[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22] [23] [24] [25] [26] [27] [28] [29] [30] [31] [32] [33] [34] [35] [36]
2 Sử-Ký 1
chọn đoạn khác
1. Sa-lô-môn, con trai Ða-vít, được vững bền trong nước mình; Giê-hô-va Ðức Chúa
Trời người ở cùng người, và làm cho người rất thạnh vượng.
2. Sa-lô-môn truyền bảo cả Y-sơ-ra-ên, các quan tướng ngàn người và trăm người,
các quan xét và hết thảy các trưởng trong Y-sơ-ra-ên, là các trưởng tộc, phải
đến;
3. đoạn, Sa-lô-môn và cả hội chúng đều đi lên nơi cao tại Ga-ba-ôn; vì ở đó có
hội mạc của Ðức Chúa Trời, mà Môi-se, tôi tớ của Ðức Giê-hô-va, đã làm nơi đồng
vắng
4. (nhưng Ða-vít đã rước hòm Ðức Chúa Trời từ Ki-ri-át-Giê-a-rim lên đến nơi
người đã dọn sẵn cho hòm; vì người đã dựng cho hòm ấy một cái trại tại
Giê-ru-sa-lem).
5. Vả, ở trước đền tạm của Ðức Giê-hô-va có bàn thờ đồng mà Bết-sa-lê-ên, con
trai U-ri, cháu Hu-rơ, đã làm; Sa-lô-môn và hội chúng đều đến nơi đó.
6. Sa-lô-môn đặt ở trước mặt Ðức Giê-hô-va tại hội mạc, và dâng một ngàn của lễ
thiêu trên bàn thờ ấy.
7. Chánh đêm ấy, Ðức Chúa Trời hiện đến cùng Sa-lô-môn, mà phán rằng: Ngươi muốn
ta ban cho điều gì, hãy xin đi.
8. Sa-lô-môn thưa cùng Ðức Chúa Trời rằng: Chúa đã ban ơn rộng cho Ða-vít, cha
tôi, và đã đặt tôi làm vua thế cho người.
9. Lạy Giê-hô-va Ðức Chúa Trời, bây giờ nguyện cho lời Chúa hứa cùng Ða-vít, cha
tôi, được ứng nghiệm; vì Chúa đã lập tôi lên làm vua dân sự này đông như bụi đất.
10. Vậy, xin Chúa ban cho tôi sự khôn ngoan và tri thức, để tôi ra vào trước mặt
dân sự này; vì ai dễ xét đoán được dân của Chúa rất đông dường kia?
11. Ðức Chúa Trời phán với Sa-lô-môn rằng: Ta đã lập ngươi làm vua dân sự ta; vả,
vì ngươi có lòng như vậy, không có cầu xin sự giàu có, của cải, tôn vinh, hay là
mạng sống của những kẻ ghen ghét ngươi, và cũng chẳng có xin sự sống nhưng lại
cầu xin sự khôn ngoan và tri thức cho mình, để xét đoán dân sự ta,
12. nên ta đã ban sự khôn ngoan và tri thức cho ngươi; ta lại sẽ ban cho ngươi
sự giàu có, của cải, tôn vinh, đến đỗi các vua trước ngươi không hề có như vậy,
và sau ngươi cũng sẽ chẳng có vua nào được như thế.
13. Ðoạn, Sa-lô-môn từ nơi cao tại Ga-ba-ôn, ở trước hội mạc, trở về
Giê-ru-sa-lem; và người cai trị Y-sơ-ra-ên.
14. Sa-lô-môn nhóm những xe và lính kỵ, được một ngàn bốn trăm cỗ xe, và mười
hai ngàn lính kỵ; người để nó trong thành chứa xe, và gần nơi vua tại
Giê-ru-sa-lem.
15. Vua làm cho bạc vàng trong Giê-ru-sa-lem ra thường như đá sỏi, và cây bá
hương nhiều như cây sung nơi đồng bằng.
