ên, Ma-ti-thia, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ô-bết-Ê-đôm, và Giê-i-ên, đều cầm
nhạc khí, đờn cầm và đờn sắt; còn A-sáp nổi chập chỏa vang lên.
6. Bê-na-gia và thầy tế lễ Gia-ha-xi-ên đều hằng thổi kèn ở trước hòm giao ước
của Ðức Chúa Trời.
7. Trong ngày đó, Ða-vít trao nơi tay A-sáp và anh em người bài hát nầy, đặng
ngợi khen Ðức Giê-hô-va:
8. Ðáng ngợi khen Ðức Giê-hô-va cầu khẩn danh Ngài, Và đồn công việc Ngài ra
giữa các dân tộc!
9. Hãy ca hát cho Ngài, hãy ngợi khen Ngài! Suy gẫm về các công việc mầu của
Ngài.
10. Hãy lấy danh thánh Ngài làm vinh; Phàm ai tìm cầu Ðức Giê-hô-va, khá vui
lòng!
11. Phải tìm cầu Ðức Giê-hô-va và sức mạnh Ngài, Phải tìm mặt Ngài luôn luôn.
12. Hỡi dòng dõi của Y-sơ-ra-ên, là đầy tớ Ngài, Hỡi con cháu của Gia-cốp, là kẻ
Ngài chọn,
13. Hãy nhớ lại công việc mầu của Ngài đã làm, Những phép lạ Ngài, và lời xét
đoán của miệng Ngài.
14. Ngài vốn là Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của chúng ta; Sự xét đoán Ngài làm ra
khắp thế gian.
15. Khá nhớ đời đời sự giao ước Ngài, Và mạng lịnh Ngài đã định cho ngàn đời,
16. Tức giao ước, Ngài đã lập cùng Áp-ra-ham, Và lời thề Ngài đã thề cùng Y-sác;
17. Lại quyết định cho Gia-cốp làm điều lệ, Cho Y-sơ-ra-ên làm giao ước đời đời,
18. Rằng: Ta sẽ ban cho ngươi xứ Ca-na-an, Là phần cơ nghiệp ngươi.
19. Khi ấy các ngươi chỉ một số ít người, Hèn mọn, và làm khách trong xứ;
20. Trảy từ dân nầy qua dân kia, Từ nước nầy đến nước khác.
21. Ngài không cho ai hà hiếp chúng, Ngài trách phạt các vua vì cớ họ,
22. Mà rằng: Chớ đụng đến những kẻ chịu xức dầu ta, Ðừng làm hại cho các tiên
tri ta.
23. Hỡi người khắp thế gian, khá hát ngợi khen Ðức Giê-hô-va; Ngày ngày hãy tỏ
ra sự chửng cứu của Ngài!
24. Trong các nước hãy thuật sự vinh hiển của Ngài; Tại muôn dân khá kể những
công việc mầu của Ngài.
25. Vì Ðức Giê-hô-va là lớn, rất đáng ngợi khen, Ðáng kính sợ hơn các thần.
26. Vì các thần của những dân tộc vốn là hình tượng; Còn Ðức Giê-hô-va dựng nên
các từng trời.
27. Ở trước mặt Ngài có sự vinh hiển, oai nghi; Tại nơi Ngài ngự có quyền năng
và sự vui vẻ,
28. Hỡi các dòng của muôn dân, Khá tôn Ðức Giê-hô-va vinh hiển và quyền năng;
29. Khá tôn Ðức Giê-hô-va vinh hiển xét đoán danh Ngài, Ðem lễ vật đến trước mặt
Ngài; hãy mặc lấy trang sức thánh khiết mà thờ lạy Ðức Giê-hô-va.
30. Hỡi khắp thiên hạ, khá run sợ trước mặt Ngài. Thế giới cũng được vững bền,
không sao lay động.
31. Các từng trời hãy vui mừng, trái đất khá hỉ lạc; Còn trong các nước người ta
đáng nói: Ðức Giê-hô-va quản trị!
32. Biển và mọi vật ở trong phải dội tiếng lớn lên; Ðồng nội và vạn vật trong nó
đều khá vui vẻ!
33. Bấy giờ các cây cối trong rừng sẽ hát mừng rỡ trước mặt Ðức Giê-hô-va; Vì
Ngài đến đặng xét đoán thế gian.
34. Hãy cảm tạ Ðức Giê-hô-va, vì Ngài là nhân từ; Sự thương xót Ngài còn đến đời
đời.
35. Hãy nói: Hỡi Ðức Chúa Trời, Ðấng chửng cứu chúng tôi! xin hãy cứu rỗi chúng
tôi, Hiệp chúng tôi lại, và giải thoát khỏi các nước, Ðể chúng tôi cảm tạ danh
thánh Chúa, Và nhờ sự ngợi khen Chúa mà lấy làm được vinh.
36. Ðáng ngợi khen Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Từ đời đời cho đến
đời đời! Cả dân sự đều đáp rằng: A-men! và ngợi khen Ðức Giê-hô-va.
37. Vậy, Ða-vít đặt A-sáp và anh em người tại đó, trước hòm giao ước của Ðức
Giê-hô-va, hầu cho mỗi ngày phục sự luôn luôn ở trước hòm, làm việc ngày nào
theo ngày nấy.
38. Cũng đặt Ô-bết-Ê-đôm và anh em người làm kẻ giữ cửa, số được sáu mươi tám
người, và Ô-bết-Ê-đôm, con trai của Giê-đu-thun, cùng Hô-sa;
39. lại đặt thầy tế lễ cả Xa-đốc và anh em người, là những thầy tế lễ ở trước
đền tạm của Ðức Giê-hô-va, tại nơi cao trong Ga-ba-ôn,
40. đặng của lễ thiêu cho Ðức Giê-hô-va, tại trên bàn thờ của lễ thiêu, tùy theo
các điều chép trong luật pháp của Ðức Giê-hô-va, mà Ngài đã truyền dạy cho
Y-sơ-ra-ên;
41. với chúng có đặt Hê-nam, Giê-đu-thun, và những người đã được chọn khác, gọi
từng danh, đặng ngợi khen Ðức Giê-hô-va, vì sự thương xót Ngài còn đến đời đời;
42. còn Hê-man và Giê-đu-thun cầm những kèn và chập chỏa để làm nó vang dầy lên,
cùng các nhạc khí dùng về bài ca hát của Ðức Chúa Trời; các con trai của
Giê-đu-thun thì đứng tại nơi cửa.
43. Cả dân sự đều đi, mỗi người trở về nhà mình; còn Ða-vít trở về đặng chúc
phước cho nhà người.
1 Sử-Ký 17
chọn đoạn khác
1. Khi Ða-vít ở trong nhà mình, bèn nói với tiên tri Na-than rằng: Nầy ta ở
trong nhà bằng gỗ bá hương, còn hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va ở dưới những bức
màn.
2. Na-than tâu với Ða-vít rằng: Hãy làm theo điều ở trong lòng vua, vì Ðức Chúa
Trời ở cùng vua.
3. Xảy trong đêm đó, có lời của Ðức Chúa Trời phán cùng Na-than rằng:
4. Hãy đi nói cùng Ða-vít, tôi tớ ta rằng: Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi chớ
cất đền cho ta ở;
5. vì từ khi ta dẫn Y-sơ-ra-ên lên khỏi Ê-díp-tô cho đến ngày nay, ta không ở
trong đền nào hết; nhưng ta ở từ trại nầy đến trại kia, từ nhà tạm nầy đến nhà
tạm nọ.
6. Phàm nơi nào ta đồng đi về cả Y-sơ-ra-ên, ta há có phán bảo một người nào
trong các quan xét Y-sơ-ra-ên, tức người mà ta truyền bảo chăn dân ta, mà rằng:
Sao các ngươi không cất cho ta một cái đền bằng gỗ bá hương?
7. Bây giờ, ngươi hãy nói cùng Ða-vít tôi tớ ta như về: Ðức Giê-hô-va của vạn
quân phán như vầy: Ta đã lấy ngươi từ chuồng chiên, từ sau những con chiên, đặng
lập ngươi làm vua chúa trên dân Y-sơ-ra-ên ta;
8. phàm nơi nào ngươi đã đi, ta vẫn ở cùng ngươi, trừ diệt các thù nghịch khỏi
trước mặt ngươi; ta sẽ làm cho ngươi được danh lớn, như danh của kẻ cao trọng ở
trên đất.
9. Ta sẽ sắm sẵn một chốn ở cho dân Y-sơ-ra-ên ta, vun trồng chúng để chúng ở
nơi mình, sẽ không còn bị khuấy rối, con loài ác sẽ chẳng làm bại hoại chúng như
khi trước nữa,
10. như từ ngày ta đã lập quan xét trên dân Y-sơ-ra-ên ta; ta sẽ khiến các thù
nghịch ngươi phục dưới ngươi. Lại ta báo cho ngươi biết rằng Ðức Giê-hô-va sẽ
cất cho ngươi một cái nhà.
11. Xảy khi các ngày ngươi đã mãn và ngươi phải về cùng tổ phụ ngươi, ắt ta sẽ
lập dòng dõi ngươi lên là con trai của ngươi, đặng kế vị ngươi; ta sẽ làm cho
nước người vững chắc.
12. Người ấy sẽ cất cho ta một cái đền, và ta sẽ làm cho ngôi nước người vững
bền đến đời đời.
13. Ta sẽ làm cho người, người đó sẽ làm con ta; sự nhân từ ta sẽ chẳng cất khỏi
người đâu, như ta đã cất khỏi kẻ ở trước ngươi;
14. song ta sẽ lập người đời đời tại trong nhà ta và tại trong nước ta; còn ngôi
nước người sẽ được vững chắc cho đến mãi mãi.