16. Còn ngựa của Sa-lô-môn đều từ Ê-díp-tô mà ra; các con buôn của vua đi lãnh
mua nó từng bầy, mỗi bầy theo giá nhất định.
17. Người ta từ xứ Ê-díp-tô mua đem lên một cái xe giá sáu trăm siếc-lơ bạc, còn
một con ngựa giá một trăm năm mươi siếc-lơ; các vua dân Hê-tít và vua Sy-ri cũng
theo giá ấy nhờ những con buôn của vua mà mua về.
2 Sử-Ký 2
chọn đoạn khác
1. Vả, Sa-lô-môn định cất một cái đền cho danh Ðức Giê-hô-va, và một cái cung
cho nước mình.
2. Sa-lô-môn bèn lựa bảy vạn người bưng gánh, tám vạn người thợ đẽo đá trên núi,
và ba ngàn sáu trăm người đốc công.
3. Sa-lô-môn sai đến Hi-ram, vua Ty-rơ, mà nói rằng: Vua đã hậu đãi Ða-vít, cha
tôi, cung cấp cây bá hương cho người đặng cất cái cung để người ở; xin vua cũng
hãy đãi tôi như thế.
4. Này tôi toan cất một đền cho danh Giê-hô-va Ðức Chúa Trời tôi, biệt đền ấy
riêng ra thánh cho Ngài, đặng xông nhũ hương trước mặt Ngài, bày bánh trần thiết
luôn luôn, dâng của lễ thiêu về buổi sáng và về buổi chiều, hoặc trong ngày
sa-bát, ngày mồng một, hay là trong những ngày lễ định của Giê-hô-va Ðức Chúa
Trời chúng tôi; đều đó vốn là một lệ định cho Y-sơ-ra-ên đến đời đời.
5. Ðức Chúa Trời chúng tôi vốn cao sang, vượt qua hết các thần; nên cái đền tôi
toan cất sẽ nguy nga.
6. Chớ thì ai có sức xây cất cho Chúa một cái đền; vì trời và đến đỗi trời của
các từng trời còn chẳng chứa Ngài được thay! Vậy tôi là ai, mà cất được một cái
đền cho Chúa? Cất nó chẳng qua là để xông hương tại trước mặt Ngài đó thôi.
7. Vậy, bây giờ, vua hãy sai đến cùng tôi một người giỏi về nghề chế đồ vàng,
bạc, đồng, sắt, thạo dệt bằng chỉ tím, đỏ và xanh, cùng biết chạm trổ đủ nghề,
để làm việc với những người tài giỏi ở bên tôi, tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, mà
Ða-vít, cha tôi, đã sắm sẵn.
8. Cũng hãy lấy ở Li-ban gỗ bá hương, gỗ tòng, và gỗ bạch đàn hương mà gởi đến
cho tôi vì tôi vẫn biết rằng các tôi tớ vua đều thạo đốn cây trên Li-ban; này
các tôi tớ tôi cũng sẽ giúp đỡ các tôi tớ vua,
9. đặng lo đốn sắm sửa cây gỗ cho nhiều; vì cái đền mà tôi toan cất sẽ nguy nga
lạ kỳ.
10. Tôi sẽ cấp cho các tôi tớ vua, là những kẻ đốn cây, hai vạn cô-rơ lúa miếng
rĩa rồi, hai vạn cô-rơ lúc mạch, hai vạn bát rượu, và hai vạn bát dầu.
11. Hi-ram, vua Ty-rơ, bèn viết thơ gởi cho Sa-lô-môn, mà rằng: Vì cớ Ðức
Giê-hô-va yêu thương dân sự mình, nên Ngài đã lập vua làm vua trên chúng.
12. Hi-ram lại nói: Ngợi khen Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Ðấng
dựng nên trời đất, vì Ngài đã ban cho vua Ða-vít một con trai khôn ngoan, dẽ
dặt, thông minh, để cất một cái đền cho Ngài và một cái cung cho nước người.
13. Bây giờ, tôi sai đến cho vua một người khéo, có trí thông sáng, là
Hu-ram-A-bi,
14. con trai của người đờn bà về chi phái Ðan, cha người là dân Ty-rơ; người
giỏi về nghề chế đồ vàng, bạc, đồng, sắt, đá, và gỗ, thạo dệt chỉ tím, xanh và
đỏ sậm, cùng chỉ gai trắng xe mịn, cũng biết làm các thứ chạm trổ, và tạo ra đủ
thứ vật xảo mà người ta sẽ biểu nó làm. Nó sẽ làm việc với những thợ khéo của
thân phụ vua là Ða-vít chúa tôi.
15. Vậy bây giờ xin chúa tôi hãy gởi cho các tôi tớ chúa lúa miến, lúa mạch,
dầu, và rượu, mà chúa tôi đã nói đến;
16. còn chúng tôi sẽ đốn gỗ tại trên Li-ban theo số bao nhiêu vua cần dùng, rồi
kết thành bè đem ra biển đến Gia-phô; đoạn vua sẽ chở lên Giê-ru-sa-lem.
17. Sa-lô-môn bèn điểm soát các người ngoại quốc ở trong nước Y-sơ-ra-ên, tùy
theo số Ða-vít, cha người, đã điểm soát; thấy được mười lăm vạn ba ngàn sáu trăm
người.
18. Trong số đó người đặt bảy vạn người làm kẻ khiêng gánh, tám vạn người đẽo đá
trên núi, và ba ngàn sáu trăm người đốc công, đặng sai khiến dân chúng làm việc.
2 Sử-Ký 3
chọn đoạn khác
1. Sa-lô-môn khởi cất đền Ðức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, trên núi Mô-ri-a, là
nơi Ðức Giê-hô-va đã hiện ra cùng Ða-vít, cha người, tại trên chỗ mà Ða-vít đã
dọn, tức là trong sân đạp lúa của Ọt-na, người Giê-bu-sít.
2. Sa-lô-môn khởi xây cất nhằm ngày mồng hai tháng hai, năm thứ tư đời người trị
vì.
3. Nầy là nền Sa-lô-môn đã lập đặng cất đền của Ðức Chúa Trời: bề dài, theo
thước xưa, là sáu mươi thước, và bề ngang hai mươi thước.
4. Hiên cửa ở phía trước, bề dài hai mươi thước, y như bề ngang của đền vậy, và
bề cao một trăm hai mươi thước; người bọc bề trong bằng vàng ròng.
5. Cái vách đền lớn, người lợp bằng gỗ bá hương, và bọc vàng ròng, chạm hình cây
chà là và dây xích ở trên.
6. Người lót đền bằng đá quí đặng trang sức nó; vàng là vàng Phạt-va-im.
7. Người lại bọc vàng cái đền, mè, ngạch cửa, vách, và cửa của đền, còn trên
vách thì chạm hình chê-ru-bin.
8. Người cũng làm nơi chí thánh: bề dài hai mươi thước, y như bề ngang của đền,
và bề ngang cũng hai mươi thước; người bọc nơi ấy bằng vàng ròng; vàng dùng cọng
đặng sáu trăm ta lâng.
9. Những đinh vàng cân nặng năm mươi siếc lơ; người cũng bọc vàng các phòng cao.
10. Tại trong nơi chí thánh, người làm hai chê-ru-bin, cứ phép trổ tượng, rồi
bọc vàng.
11. Bốn cánh của hai chê-ru-bin dài hai mươi thước; cánh này của chê-ru-bin bên
hữu dài năm thước, đụng đến vách đền, còn cánh kia cũng dài năm thước, và đụng
cánh của chê-ru-bin bên tả.
12. Cánh này của chê-ru-bin về bên tả dài năm thước, và đụng đến vách đền, còn
cánh kia cũng dài năm thước, tiếp giáp với cánh chê-ru-bin về bên hữu.
13. Các cánh của hai chê-ru-bên đều sè ra, cọng dài hai mươi thước; hai
chê-ru-bin đứng thẳng chơn lên, ngảnh mặt hướng về nơi thánh.