15. Na-than theo các lời nầy và sự mặc thị nầy mà tâu lại với Ða-vít.
16. Vua Ða-vít vào, ngồi trước mặt Ðức Giê-hô-va, mà thưa rằng: Giê-hô-va Ðức
Chúa Trời ôi! tôi là ai và nhà tôi là gì, mà Chúa đem tôi đến đây?
17. Ðức Chúa Trời ôi! ơn đó Chúa lấy làm nhỏ mọn thay; nhưng Giê-hô-va Ðức Chúa
Trời ôi! Chúa có hứa ban ơn cho nhà của tôi tớ Chúa trong buổi tương lai đến lâu
dài, và có đoái xem tôi theo hàng người cai trị!
18. Chúa làm cho đầy tớ Ngài được sang trọng như thế, thì Ða-vít còn nói gì được
nữa? vì Chúa biết đầy tớ Chúa.
19. Ðức Giê-hô-va ôi! Ngài đã theo ý lòng mình mà làm các việc lớn nầy cho đầy
tớ của Ngài, đặng bày ra các sự cả thể nầy.
20. Ôi Ðức Giê-hô-va, chẳng có ai giống như Ngài, và cứ theo mọi điều lỗ tai
chúng tôi đã nghe, ngoại Ngài chẳng có ai là Ðức Chúa Trời.
21. Chớ thì trên thế gian có dân tộc nào giống như dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, một
dân tộc mà Ðức Chúa Trời đi chuộc lại làm dân riêng của Ngài, sao? Nhờ sự cả thể
đáng kính đáng sợ, Chúa được danh rất lớn, đuổi các dân tộc khỏi trước mặt dân
của Chúa, là dân Chúa đã chuộc lại khỏi xứ Ê-díp-tô.
22. Vì dân Y-sơ-ra-ên, Chúa đã khiến thành dân riêng của Ngài đến đời đời; còn
Ðức Giê-hô-va ôi, Ngài trở nên Ðức Chúa Trời của họ.
23. Bây giờ, Ðức Giê-hô-va ôi! nguyện lời Ngài đã hứa về tôi tớ Ngài và về nhà
nó được ứng nghiệm đến đời đời, cầu Chúa làm y như Ngài đã phán.
24. Nguyện điều ấy được tôn vinh đời đời, để người ta nói rằng: Ðức Giê-hô-va
vạn quân, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, tức là Ðức Chúa Trời cho Y-sơ-ra-ên;
còn nhà Ða-vít, là tôi tớ Chúa, được đứng vững trước mặt Chúa!
25. Ðức Chúa Trời tôi ôi! Chúa có bày tỏ cho kẻ tôi tớ Chúa biết rằng Chúa sẽ
lập một cái nhà cho người; bởi đó cho nên kẻ tôi tớ Chúa dám cầu nguyện ở trước
mặt Chúa.
26. Ðức Giê-hô-va ôi! Ngài là Ðức Chúa Trời, Ngài đã hứa điều lành nầy với tôi
tớ Chúa;
27. thế thì, nay cầu xin Chúa ban phước nhà kẻ tôi tớ Chúa, hầu cho nó hằng còn
ở trước mặt Chúa; vì, Ðức Giê-hô-va ôi! hễ Ngài ban phước cho nó, thì nó sẽ được
phước đến đời đời.
1 Sử-Ký 18
chọn đoạn khác
1. Sau việc ấy, Ða-vít đánh dân Phi-li-tin, bắt phục chúng nó; và đoạt lấy khỏi
tay chúng nó thành Gát và các hương thôn nó.
2. Người cũng đánh Mô-áp; dân Mô-áp bèn phục dịch Ða-vít, và tiến cống cho
người.
3. Ða-vít đánh Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba, tại Ha-mát, khi người đương đi lập nước
mình trên sông Ơ-phơ-rát.
4. Ða-vít chiếm lấy của người một ngàn cỗ xe, bảy ngàn lính kỵ, và hai vạn lính
bộ; Ða-vít cắt nhượng của các ngựa kéo xe, duy chừa lại một trăm con.
5. Dân Sy-ri ở Ða-mách đến cứu giúp Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba, Ða-vít bèn giết
chúng hai vạn hai ngàn người.
6. Ða-vít lập đồn trong Sy-ri của Ða-mách, dân Sy-ri phục dịch người, và đem nộp
thuế cho người. Ða-vít đi đến đâu, thì Ðức Giê-hô-va cũng khiến cho người được
thắng.
7. Ða-vít đoạt những khiên vàng của các đầy tớ Ha-đa-rê-xe, rồi đem về
Giê-ru-sa-lem.
8. Từ Ti-bát và Cun, hai thành của Ha-đa-rê-xe, Ða-vít lại đoạt lấy nhiều đồng,
mà Sa-lô-môn dùng làm cái biển đồng, các trụ và chậu bằng đồng.
9. Khi Tô-hu, vua Ha-mát, hay rằng Ða-vít đã đánh cả đội binh của Ha-đa-rê-xe,
vua Xô-ba,
10. thì sai Ha-đô-ram, con trai người, đến chào mừng và ngợi khen Ða-vít, bởi
người đã chinh chiến với Ha-đa-rê-xe, và đã đánh người; vì Ha-đa-rê-xe và Tô-hu
thường đánh giặc với nhau luôn; Tô-hu cũng gởi đến các thứ chậu bằng vàng, bạc,
và đồng.
11. Các đồ ấy Ða-vít cũng biệt riêng ra thánh cho Ðức Giê-hô-va, luôn với bạc và
vàng mà người đã đoạt lấy đem về từ các dân tộc, tức từ Ê-đôm, Mô-áp, dân
Am-môn, dân Phi-li-tin, và dân A-ma-léc.
12. Vả lại, A-bi-sai, con trai của Xê-ru-gia, đánh giết tại trong trũng Muối,
một vạn tám ngàn người Ê-đôm.
13. Người đặt đồn tại Ê-đôm, và cả dân Ê-đôm đều phải phục dịch Ða-vít. Ða-vít
đi đến đâu, thì Ðức Giê-hô-va cũng khiến cho người được thắng.
14. Ða-vít làm vua trên cả Y-sơ-ra-ên, lấy sự ngay thẳng và công bình mà xử với
dân sự của người.
15. Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia, thống lãnh đội binh; Giô-sa-phát con trai
của A-hi-lút, làm quan thái sử;
16. Xa-đốc, con trai của A-hi-túp, và A-bi-mê-léc, con trai của A-bia-tha, làm
thầy tế lễ; Sa-vê-sa làm quan ký lục.
17. Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa, cai quản người Kê-rê-thít và người
Phê-lê-thít, còn các con trai Ða-vít đều làm quan đại thần gần bên vua.
1 Sử-Ký 19
chọn đoạn khác
1. Sau các việc đó, Na-hách, vua dân Am-môn, băng hà, và con trai người kế người
làm vua.
2. Ða-vít nói: Ta muốn làm ơn cho Ha-nun con trai của Na-hách, vì cha người đã
làm ơn cho ta. Ða-vít bèn sai những sứ giả đến an ủi người về sự cha người đã
băng hà. Vậy các đầy tớ của Ða-vít đến cùng Ha-nun tại trong xứ dân Am-môn, đặng
an ủi người.
3. Nhưng các quan trưởng dân Am-môn tâu với Ha-nun rằng: Vua há có tưởng rằng
Ða-vít sai những kẻ an ủi đến cùng vua, là vì tôn kính thân-phụ vua sao? Các đầy
tớ hắn đến cùng vua há chẳng phải để tra xét và do thám xứ, hầu cho hủy phá nó
sao?
4. Ha-nun bèn bắt các tôi tớ của Ða-vít, bảo cạo râu họ đi, cắt áo họ từ chặng
phân nửa cho đến lưng, rồi đuổi về.
5. Có người đi thuật cho Ða-vít hay việc các ngươi nầy; người sai đi đón các
ngươi ấy, vì họ xấu hổ lắm. Vua bảo rằng: Hãy ở tại Giê-ri-cô cho đến khi râu
các ngươi đã mọc, bấy giờ sẽ trở về.
6. Khi dân Am-môn thấy Ða-vít lấy họ làm gớm ghiếc, thì Ha-nun và dân Am-môn bèn
sai người đem một ngàn ta lâng bạc đặng đi đến Mê-sô-bô-ta-mi, A-ram-Ma-a-ca, và
Xô-ba, mà mướn cho mình những xe cộ và quân-kỵ.
7. Chúng mướn cho mình ba vạn hai ngàn cỗ xe, vua xứ Ma-a-ca với dân người; họ
kéo đến đóng tại trước Mê-đê-ba. Dân Am-môn từ các thành của họ nhóm lại đặng ra
trận.
8. Ða-vít hay điều đó, bèn sai Giô-áp và cả đạo binh, đều là người mạnh dạn.
9. Dân Am-môn kéo ra, dàn trận nơi cửa thành; còn các vua đã đến phù trợ, đều
đóng riêng ra trong đồng bằng.
10. Khi Giô-áp thấy quân thù đã bày trận đằng trước và đằng sau mình, bèn chọn
những kẻ mạnh dạn trong đội quân Y-sơ-ra-ên mà dàn trận đối cùng quân Sy-ri;
11. quân lính còn lại, người phú cho A-bi-sai, là em mình; chúng bày trận đối
với dân Am-môn.
12. Người nói: Nếu quân Sy-ri mạnh hơn anh, em sẽ giúp đỡ anh; còn nếu quân
Am-môn mạnh hơn em, anh sẽ giúp đỡ em.
13. Khá vững lòng bền chí; hãy vì dân ta vì các thành của Ðức Chúa Trời ta, mà
làm như cách đại trượng phu; nguyện Ðức Giê-hô-va làm theo ý Ngài lấy làm tốt.