14. Người lại chế bức màn bằng chỉ màu xanh, màu tím, màu đỏ sặm, cùng chỉ gai
xe mịn, rồi ở trên thêu hình chê-ru-bin.
15. Ðằng trước đền, người xây hai cây trụ, bề cao ba mươi lăm thước, đầu trụ ở
trên chót hai trụ được năm thước.
16. Người lại làm dây xích giống như dây xích trong nơi chí thánh, để trên chót
trụ, rồi làm một trăm trái lựu mà gắn nơi dây xích ấy.
17. Người dựng hai trụ đó ở trước đền thờ, cây nầy bên hữu, cây kia bên tả; đặt
tên cây bên hữu là Gia-kin và cây bên tả là Bô-ách.
2 Sử-Ký 4
chọn đoạn khác
1. Người lại làm một cái bàn thờ đồng, bề dài hai mươi thước, bề ngang hai mươi
thước và bề cao mười thước.
2. Người làm một cái biển đúc, từ mép này qua mép kia được mười thước, tròn tứ
vi, và cao năm thước; một sợi dây ba mươi thước vấn chung quanh nó.
3. Ở dưới vòng chung quanh biển, có hình giống con bò, mỗi thước mười con, làm
hai hàng, đúc một lượt với biển.
4. Biển để kê trên mười hai tượng con bò, ba con xây về hướng bắc, ba con xây về
hướng tây, ba con xây về hướng nam, và ba con xây về hướng đông; biển ở trên các
con bò ấy, thân sau chúng nó đều quay vào trong.
5. Bề dày biển một gang, mép nó như mép cái chén, làm tợ hoa huệ nở; chứa được
ba ngàn bát.
6. Người cũng làm mười cái thùng, để năm cái bên hữu và năm cái bên tả đặng rửa
tại đó; người ta rửa trong đó vật gì thuộc về của lễ thiêu; còn những thầy tế lễ
đều tắm rửa trong biển đúc.
7. Người làm mười cái chơn đèn bằng vàng, theo kiểu đã định; rồi để nó trong đền
thờ, năm cái bên hữu, năm cái bên tả.
8. Lại đóng mười cái bàn, để trong đền thờ, năm cái bên hữu, và năm cái bên tả.
Rồi làm một trăm cái chậu bằng vàng.
9. Người cũng làm hành lang cho thầy tế lễ, và cái sân rộng, các cửa của sân,
rồi bọc đồng các cánh cửa ấy.
10. Người để cái biển ở bên hữu đền, hướng đông về phía nam.
11. Hu-ram lại làm những bình tro, vá, và chậu. Hu-ram làm xong công việc người
đã vì Sa-lô-môn làm trong đền của Ðức Chúa Trời:
12. tức hai cây trụ ở trên chót trụ; hai cái đầu trụ ở trên chót trụ; hai tấm
lưới bao hai cái bầu của đầu trụ ở trên chót trụ;
13. bốn trăm trái lựu gắn vào hai tấm lưới, mỗi tấm có hai hàng trái lựu, đặng
bao hai cái bầu của đầu trụ ở trên chót trụ.
14. Người cũng làm táng, và cái thùng ở trên táng;
15. đúc một cái biển và mười hai con bò ở dưới nó;
16. chế những bình tro, vá, nỉa, và các đồ lề nó; Hu-ram-A-bi vì Sa-lô-môn làm
các đồ đó bằng đồng trơn láng, đặng dùng trong đền của Ðức Giê-hô-va.
17. Vua truyền đúc các đồ ấy nơi đồng bằng Giô-đanh, dưới đất sét, giữa Su-cốt
và Xê-rê-đa.
18. Vua Sa-lô-môn chế các đồ ấy thật nhiều lắm; còn số cân của đồng thì người ta
không biết.
19. Sa-lô-môn làm hết thảy các đồ lề trong đền Ðức Chúa Trời: bàn thờ vàng,
những cái bàn dùng sắp bánh trần thiết,
20. chơn đèn, và cái thếp nó bằng vàng ròng đặng thắp trước nơi chí thánh, theo
lệ đã định;
21. cũng làm các hoa, thếp, và nỉa bằng vàng ròng;
22. những dao, chậu, chén, lư hương, cũng bằng vàng ròng; và nơi vào đền, các
cánh cửa đền trong của nơi chí thánh, cùng các cánh cửa của đền thờ cũng đều
bằng vàng.
2 Sử-Ký 5
chọn đoạn khác
1. Ấy vậy, các công việc mà Sa-lô-môn làm cho đền của Ðức Giê-hô-va đều xong
rồi. Sa-lô-môn đem đến những vật mà Ða-vít, cha người, đã biệt riêng ra thánh,
tức là bạc, vàng, và các khí dụng, để vào kho của đền Ðức Chúa Trời.
2. Sa-lô-môn bèn nhóm tại Giê-ru-sa-lem các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, các trưởng
của các chi phái, và các trưởng tộc dân Y-sơ-ra-ên, các trưởng của các chi phái,
và các trưởng tộc dân Y-sơ-ra-ên, đặng rước hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va lên
từ thành Ða-vít, là Si-ôn.
3. Mọi người Y-sơ-ra-ên đều nhóm lại đến cùng vua nhằm kỳ lễ tháng bảy.
4. Các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đều đến, và người Lê-vi khiêng hòm đi.
5. Những thầy tế lễ và người Lê-vi đều đem lên cái hòm, hội mạc, và các khí dụng
thánh vốn ở trong trại.
6. Vua Sa-lô-môn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đã nhóm lại với vua, đều đứng trước
hòm, dâng những chiên và bò làm của lễ nhiều, vô số không thể đếm được.
7. Những thầy tế lễ đem hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va vào nơi dọn cho hòm, tức
trong nơi chí thánh của đền, dưới cánh chê-ru-bin.
8. Hai chê-ru-bin sè cánh ra trên chỗ hòm, che hòm và đòn khiêng.
9. Ðòn khiêng thì dài, nên đầu đòn thấy ló ra ngoài hòm, trước nơi chí thánh;
nhưng ở ngoài đền thì chẳng thấy; hòm vẫn ở đó cho đến ngày nay.
10. Chẳng có gì trong hòm, trừ ra hai bảng luật pháp mà Môi-se đã để vào tại
Hô-rếp, khi Ðức Giê-hô-va lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, lúc chúng ra khỏi
Ê-díp-tô.
11. Khi những thầy tế lễ ra khỏi nơi thánh (vì phàm thầy tế lễ ở đó đều đã dọn
mình ra thánh sạch, mà chưa giữ theo ban thứ nào),
12. và các người ca hát trong dân Lê-vi, tức A-sáp, Hê-nan, Giê-đu-thun, cùng
con trai và anh em họ, đương mặc quần áo bằng vải gai mịn, cầm chập chỏa, đờn
sắt, và đờn cầm, đều đứng ở phía đông bàn thờ, với một trăm hai mươi thầy tế lễ
thổi kèn.
13. Xảy khi kẻ thổi kèn và kẻ ca hát đồng thinh hòa nhau như một người, mà khen
ngợi cảm tạ Ðức Giê-hô-va, và khi họ trổi tiếng kèn, chập chỏa, nhạc khí lên
khen ngợi Ðức Giê-hô-va, rằng: Ngài từ thiện, lòng thương xót Ngài hằng có đời
đời, thì đền của Ðức Giê-hô-va bị mây lấp đầy;
14. đến đỗi những thầy tế lễ vì mây không thể đứng đó hầu việc được, vì sự vinh
hiển của Ðức Giê-hô-va đầy lấp đền của Ðức Chúa Trời.
2 Sử-Ký 6
chọn đoạn khác
1. Bấy giờ, Sa-lô-môn nói rằng: Ðức Giê-hô-va đã phán rằng Ngài sẽ ngự trong nơi
tối thẳm.