14. Vậy, Giô-áp và quân lính theo người đều đến gần đối cùng quân Sy-ri đặng
giao chiến; quân Sy-ri chạy trốn khỏi trước mặt người.
15. Khi quân Am-môn thấy quân Sy-ri đã chạy trốn, thì cũng chạy trốn khỏi trước
mặt A-bi-sai, em Giô-áp, mà trở vào thành. Giô-áp bèn trở về Giê-ru-sa-lem.
16. Khi quân Sy-ri thấy mình bị thua trước mặt Y-sơ-ra-ên, bèn sai sứ giả đến
bởi dân Sy-ri ở bên kia sông ra, có Sô-phác, quan tướng của đội binh
Ha-đa-rê-xe, quản lãnh chúng nó.
17. Ða-vít hay điều đó, liền nhóm cả Y-sơ-ra-ên, sang qua sông Giô-đanh, đến
cùng quân Sy-ri và dàn trận nghịch cùng chúng nó. Vậy, khi Ða-vít đã bày trận
đối với dân Sy-ri, thì chúng nó đánh lại với người.
18. Quân Sy-ri chạy trốn khỏi trước mặt Y-sơ-ra-ên; Ða-vít giết của quân Sy-ri
bảy ngàn lính cầm xe, bốn vạn lính bộ, và cũng giết Sô-phác, quan tổng binh.
19. Khi các đầy tớ của Ha-đa-rê-xe thấy chúng bị bại trước mặt Y-sơ-ra-ên, bèn
lập hòa cùng Ða-vít và phục dịch người; về sau dân Sy-ri chẳng còn muốn tiếp cứu
dân Am-môn nữa.
1 Sử-Ký 20
chọn đoạn khác
1. Qua năm mới, lúc các vua thường ra đánh giặc, Giô-áp cầm đội binh kéo ra phá
hoang xứ dân Am-môn; người đến vây thành Ráp-ba; còn Ða-vít ở tại Giê-ru-sa-lem.
Giô-áp hãm đánh Ráp-ba, và phá hủy nó.
2. Ða-vít lấy mão triều thiên của vua dân Am-môn khỏi đầu người, cân được một ta
lâng vàng, và ở trên có những ngọc báu; bèn lấy mão triều thiên ấy đội trên đầu
Ða-vít; lại từ trong thành người lấy ra rất nhiều của cướp.
3. Còn dân sự ở trong thành, người đem ra mà cắt xẻ ra hoặc bằng cưa, hoặc bằng
bừa sắt, hay là bằng rìu. Ða-vít làm như vậy cho các thành của dân Am-môn. Ðoạn,
Ða-vít và cả quân lính đều trở về Giê-ru-sa-lem.
4. Sau việc đó, xảy có chinh chiến với dân Phi-li-tin tại Ghê-xe. Khi ấy
Si-bê-cai, người Hu-sa-tít, đánh giết Síp-bai, vốn thuộc trong dòng kẻ khổng lồ;
chúng bèn bị suy phục.
5. Lại còn giặc giã với dân Phi-li-tin nữa; Ên-ha-nan, con trai của Giai-rơ,
đánh giết Lác-mi, em của Gô-li-át, người Gát; cái cán giáo người lớn như cây
trục của thợ dệt.
6. Lại còn một trận đánh nữa tại Gát; ở đó có một người tướng tá lớn cao, có mỗi
tay sáu ngón và mỗi chân sáu ngón, hết thảy là hai mươi bốn ngón; hắn cũng thuộc
về dòng khổng lồ.
7. Hắn sỉ nhục Y-sơ-ra-ên; nhưng Giô-na-than, con trai của Si-mê-a, em của
Ða-vít, đánh giết người.
8. Những kẻ đó đều thuộc về dòng khổng lồ tại Gát; chúng đều bị tay Ða-vít và
tay các tôi tớ người giết đi.
1 Sử-Ký 21
chọn đoạn khác
1. Sa-tan dấy lên muốn làm hại cho Y-sơ-ra-ên, bèn giục Ða-vít lấy số
Y-sơ-ra-ên.
2. Ða-vít nói với Giô-áp và các quan trưởng của dân sự rằng: Hãy đi lấy số dân
sự, từ Bê-e-Sê-ba cho đến Ðan; rồi đem về tâu lại cho ta, để ta biết số họ.
3. Giô-áp thưa; Nguyện Ðức Giê-hô-va gia thêm dân sự Ngài nhiều gấp trăm lần đã
có! Ôi vua chúa tôi! hết thảy chúng nó há chẳng phải là tôi tớ của chúa tôi sao?
Cớ sao chúa tôi dạy bảo làm điều đó? Nhơn sao chúa tôi muốn gây tội lỗi cho
Y-sơ-ra-ên?
4. Nhưng lời của vua thắng hơn lời của Giô-áp. Vì vậy, Giô-áp ra, đi khắp
Y-sơ-ra-ên, rồi trở về Giê-ru-sa-lem.
5. Giô-áp đem tâu cho vua tổng số dân; trong cả Y-sơ-ra-ên được một trăm mười
vạn người cầm gươm; trong cả Giu-đa được bốn mươi bảy vạn người cầm gươm.
6. Nhưng Giô-áp có cai số người Lê-vi và người Bên-gia-min; vì lời của vua lấy
làm gớm ghiếc cho người.
7. Ðiều đó chẳng đẹp lòng Ðức Chúa Trời; nên Ngài hành hại Y-sơ-ra-ên.
8. Ða-vít thưa với Ðức Chúa Trời rằng: Tôi làm điều đó, thật là phạm tội lớn;
nhưng bây giờ, xin Chúa hãy bỏ qua tội ác của kẻ tôi tớ Chúa đi; vì tôi có làm
cách ngu dại.
9. Ðức Giê-hô-va phán với Gát, là đấng tiên kiến của Ða-vít rằng:
10. Hãy đi nói cùng Ða-vít: Ðức Giê-hô-va có phán như vầy: Ta định cho ngươi ba
tai vạ; hãy chọn lấy một để ta giáng nó trên ngươi.
11. Gát bèn đến cùng Ða-vít, thưa với người rằng: Ðức Giê-hô-va phán như vầy:
Hãy chọn mặc ý ngươi,
12. hoặc ba năm đói kém, hoặc bị thua ba tháng tại trước mặt cừu địch ngươi, và
phải gươm của kẻ thù nghịch phá hại, hay là bị ba ngày gươm của Ðức Giê-hô-va,
tức là ôn dịch ở trong xứ, có thiên sứ của Ðức Giê-hô-va hủy diệt trong khắp bờ
cõi của Y-sơ-ra-ên. Vậy bây giờ hãy định lấy điều nào tôi phải tâu lại cùng Ðấng
đã sai tôi.
13. Ða-vít nói với Gát rằng: Ta bị hoạn nạn lớn. Ta xin sa vào tay Ðức
Giê-hô-va, vì sự thương xót của Ngài rất lớn; chớ để ta sa vào tay của loài
người ta.
14. Ðức Giê-hô-va bèn giáng ôn dịch nơi Y-sơ-ra-ên; có bảy vạn người Y-sơ-ra-ên
ngã chết.
15. Ðức Chúa Trời sai một thiên sứ đến Giê-ru-sa-lem đặng hủy diệt nó; đương khi
hủy diệt, Ðức Giê-hô-va xem thấy, Ðức Giê-hô-va xem thấy, bèn tiếc việc tai vạ
nầy, và nói với thiên sứ đi hủy diệt rằng: Thôi! Bây giờ hãy rút tay ngươi lại.
Bấy giờ thiên sứ của Ðức Giê-hô-va đứng gần sân đạp lúa của Ọt-nan, người
Giê-bu-sít.
16. Ða-vít ngước mắt lên, thấy thiên sứ của Ðức Giê-hô-va đứng giữa lừng trời,
tay cầm gươm đưa ra trên Giê-ru-sa-lem. Ða-vít và các trưởng lão đương mặc bao
gai, liền sấp mình xuống đất.
17. Ða-vít thưa cùng Ðức Chúa Trời rằng: Há chẳng phải tôi đã truyền lấy số dân
sao? Ấy là tôi đã phạm tội và làm điều ác; còn các con chiên kia, đã làm chi?
Giê-hô-va Ðức Chúa Trời tôi ôi! xin tay Chúa hãy đánh hại tôi và nhà cha tôi;
nhưng chớ giáng ôn dịch trên dân sự của Chúa mà hành hại nó.
18. Khi ấy, thiên sứ của Ðức Giê-hô-va bảo Gát nói với Ða-vít phải đi lên dựng
một bàn thờ cho Ðức Giê-hô-va tại sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít.
19. Ða-vít đi lên theo lời của Gát đã nhân danh Ðức Giê-hô-va mà nói ra.
20. Ọt-nan xây lại, thấy thiên sứ; bốn con trai người ở với người đều ẩn mình
đi. Vả, bấy giờ Ọt-nan đương đạp lúa miến.
21. Ða-vít đi đến Ọt-nan, Ọt-nan nhìn thấy Ða-vít, bèn ra khỏi sân đạp lúa, sấp
mình xuống đất trước mặt Ða-vít mà lạy.
22. Ða-vít bảo Ọt-nan rằng: Hãy nhượng cho ta chỗ sân đạp lúa, để ta cất tại đó
một bàn thờ cho Ðức Giê-hô-va; hãy nhượng nó cho ta thật giá bạc nó, hầu tai vạ
ngừng lại trong dân sự.
23. Ọt-nan thưa với Ða-vít rằng: Vua hãy nhận lấy nó, xin vua chúa tôi, hãy làm
điều gì người lấy làm tốt. Kìa, tôi dâng bò cho vua dùng làm của lễ thiêu, cộ
sân đạp lúa dùng làm củi, còn lúa miến để dùng làm của lễ chay; tôi dâng cho hết
cả.