2. Nhưng tôi đã cất một cái đền cho Chúa trú ngụ, một nơi cho Chúa ở đời đời.
3. Ðoạn vua xây mặt lại chúc phước cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên cả hội chúng
Y-sơ-ra-ên đều đứng.
4. Người nói: Ðáng ngợi khen Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Ðấng đã
phán hứa với Ða-vít, cha tôi, và nay lấy tay Ngài mà làm cho thành lời hứa ấy;
Ngài rằng:
5. Từ ngày ta đem dân ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô, ta chưa chọn một thành nào trong
các chi phái Y-sơ-ra-ên đặng cất một cái đền, để đặt danh ta tại đó, và ta cũng
chẳng chọn người nào làm vua chúa trên dân Y-sơ-ra-ên ta;
6. nhưng ta đã chọn Giê-ru-sa-lem, để đặt danh ta tại đó, và chọn Ða-vít đặng
cai trị dân Y-sơ-ra-ên ta.
7. Vả, Ða-vít, cha tôi, đã rắp lòng xây đền cho danh Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên.
8. Nhưng Ðức Giê-hô-va phán với Ða-vít, cha tôi, rằng: Ngươi có rắp lòng cất một
cái đền cho danh ta, ấy thật phải lắm;
9. dầu vậy, ngươi sẽ chẳng cất đền ấy; song con trai ngươi sanh ra sẽ cất cái
đền cho danh ta.
10. Ðức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán, khiến tôi kế cho Ða-vít, cha
tôi, lên ngôi trị vì Y-sơ-ra-ên, y như Ðức Giê-hô-va đã hứa: nên tôi có cất đền
cho danh Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,
11. và tại đền ấy đã đặt cái hòm đựng giao ước của Ðức Giê-hô-va mà Ngài lập với
dân Y-sơ-ra-ên.
12. Sa-lô-môn đương đứng trước bàn thờ của Ðức Giê-hô-va, đối mặt cả hội chúng
Y-sơ-ra-ên, giơ tay mình ra
13. (vì người đã đóng một cái sạp bằng đồng, bề dài năm thước, bề ngang năm
thước, bề cao ba thước, để tại giữa hành lang; người đứng tại đó, quì gối xuống
trước mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ tay lên trên trời),
14. mà rằng: Lạy Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! trên trời và dưới đất,
chẳng có thần nào giống như Chúa. Chúa gìn giữ lời giao ước và lòng nhơn từ đối
với kẻ tôi tớ Chúa, là kẻ hết lòng đi trước mặt Chúa;
15. đối với tôi tớ Chúa là Ða-vít cha tôi, Chúa có gìn giữ lời Chúa đã hứa với
người: Thật hễ điều gì miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm cho hoàn thành, y
như đã có ngày nay.
16. Vậy, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Chúa đã hứa cùng tôi tớ Chúa
là Ða-vít, cha tôi, rằng: Ví bằng con cháu ngươi cẩn thận đường lối mình, giữ
theo các luật pháp ta, y như ngươi đã làm, thì trước mặt ta ngươi sẽ chẳng hề
thiếu người ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên; nay cầu xin Chúa hãy giữ gìn lời hứa ấy.
17. Hỡi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! nguyện lời Chúa đã hứa cùng
Ða-vít, tôi tớ Chúa, được ứng nghiệm.
18. Mà chi! Có thật rằng Ðức Chúa Trời ngự chung với loài người ở trên đất ư?
Kìa trời, cho đến đỗi trời của các từng trời còn chẳng có thế chứa Chúa được
thay, phương chi cái đền nầy tôi đã cất!
19. Dầu vậy, hỡi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời tôi ôi! xin hãy đoái thương lời cầu
nguyện và sự nài xin của tôi tớ Chúa, nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện của tôi
tớ Chúa cầu trước mặt Chúa.