24. Vua Ða-vít nói cùng Ọt-nan rằng: Không, thật ta muốn mua nó theo giá bạc
thật nó; vì ta chẳng muốn lấy vật gì của ngươi mà dâng cho Ðức Giê-hô-va cũng
không muốn dâng của lễ thiêu chẳng tốn chi cả.
25. Ấy vậy, Ða-vít mua cái chỗ sân ấy trả cho Ọt-nan giá bằng siếc-lơ, cân nặng
sáu trăm siếc-lơ.
26. Tại đó Ða-vít cất một bàn thờ cho Ðức Giê-hô-va, dâng những của lễ thiêu,
của lễ bình an, và cầu khẩn Ðức Giê-hô-va; Ngài đáp lời người bằng lửa từ trời
giáng xuống trên bàn thờ về của lễ thiêu.
27. Ðức Giê-hô-va dạy bảo thiên sứ, thiên sứ bèn xỏ gươm mình vào vỏ.
28. Trong lúc đó, Ða-vít thấy Ðức Giê-hô-va đã nhậm lời mình tại trong sân đạp
lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít, thì người bèn dâng của lễ tại đó.
29. Vì cái đền tạm của Ðức Giê-hô-va mà Môi-se đã làm trong đồng vắng, và cái
bàn thờ về của lễ thiêu, trong lúc đó đều ở nơi cao tại Ga-ba-ôn;
30. Ða-vít không dám đi đến trước mặt bàn thờ ấy đặng cầu vấn Ðức Chúa Trời; bởi
vì người kinh hãi gươm của thiên sứ của Ðức Giê-hô-va.
1 Sử-Ký 22
chọn đoạn khác
1. Ða-vít bèn nói: Ấy đây là đền của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời, đây là bàn thờ về
của lễ thiêu của Y-sơ-ra-ên.
2. Ða-vít thờ lạy nhóm các người ngoại bang ở trong xứ Y-sơ-ra-ên; rồi người
khiến trợ đục đá, đặng làm những đá đục, hầu cất cái đền của Ðức Chúa Trời.
3. Ða-vít cũng dự bị nhiều sắt, đường làm đinh cánh cửa và mấu cửa, cùng nhiều
đồng không thể cân được,
4. và gỗ bá hương vô số; vì dân Si-đôn và dân Ty-rơ chở rất nhiều gỗ bá hương
đến cho vua Ða-vít.
5. Ða-vít nói rằng: Sa-lô-môn, con trai ta, hãy còn thơ ấu và non nớt, mà cái
đền sẽ cất cho Ðức Giê-hô-va phải rất nguy nga, có danh tiếng rực rỡ trong các
nước; vì vậy, ta sẽ dự bị đồ cần dùng cho nó. Thế thì, Ða-vít dự bị rất nhiều đồ
trước khi người qua đời.
6. Bấy giờ, Ða-vít gọi Sa-lô-môn, con trai mình, truyền dặn người cất một cái
đền cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
7. Ða-vít nói với Sa-lô-môn rằng: Hỡi con, ta có ý muốn xây cất một cái đền cho
danh Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ta;
8. nhưng có lời của Ðức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: ngươi đã đổ huyết ra nhiều,
đánh những giặc lớn lao; vậy vì ngươi đã đổ huyết ra nhiều trên đất tại trước
mặt ta, nên người sẽ chẳng cất đền cho danh ta.
9. Kìa, con trai mà người sẽ sanh ra, nó sẽ là người thái bình; ta sẽ ban bình
an cho nó; cơn thịnh nộ ở bốn phía nó sẽ chẳng khuấy rối nó; vì tên nó sẽ là
Sa-lô-môn; trong đời nó ta sẽ ban sự thái bình an tịnh cho Y-sơ-ra-ên.
10. Nó sẽ cất một đền cho danh ta; nó sẽ làm con trai ta, ta sẽ làm cha nó; và
ta sẽ lập ngôi nước nó trên Y-sơ-ra-ên được bền vững đời đời.
11. Bây giờ, hỡi con trai ta, nguyện Ðức Giê-hô-va ở cùng con và làm cho con
được hanh thông; con sẽ cất cái đền cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời con, theo như
lời Ngài đã phán về việc con.
12. Nguyện Ðức Giê-hô-va ban cho con sự khôn ngoan thông sáng, khiến cho con cai
trị trên Y-sơ-ra-ên, để con gìn giữ luật pháp của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời con.
13. Nếu con cảm tạ làm theo các luật pháp và mạng lịnh mà Ðức Giê-hô-va đã phán
dặn Môi-se truyền cho Y-sơ-ra-ên, thì con sẽ được hanh thông. Khá vững lòng bền
chí; chớ sợ sệt, chớ kinh hãi chi.
14. Nay ta đã chịu hoạn nạn mà sắm sửa cho đền của Ðức Giê-hô-va mười vạn ta
lâng vàng, một trăm vạn ta lâng bạc; còn đồng và sắt thì không thể cân được, vì
nó nhiều quá; ta lại dự bị gỗ và đá; và con cũng sẽ thêm vào đó.
15. Vả lại, con có nhiều nhân công thợ đục đá, thợ hồ, thợ mộc, đủ người thạo về
các thứ công việc;
16. vàng, bạc, đồng, sắt, thì vô-số. Hãy chổi dậy làm, Ðức Giê-hô-va sẽ ở cùng
con.
17. Ða-vít cũng truyền dặn các quan trưởng của Y-sơ-ra-ên giúp đỡ Sa-lô-môn, con
trai người, mà rằng:
18. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời các ngươi há chẳng ở cùng các ngươi sao? Ngài há
chẳng ban cho các ngươi được bình an bốn phía sao? Vì Ngài đã phó dân của xứ vào
tay ta, và xứ đã suy phục trước mặt Ðức Giê-hô-va, và trước mặt dân sự Ngài.
19. Vậy bây giờ, hãy hết lòng hết ý tìm cầu Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của các
ngươi; hãy chổi dậy, xây cất đền thánh cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời, để rước hòm
giao ước của Ðức Giê-hô-va và các khí dụng của đền thánh Ðức Chúa Trời vào trong
nhà toan cất cho danh của Ðức Giê-hô-va.
1 Sử-Ký 23
chọn đoạn khác
1. Ða-vít đã già, cao tuổi, bèn lập Sa-lô-môn, con trai mình, làm vua
Y-sơ-ra-ên.
2. Người nhóm các quan trưởng Y-sơ-ra-ên, cùng những thầy tế lễ, và người Lê-vi.
3. Người ta lấy số người Lê-vi từ ba mươi tuổi trở lên, và số của họ, cứ đếm
từng người, được ba vạn tám ngàn.
4. Trong số các người ấy, có hai vạn bốn ngàn người được cắt cai quản công việc
của đền Ðức Giê-hô-va; sáu ngàn người đều làm quan đốc lý và quan xét;
5. còn bốn ngàn người đều làm kẻ canh cửa; và bốn ngàn người ngợi khen Ðức
Giê-hô-va bằng nhạc khí của Ða-vít đã làm đặng ngợi khen.
6. Ða-vít phân họ từng ban thứ theo ba con trai Lê-vi, là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và
Mê-ra-ri.
7. Về con cháu Ghẹt-sôn có La-ê-đan và Si-mê-i.
8. Con trai của La-ê-đan là Giê-hi-ên làm trưởng, Xê-tham, và Giô-ên, ba người.
9. Con trai của Si-mê-i là Sê-lô-mít, Ha-xi-ên, và Ha-ran, ba người. Ðó là các
trưởng của tông tộc La-ê-đan.
10. Con trai của Si-mê-i là Gia-hát, Xi-na, Giê-úc, và Bê-ri-a. Ấy là bốn con
trai của Si-mê-i.
11. Gia-hát làm trưởng, còn Xi-xa là con thứ; nhưng Giê-úc và Bê-ri-a không có
con cháu nhiều; nên khi lấy số thì kể chúng như một nhà.
12. Con trai Kê-hát là Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn, U-xi-ên, bốn người.
13. Con trai của Am-ram là A-rôn và Môi-se; A-rôn và con cháu người được phân
biệt ra, để biệt riêng ra các vật chí thánh, và đời đời xông hương, hầu việc
trước mặt Ðức Giê-hô-va, cùng nhân danh Ngài mà chúc phước cho.
14. Còn về Môi-se, người của Ðức Chúa Trời, các con trai người đều được kể vào
chi phái Lê-vi.
15. Con trai của Môi-se là Ghẹt-sôn và Ê-li-ê-xe.
16. Con trai của Ghẹt-sôn là Sê-bu-ên làm trưởng.
17. Con trai của Ê-li-ê-xe là Rê-ha-bia làm trưởng; Ê-li-ê-xe không có con trai
nào khác; nhưng con trai của Rê-ha-bia nhiều lắm.
18. Con trai của Dít-sê-ha là Sê-lô-mít làm trưởng.
19. Con trai của Hếp-rôn là Giê-ri-gia làm trưởng; A-ma-ria thứ nhì;
Gia-ha-xi-ên thứ ba; và Giê-ca-mê-am thứ tư.
20. Con trai của U-xi-ên là Mi-ca làm trưởng; và Di-si-gia con thứ.
21. Con trai của Mê-ra-ri là Mác-li và Mu-si. Con trai của Mác-li là Ê-lê-a-sa
và Kích.
22. Ê-lê-a-sa chết, không có con trai, chỉ có con gái mà thôi; các con trai của
Kích là anh em chúng nó, bèn cưới chúng nó làm vợ.
23. Con trai của Mu-si là Mác-li, Ê-đe và Giê-rê-mốt, ba người.
24. Ðó là con cháu của Lê-vi theo tông tộc của họ, tức là trưởng tộc của những
người được cai số từng danh từng người, từ hai mươi tuổi sắp lên, và hầu việc
trong đền của Ðức Giê-hô-va.
25. Vì Ða-vít nói rằng: Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có ban sự bình an
cho dân sự Ngài, và Ngài ngự tại Giê-ru-sa-lem đời đời;
26. người Lê-vi cũng sẽ chẳng còn cần khiêng vác đền tạm hay là các khí dụng về
công việc đền tạm nữa.
27. Vì theo lời trối của Ða-vít, người ta tu bộ dân Lê-vi, từ hai mươi tuổi sấp
lên.
28. Chức của chúng là ở bên con cháu A-rôn, đặng làm công việc của đền Ðức
Giê-hô-va, canh giữ hành lang và các phòng, giữ tinh sạch các vật thánh, và coi
làm công việc của đền Ðức Chúa Trời:
29. lại lo về bánh trần thiết, về bột mịn dùng làm của lễ chay, về bánh tráng
không men, về đồ nướng trên vỉ, về đồ trộn với dầu, và về các đồ để lường và để
đo;
30. mỗi buổi sớm và buổi chiều, họ phải đứng tại đó cảm tạ và ngợi khen Ðức
Giê-hô-va;
31. còn mỗi ngày sa-bát, ngày mồng một, và ngày lễ trọng thể, thì phải giúp dâng
luôn luôn tại trước mặt Ðức Giê-hô-va những của lễ thiêu thường dâng cho Ðức
Giê-hô-va theo lệ đã định trong luật về của lễ ấy;
32. chúng cũng lo coi sóc hội mạc và nơi thánh, cùng giúp đỡ con cháu A-rôn, là
anh em mình, đặng hầu việc trong đền của Ðức Giê-hô-va.
1 Sử-Ký 24
chọn đoạn khác
1. Nầy là ban thứ của con cháu A-rôn: Con trai của A-rôn là Na-đáp, A-bi-hu,
Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma.
2. Na-đáp và A-bi-hu chết trước cha của chúng và không có con; nên Ê-lê-a-sa và
Y-tha-ma làm chức thầy tế lễ.
3. Ða-vít khiến Xa-đốc, con cháu Ê-lê-a-sa, và A-hi-mê-léc, con cháu Y-tha-ma,
phân ban thứ cho chúng tùy theo chức việc chúng làm.
4. Trong con cái Ê-lê-a-sa có nhiều trưởng tộc hơn trong con cháu Y-tha-ma; họ
phân ban thứ như về: về con cháu Ê-lê-a-sa có mười sáu trưởng tộc.
5. Người ta bắt thăm phân chúng từng ban thứ, hoặc người nầy người kia; vì các
trưởng của nơi thánh, và các trưởng của Ðức Chúa Trời đều thuộc trong con cháu
Ê-lê-a-sa và trong con cháu Y-tha-ma.
6. Sê-ma-gia, con trai của Na-tha-na-ên, người ký lục, thuộc trong chi phái
Lê-vi, biên tên chúng vào sổ tại trước mặt vua và trước mặt các quan trưởng,
trước mặt thầy tế lễ Xa-đốc, A-hi-mê-léc, con trai của A-bia-tha, và trước mặt
các trưởng tộc của những thầy tế lễ và người Lê-vi; trong con cháu Ê-lê-a-sa bắt
thăm lấy một họ hàng, rồi trong con cháu Y-tha-ma cũng bắt thăm lấy một họ hàng.
7. Cái năm thứ nhứt trúng nhằm Giê-hô-gia-ríp; cái thăm thứ nhì nhằm
Giê-đa-ê-gia;
8. cái thăm thứ ba nhằm Ha-rim; cái thăm thứ tư nhằm Sê-ô-rim;
9. cái thăm thứ năm nhằm Manh-kia; cái thăm thứ sáu nhằm Mia-min;
10. cái thăm thứ bảy nhằm Cốt; cái thăm thứ tám nhằm A-bi-gia;
11. cái thăm thứ chín nhằm Giê-sua; cái thăm thứ mười nhằm Sê-ca-nia;
12. cái thăm thứ mười một nhằm Ê-li-a-síp; cái thăm thứ mười hai nhằm Gia-kim;
13. cái thăm thứ mười ba nhằm Húp-ba; cái thăm thứ mười bốn nhằm Giê-sê-báp;
14. cái thăm thứ mười lăm nhằm Binh-ga; cái thăm thứ mười sáu nhằm Y-mê;
15. cái thăm thứ mười bảy nhằm Hê-xia; cái thăm thứ mười tám nhằm Phi-xết;
16. cái thăm thứ mười chín nhằm Phê-ta-hia, cái thăm thứ hai mươi nhằm
Ê-xê-chi-ên;
17. cái thăm thứ hai mươi mốt nhằm Gia-kin; cái thăm thứ hai mươi hai nhằm
Ga-mun;
18. cái thăm thứ hai mươi ba nhằm Ðê-la-gia; cái thăm thứ hai mươi bốn nhằm
Ma-a-xia.
19. Ấy đó là ban thứ của chúng trong chức việc mình, đặng vào trong đền của Ðức
Giê-hô-va, tùy theo lịnh của A-rôn, tổ phụ chúng, đã truyền cho, y như Giê-hô-va
Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán dặn người.
20. Nầy là con cháu của Lê-vi còn lại: về con cháu Am-ram có Su-ba-ên; về con
cháu Su-ba-ên có Giê-đia.
21. Về con cháu Rê-ha-bia có Di-si-gia làm trưởng.
22. Trong con cháu Dít-sê-ha có Sê-lô-mốt; về con cháu Sê-lô-mốt có Gia-hát.
23. Về con cháu Hếp-rôn có Giê-ri-gia, con trưởng; A-ma-ria thứ nhì,
Gia-ha-xi-ên thứ ba, và Gia-ca-mê-am thứ tư.
24. Về con cháu U-xi-ên có Mi-ca; về con cháu Mi-ca có Sa-mia.
25. Anh em của Mi-ca là Dít-hi-gia; về con cháu Dít-hi-gia có Xa-cha-ri.
26. Con trai Mê-ra-ri là Mác-li và Mu-si; con trai Gia-a-xi-gia là Bê-nô,
27. con cháu của Mê-ra-ri là Bê-nô, Sô-ham, Xác-cua, và Y-bê-ri, đều là con trai
của Gia-a-xi-gia.
28. Con trai của Mác-li là Ê-lê-a-sa, là người không có con trai.
29. Về con cháu Kích có Giê-rác-mê-ên.
30. Con trai của Mu-si là Mác-li, Ê-đe và Giê-ri-mốt. Ấy đó là con cháu Lê-vi,
tùy theo tông tộc của chúng.
31. Chúng cũng như anh em mình, là con cháu A-rôn, bắt thăm tại trước mặt vua
Ða-vít, Xa-đốc, và A-hi-mê-léc, cùng trước mặt các trưởng tộc của những thầy tế
lễ và người Lê-vi; các trưởng tộc cũng phải bắt thăm như các em út mình.
1 Sử-Ký 25
chọn đoạn khác
1. Ða-vít và các quan tướng đội binh cũng để riêng ra mấy con cháu của A-sáp,
Hê-man và Giê-đu-thun hầu phục dịch, lấy đờn cầm, đờn sắt, và chập chỏa đặng nói
tiên tri; số người phục sự theo chức của họ là như sau nầy:
2. Về con trai A-sáp, có Xác-cua, Giô-sép, Nê-tha-nia, và A-sa-rê-la, đều là con
trai của A-sáp, ở dưới tay A-sáp cai quản, vâng theo ý chỉ của vua mà ca xướng.
3. Về con trai của Giê-đu-thun có Ghê-đa-lia, và Si-mê-i, là sáu người đều ở
dưới quyền cai quản của cha chúng, là Giê-đu-thun, dùng đờn cầm mà nói tiên tri,
cảm tạ và ngợi khen Ðức Giê-hô-va.
4. Về con trai của Hê-man có Búc-ki-gia, Ma-tha-nia, U-xi-ên, Sê-bu-ên,
Giê-ri-mốt, Ha-na-nia, Ha-na-ni, Ê-li-a-tha, Ghi-đanh-thi, Rô-mam-ti-Ê-xe,
Giốt-bê-ca-sa, Ma-lô-thi, Hô-thia, và Ma-ha-xi-ốt.
5. Những người đó đều là con trai của Hê-man, thổi kèn và ngợi khen Ðức Chúa
Trời. Hê-man vâng mạng của Ðức Chúa Trời mà làm đấng tiên kiến của vua. Ðức Chúa
Trời ban cho Hê-man được mười bốn con trai và ba con gái.
6. Các người ấy đều ở dưới quyền cai quản của cha mình là A-sáp, Giê-đu-thun, và
Hê-man, để ca-xướng trong đền Ðức Giê-hô-va với chập chỏa, đờn sắt, đờn cầm, và
phục sự tại đền của Ðức Chúa Trời, theo mạng lịnh của vua.
7. Chúng luôn với anh em mình có học tập trong nghề ca hát cho Ðức Giê-hô-va,
tức là những người thông thạo, số được hai trăm tám mươi tám người.
8. Chúng đều bắt thăm về ban thứ mình, người lớn như kẻ nhỏ, người thông thạo
như kẻ học tập.