20. Nguyện mắt Chúa ngày và đêm đoái xem nhà này, vì về nhà này Chúa đã phán
rằng: sẽ đặt danh Chúa tại đó. Khi tôi tớ Chúa hướng nơi này mà cầu nguyện, xin
Chúa dủ nghe.
21. Phàm điều gì tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên sẽ cầu khẩn trong khi hướng về
nơi này, xin Chúa hãy dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.
22. Nếu ai phạm tội cùng kẻ lân cận mình, và người ta bắt nó phải thề, nếu nó
đến thề ở trước bàn thờ của Chúa tại trong đền này,
23. thì xin Chúa từ trên trời hãy nghe, thi hành, và xét đoán tôi tớ Chúa, mà
báo trả kẻ ác tùy việc nó làm, khiến tội nó đổ lại trên đầu nó, xưng công bình
cho người công bình, và thưởng người tùy sự công bình của người.
24. Nếu dân Y-sơ-re-ên của Chúa, vì phạm tội với Chúa, bị quân thù nghịch đánh
được, mà chúng trở lại cùng Chúa, nhận biết danh Ngài, và cầu nguyện nài xin
trước mặt Chúa trong đền này,
25. thì xin Chúa từ trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa,
và khiến họ trở về xứ mà Chúa đã ban cho họ và cho tổ phụ của họ.
26. Khi các từng trời đóng chặt, không có mưa, bởi vì dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội
với Chúa; nếu sau khi Chúa đã đoán phạt họ, họ hướng về nơi này mà cầu nguyện,
nhận biết danh Chúa, trở bỏ tội lỗi mình,
27. thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho kẻ tôi tớ Chúa và cho dân
Y-sơ-ra-ên của Ngài, khi Ngài đã dạy cho chúng con đường lành mà chúng phải đi
theo, và giáng mưa xuống trên đất mà Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
28. Nếu trong xứ có cơn đói kém, ôn dịch, đại hạn, ten sét, cào cào, hay là châu
chấu; hoặc kẻ thù nghịch vây hãm các thành trong địa phận họ; bất kỳ có tai vạ
gì, tật bịnh gì;
29. ví bằng có một người, hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa đã nhận biết tai vạ và
sự đau đớn của mình, mà giơ tay ra hướng về nhà này, cầu nguyện và khẩn xin vô
luận điều gì,
30. thì xin Chúa từ trên trời, là nơi ngự của Chúa, hãy dủ nghe, tha thứ cho, và
báo lại cho mỗi người tùy theo công việc họ, vì Chúa thông biết lòng của họ
(thật chỉ một mình Chúa biết được lòng của con cái loài người);
31. để khiến chúng kính sợ Chúa, đi theo đường lối của Chúa trọn đời chúng sống
ở trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi.
32. Vả lại, về người ngoại bang là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa,
nhưng vì danh lớn Chúa, vì cánh tay quyền năng giơ thẳng ra của Ngài, họ sẽ từ
xứ xa đi đến hướng về đền này mà cầu nguyện,
33. thì xin Chúa từ trên trời, là nơi ngự của Chúa; hầu cho muôn dân trên đất
nhận biết danh Chúa, kính sợ Ngài như dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và biết rằng cái
đền này mà tôi đã xây cất, được gọi bằng danh Chúa.
34. Khi dân sự Chúa ra chiến tranh với kẻ thù nghịch mình, theo đường nào mà
Chúa sẽ sai đi, nếu chúng cầu nguyện cùng Chúa, xây về hướng thành nầy mà Chúa
đã chọn, và về đền nầy mà tôi đã xây cất cho danh Chúa,
35. thì xin Chúa từ trên trời hãy dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của chúng, và
binh vực cho họ.