9. Cái thăm thứ nhứt nhằm cho Giô-sép về dòng A-sáp; cái thăm thứ nhì nhằm
Ghê-đa-lia; người anh em và con trai người, cộng được mười hai người;
10. cái thăm thứ ba nhằm Xác-cua, các con trai và anh em người, cộng được mười
hai người;
11. cái thăm thứ tư nhằm Dít-sê-ri, các con trai và anh em người, cộng được mười
hai người;
12. cái thăm thứ năm nhằm Nê-tha-nia, các con trai và anh em người, cộng được
mười hai người;
13. cái thăm thứ sáu nhằm Búc-ki-gia, các con trai và anh em người, cộng được
mười hai người;
14. cái thăm thứ bảy nhằm Giê-sa-rê-la, các con trai và anh em người, cộng được
mười hai người;
15. cái thăm thứ tám nhằm Ê-sai, các con trai và anh em người, cộng được mười
hai người;
16. cái thăm thứ chín nhằm Ma-tha-nia, các con trai và anh em người, cộng được
mười hai người;
17. cái thăm thứ mười nhằm Si-mê-i; các con trai và anh em người, cộng được mười
hai người;
18. cái thăm thứ mười một nhằm A-xa-rên, các con trai và anh em người, cộng được
mười hai người;
19. cái thăm thứ mười hai nhằm Ha-sa-bia, các con trai và anh em người, cộng
được mười hai người;
20. cái thăm thứ mười ba nhằm Su-ba-ên, các con trai và anh em người, cộng được
mười hai người;
21. cái thăm thứ mười bốn nhằm Ma-ti-thia, các con trai và anh em người, cộng
được mười hai người;
22. cái thăm thứ mười lăm nhằm Giê-rê-mốt, các con trai và anh em người, cộng
được mười hai người;
23. cái thăm thừ mười sáu nhằm Ha-na-nia, các con trai và anh em người, cộng
được mười hai người;
24. cái thăm thứ mười bảy nhằm Giốt-bê-ca-sa, các con trai và anh em người, cộng
được mười hai người;
25. cái thăm thứ mười tám nhằm Ha-na-ni, các con trai và anh em người, cộng được
mười hai người;
26. cái thăm thứ mười chín nhằm Ma-lô-thi, các con trai và anh em người, cộng
được mười hai người;
27. cái thăm thứ hai mươi nhằm Ê-li-gia-ta, các con trai và anh em người, cộng
được mười hai người;
28. cái thăm thứ hai mươi mốt nhằm Hô-thia, các con trai và anh em người, cộng
được mười hai người;
29. cái thăm thứ hai mươi hai nhằm Ghi-đanh-thi, các con trai và anh em người,
cộng được mười hai người;
30. cái thăm thứ hai mươi ba nhằm Ma-ha-xi-ốt, các con trai và anh em người,
cộng được mười hai người;
31. cái thăm thứ hai mươi bốn nhằm Rô-man-ti-Ê-xe, các con trai và anh em người,
cộng được mười hai người.
1 Sử-Ký 26
chọn đoạn khác
1. Những ban thứ của người giữ cửa như sau nầy: về dòng Cô-rê có Mê-sê-lê-mia,
con trai của Cô-rê, cháu của A-sáp.
2. Mê-sê-lê-mia có những con trai, là Xa-cha-ri, con trưởng; Giê-đi-a-ên thứ
nhì, Xê-ba-đia thứ ba, Giát-ni-ên thứ tư,
3. Ê-lam thứ năm, Giô-ha-nan thứ sáu, và Ê-li-ô-ê-nai thứ bảy.
4. Các con trai của Ô-bết-Ê-đôm là Sê-ma-gia con trưởng, Giê-hô-xa-bát thứ nhì,
Giô-a thứ ba, Sa-ca thứ tư, Nê-ta-nên thứ năm,
5. A-mi-ên thứ sáu, Y-sa-ca thứ bảy, và phê-u-lê-tai thứ tám; vì Ðức Chúa Trời
có ban phước cho Ô-bết-Ê-đôm.
6. Sê-ma-gia, con trai Ô-bết-Ê-đôm, cũng sanh những con trai, có quyền cai quản
tông tộc mình; vì chúng đều là người mạnh dạn.
7. Các con trai của Sê-ma-gia là Ốt-ni, Rê-pha-ên, Ô-bết, Ên-xa-bát, và anh em
họ, là Ê-li-hu và Sê-ma-kia, đều là kẻ mạnh dạn.
8. Các người đó là con cháu của Ô-bết-Ê-đôm; họ với các con trai và anh em họ,
đều là người mạnh dạn thạo chức việc mình, cộng được sáu mươi hai người thuộc về
dòng Ô-bết-Ê-đôm.
9. Mê-sê-lê-mia có những con trai và anh em, đều là người mạnh dạn, cộng được
mười tám người.
10. Hô-sa, thuộc trong dòng Mê-ra-ri, cũng có những con trai, là Sim-ri làm
trưởng; dầu người không phải sanh ra đầu lòng, cha người lập người làm con
trưởng;
11. Hinh-kia thứ nhì, Tê-ba-lia thứ ba, và Xa-cha-ri thứ tư. hết thảy con trai
và anh của Hô-sa được mười ba người.
12. Các người ấy làm ban trưởng của những kẻ giữ cửa; họ theo ban thứ mà hầu
việc trong đền của Ðức Giê-hô-va, y như anh em mình vậy.
13. Chúng theo tông tộc mình mà bắt thăm về mỗi cửa, kẻ nhỏ như người lớn.
14. Cái thăm về cửa đông trúng nhằm Sê-lê-mia. Ðoạn, người ta bỏ thăm về cửa
bắc, thăm ấy trúng nhằm Xa-cha-ri, con trai Sê-lê-mia, một mưu sĩ thông sáng.
15. Cái thăm về cửa nam trúng nhằm Ô-bết-Ê-đôm; còn các con trai người, canh giữ
kho lương phạn.
16. Súp-bim và Hô-sa bắt thăm được cửa tây, gần cửa Sa-lê-kết, nơi con đường đi
dốc lên, phiên canh đối với nhau.
17. Mỗi ngày cửa đông có sáu người Lê-vi, cửa bắc bốn người, cửa nam bốn người,
và nơi kho lương phạn, mỗi cửa hai người.
18. Tại Bạt-ba về phía tây cũng có kẻ canh giữ: trên con đường có bốn người, và
tại chính Bạt-ba có hai người.
19. Ðó là ban thứ của những người giữ cửa, đều là con cháu Cô-rê và con cháu
Mê-ra-ri.
20. Trong người Lê-vi có A-hi-gia quản lý khung-thành các vật thánh.
21. Con cháu La-ê-đan, thuộc về dòng dõi Ghẹt-sôn, làm trưởng trong tông tộc của
La-ê-đan, con cháu Ghẹt-sôn, là Giê-hi-ê-li.
22. Các con trai Giê-hi-ê-li là Xê-tham và Giô-ên, em người, được cắt làm quản
lý khung thành của đền Ðức Giê-hô-va.
23. Trong dòng Am-ram, dòng Dít-sê-ha, dòng Hếp-rôn, và dòng U-xi-ên,
24. có Sê-bu-ên, con cháu Ghẹt-sôn, là con trai của Môi-se, làm quan cai quản
khung thành.
25. Lại có anh em người, là con cháu của Ê-li-ê-xe: Rê-ha-bia, con trai
Ê-li-ê-xe; Ê-sai, con trai Rê-ha-bia; Giô-ram, con trai Ê-sai; Xiếc-ri, con trai
Giô-ram, và Sê-lô-mít, con trai Xiếc-ri.
26. Sê-lô-mít nầy và anh em người đều quản lý các vật thánh mà vua Ða-vít, các
trưởng tộc, quan tướng cai ngàn quân và cai trăm quân, cùng các tướng đội binh
đã biệt riêng ra thánh.
27. Chúng biệt riêng ra thánh những của cải đã đoạt lấy khi chiến trận, đặng
dùng xây sửa đền Ðức Giê-hô-va.
28. Lại các vật mà Sa-mu-ên, đấng tiên kiến Sau-lơ, con trai của Kích, Áp-ne,
con trai của Nê-rơ, và Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia, đã biệt riêng ra thánh,
cùng các vật không cứ người nào đã biệt riêng ra thánh, đều ở dưới tay Sê-lô-mít
và các anh em người quản lý.
29. Trong dòng Dít-sê-ha, có Kê-na-nia và các con trai người, được lập lên làm
quan trưởng và quan xét, đặng cai quản các việc ngoài của Y-sơ-ra-ên.
30. Trong dòng Hếp-rôn có Ha-sa-bia và anh em người, đều là người mạnh dạn, số
được một ngàn bảy trăm tên; họ quản lý dân Y-sơ-ra-ên bên kia sông Giô-đanh về
phía tây, coi sóc công việc của Ðức Giê-hô-va và hầu hạ vua.
31. Trong dòng Hếp-rôn có Giê-ri-gia làm trưởng. Ðương năm thứ bốn mươi đời
Ða-vít, người ta cai số dòng họ Hếp-rôn, tùy tông tộc của chúng, thấy giữa vòng
chúng tại Gia-ê-xe trong xứ Ga-la-át, có những người mạnh dạn.
32. Các anh em của Giê-ri-gia, đều là tay mạnh dạn, số được hai ngàn bảy trăm
người, làm trưởng tộc; vua Ða-vít lập chúng trên người Ru-bên, và người Gát, và
trên nửa chi phái Mê-na-se, đặng cai trị các việc của Ðức Chúa Trời và việc của
vua.
1 Sử-Ký 27
chọn đoạn khác
1. Ðây là số của những trưởng tộc của dân Y-sơ-ra-ên, tức các quan tướng cai
ngàn người và cai trăm người, các quan trưởng của chúng vẫn phục sự vua, cai
quản các ban thứ quanh năm mỗi tháng thay nhau đi ra đi vào; mỗi ban thứ số được
hai vạn bốn ngàn người.
2. Ban trưởng của ban thứ nhứt về tháng giêng, là Gia-sô-bê-am, con trai của
Xáp-đi-ên; trong ban người có hai vạn bốn ngàn người.
3. Người thuộc về dòng Phê-rết, làm đầu các quan tướng về tháng giêng.
4. Ban trưởng của ban tháng hai là Ðô-đai, người A-hô-ha; Mích-lô làm quan chánh
trong ban người; ban người có hai vạn bốn ngàn người.
5. Ban trưởng của ban thứ ba về tháng ba, là Bê-na-gia, con trai của thầy tế lễ
Giê-hô-gia-đa; trong ban người có hai vạn bốn ngàn người.
6. Bê-na-gia nầy là người mạnh dạn trong ba mươi người kia, và làm đầu ba mươi
người ấy; Am-mi-xa-đáp, con trai người, cũng ở trong ban người.
7. Ban trưởng thứ tư về tháng tư, là A-sa-ên, anh em của Giô-áp, và Xê-ba-đia,
con trai người, tiếp theo người; trong ban người có hai vạn bốn ngàn người.
8. Ban trưởng thứ năm về tháng năm, là Sa-mê-hút, người Gít-ra; trong ban người
có hai vạn bốn ngàn người.
9. Ban trưởng thứ sáu về tháng sáu, là Y-ra, con trai Y-ke, ở Thê-cô-a; trong
ban người có hai vạn bốn ngàn người.
10. Ban trưởng thứ bảy về tháng bảy, là Hê-lết, người chi phái Ép-ra-im ở
Pha-lôn; trong ban người có hai vạn bốn ngàn người.
11. Ban trưởng thứ tám về tháng tám, là Si-bê-cai, ở Hu-sa, thuộc về dòng
Xê-rách; trong ban người có hai vạn bốn ngàn người.
12. Ban trưởng thứ chín về tháng chín, là A-bi-ê-xe, người chi phái Bên-gia-min,
ở A-na-tốt; trong ban người có hai vạn bốn ngàn người.
13. Ban trưởng thứ mười về tháng mười, là Ma-ha-rai, về dòng Xê-rách ở
Nê-tô-pha; trong ban người có hai vạn bốn ngàn người.
14. Ban trưởng thứ mười một về tháng mười một, là Bê-na-gia, người chi phái
Ép-ra-im, ở Phi-ra-thôn; trong ban người có hai vạn bốn ngàn người.
15. Ban trưởng thứ mười hai về tháng chạp, là Hiên-đai, về dòng Ốt-ni-ên, ở
Nê-tô-pha; trong ban người có hai vạn bốn ngàn người.
16. Ðây là các người cai quản các chi phái Y-sơ-ra-ên: Ê-li-ê-xe, con trai
Xiếc-ri, cai quản người Ru-bên; người cai quản người Si-mê-ôn, là Sê-pha-tia,
con trai Ma-a-ca;
17. người cai quản chi phái Lê-vi là Ha-sa-bia, con trai của Kê-mu-ên; còn
Xa-đốc cai quản con cháu A-rôn;
18. người cai quản Giu-đa là Ê-li-hu, anh em của Ða-vít; người cai quản Y-sa-ca
là Ôm-ri, con trai của Mi-ca-ên;
19. người cai quản Sa-bu-lôn là Dít-ma-hia, con trai của Ô-ba-đia; người cai
quản Nép-ta-li là Giê-ri-mốt, con trai của A-ri-ên;
20. người cai quản con cháu Ép-ra-im là Ô-sê, con trai của A-xa-xia; người cai
quản nửa chi phái Mê-na-se là Giô-ên, con trai Phê-đa-gia;
21. người cai quản nửa chi phái Mê-na-se, tại xứ Ga-la-át, là Gi-đô, con trai
của Xa-cha-ri, người cai quản Bên-gia-min là Gia-a-xi-ên, con trai Áp-ne;
22. người cai quản Ðan là A-xa-rên, con trai của Giê-rô-ham. Ấy đó là các trưởng
của các chi phái Y-sơ-ra-ên.
23. Ða-vít không lấy số dân Y-sơ-ra-ên từ hai mươi tuổi sấp xuống, bởi vì Ðức
Giê-hô-va có hứa rằng sẽ làm tăng lên Y-sơ-ra-ên đông như sao trên trời.
24. Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia, khởi lấy số, nhưng không xong được; vì cớ
việc đó nên có cơn thịnh nộ giáng họa trên Y-sơ-ra-ên; và số tu bộ ấy không nhập
vào số của sử ký vua Ða-vít.
25. Ách-ma-vết, con trai A-đi-ên, cai các khung thành của vua; Giô-na-than, con
trai U-xi-gia, cai các khung thành ở đồng ruộng, ở trong các thành phố, trong
những làng và trong những đồn.
26. Ết-ri, con trai Kê-lúp, cai các kẻ lo làm ruộng cày đất;
27. Sim-ri, người Ra-ma, coi sóc các vườn nho; còn Xáp-đi, người Sê-pham, coi
sóc kho rượu trong vườn nho;
28. Banh-Ha-nan, người Ghê-đe, coi sóc các cây ô-li-ve và cây sung mọc trong xứ
đồng bằng; còn Giô-ách coi sóc các kho dầu;
29. Sít-trai, người Sa-rôn; còn Sa-phát, con trai Át-lai, coi sóc các bầy bò ở
trong trũng;
30. Ô-binh, người Ích-ma-ên, coi sóc các lạc đà; Giê-đia, người Mê-rô-nốt, coi
sóc các lừa cái; Gia-xít, người Ha-ga-rít, coi sóc các bầy chiên.
31. Các người đó đều là kẻ cai quản các sản nghiệp của vua Ða-vít.
32. Giô-na-than, cậu của Ða-vít, làm mưu sĩ, là một người thông sáng và làm quan
ký lục; còn Giê-hi-ên con trai của Hác-mô-ni, làm giáo sư các vương tử.
33. A-hi-tô-phên làm mưu sĩ của vua; Hu-sai, người Ạt-kít, là bạn hữu của vua.
34. Sau A-hi-tô-phên có Giê-hô-gia-đa, con trai của Bê-na-gia, và A-bia-tha.
Giô-áp làm quan tướng đội binh của vua.
1 Sử-Ký 28
chọn đoạn khác
1. Ða-vít hiệp lại tại Giê-ru-sa-lem hết thảy các quan trưởng Y-sơ-ra-ên, các
tộc trưởng của các chi phái, các ban trưởng phục sự vua, các quan tướng cai ngàn
quân và trăm quân, các kẻ cai quản sản nghiệp của vua và của các con trai người,
luôn với các hoạn quan và những người mạnh dạn.
2. Vua Ða-vít đứng dậy nói rằng: Hỡi các anh em và dân sự ta, hãy nghe! Ta đã có
ý xây cất một cái đền an nghỉ cho hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va, cho cái bệ
chân của Ðức Chúa Trời chúng ta; ta đã sắm thờ lạy cho sẵn đặng cất.
3. Nhưng Ðức Chúa Trời phán với ta rằng: Ngươi chớ cất đền cho danh ta, vì người
là một tay chiến sĩ, đã đổ huyết ra nhiều.
4. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có chọn ta từ trong cả nhà cha ta, làm
vua Y-sơ-ra-ên đời đời (vì Ngài đã chọn Giu-đa làm trưởng, và trong nhà Giu-đa,
chọn nhà của cha ta, Ngài vui lòng chọn ta, lập ta làm vua trên cả Y-sơ-ra-ên).
5. Vả, Ðức Giê-hô-va có ban cho ta nhiều con trai; trong các con trai ấy Ngài đã
chọn Sa-lô-môn, con trai ta, đặt ngồi trên ngôi nước Ðức Giê-hô-va, đặng cai trị
Y-sơ-ra-ên.
6. Ngài phán với ta rằng: Sa-lô-môn, con trai của ngươi, sẽ cất cái đền và các
hành lang của ta; vì ta đã chọn nó làm con trai ta, và ta sẽ làm cha nó.
7. Nếu người bền lòng làm theo các điều răn và luật lệ ta như ngày nay, thì ta
sẽ làm cho nước người được bền vững đời đời.
8. Vậy bây giờ, tại trước mặt cả Y-sơ-ra-ên, là hội chúng của Ðức Giê-hô-va,
đương có Ðức Chúa Trời chúng ta lắng tai nghe, ta xin các ngươi hãy tìm kiếm và
giữ gìn các điều răn của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của các ngươi, để các ngươi
nhận lấy xứ tốt tươi nầy và để lại cho con cháu các ngươi làm cơ nghiệp đời đời.
9. Còn ngươi, là Sa-lô-môn, con trai ta, hãy nhận biết Ðức Chúa Trời của cha,
hết lòng vui ý mà phục sự Ngài; vì Ðức Giê-hô-va dò xét tấm lòng, và phân biệt
các ý tưởng. Nếu con tìm kiếm Ngài, Ngài sẽ cho con gặp; nhưng nếu con lìa bỏ
Ngài, ắt Ngài sẽ từ bỏ con đời đời.
10. Bây giờ, khá cẩn thận; vì Ðức Giê-hô-va đã chọn con đặng xây cất một cái đền
dùng làm nơi thánh của Ngài: khá mạnh dạn mà làm.
11. Bấy giờ, Ða-vít trao cho Sa-lô-môn, con trai người, cái kiểu về hiên cửa, về
đền thờ, về các khung thành, về lầu gác, về phòng trong của đền thờ, và về nắp
thi ân;
12. lại chỉ các kiểu người nhờ Thánh Linh cảm động mà được, về các hành-lang của
đền Ðức Giê-hô-va, và về các phòng bốn phía, về những khung thành của đền Ðức
Chúa Trời, và về các kho để vật thánh;
13. về ban thứ của những thầy tế lễ và người Lê-vi; về các công việc của đền Ðức
Giê-hô-va, và về các thứ khí dụng trong đền Ðức Giê-hô-va;
14. cũng chỉ kiểu số cân về các khí dụng bằng vàng, dùng về mỗi thứ công việc,
và về các khí dụng bằng bạc, với số cân nó, dùng về mỗi thứ công việc;
15. lại chỉ số cân về những chân đèn bằng vàng, và về những thếp đèn vàng của
nó, theo cân nổi của mỗi chân và thếp nó; số cân về những chân đèn bằng bạc,
theo cân nổi của mỗi chân và thếp nó, tùy cách dùng của mỗi chân đèn.
16. Người cũng chỉ số cân về các ban để bánh trần thiết, và bạc về những bàn
bằng bạc;
17. chỉ kiểu về nỉa, chậu, và ly bằng vàng ròng; về chén vàng, và số cân của mỗi
cái; về những chén bạc, và số cân của mỗi cái.
18. Lại chỉ kiểu về bàn thờ xông hương bằng vàng thét, có số cân, và kiểu về xe,
về các chê-ru-bin sè cánh ra che trên hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va.
19. Ða-vít nói rằng: Kiểu mẫu về các công việc nầy, ta nhờ tay của Ðức Giê-hô-va
chép ra, khiến cho ta hiểu biết vậy.
20. Ða-vít lại nói với Sa-lô-môn, con trai mình rằng: Hãy vững lòng bền chí mà
làm; chớ sợ sệt, chớ kinh hãi chi, vì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời, tức là Ðức Chúa
Trời của cha, vẫn ở cùng con; Ngài chẳng hề từ bỏ con, cũng chẳng hề lìa khỏi
con cho đến chừng các công việc cất đền của Ðức Giê-hô-va được xong.
21. Kìa, có các ban thứ của những thầy tế lễ và người Lê-vi, đặng làm các công
việc của đền Ðức Chúa Trời; lại còn có những người vui ý, thông thạo về các
nghề, đặng giúp làm mọi thứ công việc; các quan trưởng và cả dân sự đều sẽ vâng
theo mạng lịnh của con.
1 Sử-Ký 29
chọn đoạn khác
1. Ða-vít nói với cả hội chúng rằng: Sa-lô-môn, con trai ta, chỉ một mình con đó
mà Ðức Chúa Trời đã chọn, hãy còn trẻ tuổi non-nớt, và công việc lại lớn lao; vì
cái đền đó chẳng phải cho loài người đâu, bèn là cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời.
2. Ta đã hết sức sắm cho đền của Ðức Chúa Trời ta, nào vàng dùng về đồ làm bằng
vàng, nào bạc dùng về đồ làm bằng bạc, nào đồng dùng về đồ làm bằng đồng, nào
sắt dùng về đồ làm bằng sắt, nào gỗ dùng về đồ làm bằng gỗ, lại sắm những ngọc
bích, ngọc để khảm, ngọc chiếu sáng, ngọc đủ các màu, và các thứ đá quí, cùng đá
cẩm thạch trắng rất nhiều.
3. Lại, vì lòng ta yêu mến đền của Ðức Chúa Trời, nên ngoại trừ số ta đã sắm cho
đền thánh, ta cũng dâng cho đền của Ðức Chúa Trời ta các đồ bằng vàng và bằng
bạc thuộc riêng về ta,
4. tức là ba ngàn ta lâng vàng Ô-phia, và bảy ngàn ta lâng bạc thét, đặng dùng
bọc các vách đền;
5. vàng dùng về các việc làm bởi tay người thợ. Vậy ngày nay, ai là người vui
lòng dâng mình cho Ðức Giê-hô-va?
6. Bấy giờ, các trưởng tộc, các trưởng của các chi phái Y-sơ-ra-ên, các quan
tướng cai ngàn người và trăm người, các kẻ coi sóc công việc của vua, bèn vui
lòng,
7. dâng về công việc đền Ðức Chúa Trời, năm ngàn ta lâng vàng, mười ngàn
đa-riếc, mười ngàn ta lâng bạc, mười tám ngàn ta lâng đồng, và một trăm ngàn ta
lâng sắt.
8. Phàm ai có đá quí, thì giao cho Giê-hi-ên về dòng Ghẹt-sôn, để dâng vào kho
của Ðức Giê-hô-va.
9. Dân sự lấy làm vui mừng về điều mình trọn lòng vui ý dâng cho Ðức Giê-hô-va;
và vua Ða-vít cũng lấy làm vui mừng lắm.
10. Tại trước mặt cả hội chúng, Ða-vít chúc tạ Ðức Giê-hô-va mà rằng: Hỡi
Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, tổ phụ chúng tôi ôi! đáng chúc tạ Ngài
cho đến đời đời vô cùng!
11. Hỡi Ðức Giê-hô-va sự cao cả, quyền năng, vinh quang, toàn thắng, và oai nghi
đáng qui về Ngài; vì muôn vật trên các từng trời và dưới đất đều thuộc về Ngài.
Ðức Giê-hô-va ôi! nước thuộc về Ngài; Ngài được tôn cao làm Chúa tể của muôn
vật.
12. Hoặc sự giàu có, hoặc sự vinh quang, đều do Chúa mà đến, và Chúa quản trị
trên muôn vật; quyền năng và thế lực ở nơi tay Chúa; tay Chúa khiến cho được tôn
trọng và ban sức mạnh cho mọi người.
13. Bây giờ, Ðức Chúa Trời chúng tôi ôi! chúng tôi cảm tạ Chúa và ngợi khen danh
vinh hiển của Ngài.
14. Nhưng tôi là ai, và dân sự tôi là gì, mà chúng tôi có sức dâng cách vui lòng
như vậy? Vì mọi vật đều do nơi Chúa mà đến; và những vật chúng tôi đã dâng cho
Chúa chẳng qua là đã thuộc về Chúa.
15. Vì chúng tôi tại trước mặt Chúa vốn là kẻ lạ, và kẻ ở đậu như các tổ phụ
chúng tôi; các ngày chúng tôi tại trên đất, khác nào cái bóng, không mong ở lâu
được.
16. Hỡi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng tôi ôi! các vật nầy mà chúng tôi đã sắm
sửa để cất đền cho danh thánh của Chúa, đều do nơi tay Chúa mà đến, và thảy đều
thuộc về Chúa.
17. Ôi Ðức Chúa Trời tôi! tôi biết rằng Chúa dò xét lòng người ta, và Chúa vui
vẻ về sự ngay thẳng. Về phần tôi, tôi cứ theo sự ngay thẳng của lòng tôi mà vui
lòng dâng các vật nầy; và bây giờ tôi lấy làm vui mừng mà thấy dân sự Chúa ở đây
cũng có dâng cho Chúa cách vui lòng.
18. Hỡi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của Y-sác, và của Y-sơ-ra-ên, tổ
phụ của chúng tôi ôi! xin hãy cho dân sự Chúa giữ luôn luôn một tâm ý ấy trong
lòng, và làm cho lòng chúng chiều theo về Chúa.
19. Xin Chúa hãy ban cho Sa-lô-môn, con trai tôi, một lòng trọn vẹn, để gìn giữ
các điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Chúa, cùng làm cho các công việc nầy, xây
cất cái đền mà tôi đã sắm sửa thờ lạy cho.
20. Ða-vít nói với cả hội chúng rằng: Hãy chúc tạ Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của
các ngươi. Cả hội chúng bèn chiến trận Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ mình,
cúi đầu xuống mà thờ lạy Ðức Giê-hô-va, và lạy vua.
21. Qua ngày sau, chúng dâng những tế lễ cho Ðức Giê-hô-va, và dâng những của lễ
thiêu cho Ðức Giê-hô-va: một ngàn con bò đực, một ngàn con chiên đực, một ngàn
con chiên con, cùng các lễ quán cặp theo, và nhiều của tế lễ khác vì cả dân
Y-sơ-ra-ên;
22. trong ngày ấy, chúng ăn uống rất vui mừng tại trước mặt Ðức Giê-hô-va; chúng
lần thứ nhì tôn Sa-lô-môn, con trai Ða-vít, làm vua, và nhơn Ðức Giê-hô-va xức
dầu cho người làm vua chúa, và lập Xa-đốc làm thầy tế lễ.
23. Bấy giờ, Sa-lô-môn ngồi lên trên ngôi của Ðức Giê-hô-va, làm vua thế cho
Ða-vít, cha người, và người được hưng thạnh; cả Y-sơ-ra-ên đều vâng theo mạng
người.
24. Các quan trưởng, và người mạnh dạn, luôn với các con trai của vua Ða-vít,
đều phục tùng vua Sa-lô-môn.
25. Ðức Giê-hô-va khiến cho Sa-lô-môn được rất coi trọng tại trước mặt cả
Y-sơ-ra-ên, và ban cho người được oai nghiêm, đến đỗi trong Y-sơ-ra-ên chẳng có
một vua nào trước người được như vậy.
26. Ða-vít, con trai Y-sai, cai trị trên cả Y-sơ-ra-ên.
27. Người cai trị trên Y-sơ-ra-ên bốn mươi năm: tại Hếp-rôn, người cai trị bảy
năm, và tại Giê-ru-sa-lem, người cai trị ba mươi ba năm.
28. Người băng hà tuổi cao, thỏa nguyện về đời mình, về sự giàu có, và về vinh
hiển; Sa-lô-môn, con trai người, cai trị thế cho người.
29. Các công việc của vua Ða-vít, từ đầu đến cuối, đều chép trong sách của
Sa-mu-ên, đấng tiên kiến, trong sách của Na-than, đấng tiên tri, và trong sách
của Gát, đấng tiên kiến;
30. cuộc trị vì người, sự mạnh dạn người, các việc xảy ra cho người, cho dân
Y-sơ-ra-ên, và cho các nước khác, đều đã chép trong các sách ấy.