36. Nếu dân Y-sơ-ra-ên phạm tội với Chúa (vì chẳng có người nào mà không phạm
tội), và Chúa nổi giận, phó chúng cho kẻ thù nghịch, và kẻ thù nghịch bắt họ làm
phu tù dẫn đến xứ xa hay gần;
37. nếu trong xứ mà họ bị dẫn đến làm phu tù, họ suy nghĩ lại, ăn năn, và cầu
khẩn Chúa, mà rằng: Chúng tôi có phạm tội, làm điều gian ác và cư xử cách dữ
tợn,
38. nếu tại trong xứ mà kẻ thù nghịch đã dẫn họ đến làm phu tù, họ hết lòng hết
ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện cùng Ngài hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ
họ, về thành Chúa đã chọn, và về đền mà tôi đã xây cất cho danh Chúa,
39. thì xin Chúa từ trên trời, là nơi ngự của Chúa, hãy dủ nghe lời cầu nguyện
nài xin của chúng, binh vực họ, và tha thứ tội mà dân sự của Chúa đã phạm cùng
Ngài.
40. Vậy, Ðức Chúa Trời tôi ôi! bây giờ cầu xin Chúa đoái thương và lắng tai nghe
phàm lời nào cầu nguyện trong nơi này.
41. Nầy, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ôi! xin hãy chổi dậy, để Chúa và hòm quyền năng
Ngài được vào nơi an nghỉ Ngài! Lạy Giê-hô-va Ðức Chúa Trời! nguyện những thầy
tế lễ Chúa được mặc sự cứu rỗi, và các thánh đồ Chúa được mừng rỡ trong sự nhơn
từ Ngài!
42. Hỡi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời! xin chớ từ bỏ kẻ chịu xức dầu của Chúa; khá nhớ
lại các sự nhân từ của Chúa đối với Ða-vít, là kẻ tôi tớ Ngài.
2 Sử-Ký 7
chọn đoạn khác
1. Khi Sa-lô-môn cầu nguyện xong, lửa từ trời giáng xuống đốt của lễ thiêu và
các hi sinh, sự vinh quang của Ðức Giê-hô-va đầy dẫy trong đền.
2. Những thầy tế lễ chẳng vào được trong đền của Ðức Giê-hô-va, vì sự vinh quang
Ðức Giê-hô-va đầy dẫy đền của Ngài.
3. Hết thảy dân Y-sơ-ra-ên đều thấy lửa và sự vinh quang của Ðức Giê-hô-va giáng
xuống đền, bèn sấp mặt xuống đất trên nền lót, thờ lạy Ðức Giê-hô-va và cảm tạ
Ngài, mà rằng: Chúa là nhân từ, vì sự thương xót của Ngài còn đến đời đời!
4. Bấy giờ vua và cả dân sự dâng những của lễ tại trước mặt Ðức Giê-hô-va.
5. Vua Sa-lô-môn dâng hai vạn hai ngàn con bò và mười hai vạn con chiên đực. Rồi
vua và cả dân sự đều làm lễ khánh thành đền của Ðức Chúa Trời.
6. Những thầy tế lễ hầu việc theo chức phận mình; còn người Lê-vi thì cầm nhạc
khí của Ðức Giê-hô-va, mà vua Ða-vít đã sắm đặng ngợi khen Ðức Giê-hô-va Ngài,
bởi vì lòng nhân từ Chúa còn đến đời đời. Những thầy tế lễ thổi kèn ở trước mặt
chúng, và cả Y-sơ-ra-ên đều đứng.
7. Sa-lô-môn biệt riêng ra thánh chỗ ở chính giữa hành làng trước đền Ðức
Giê-hô-va; vì tại đó, người dâng của lễ thiêu và mỡ về của lễ thù ân, bởi cái
bàn thờ đồng mà Sa-lô-môn đã làm, không đựng hết của lễ thiêu, của lễ chay, và
mỡ được.
8. Trong khi ấy, Sa-lô-môn và cả Y-sơ-ra-ên, đến từ miền về phía Ha-mát cho tới
khe Ê-díp-tô, nhóm lại thành một hội rất đông đảo, đều dự lễ trong bảy ngày.
9. Qua ngày thứ tám, người ta giữ lễ trọng thể, vì họ dự lễ khánh thành bàn thờ
trong bảy ngày, và mừng lễ thường trong bảy ngày.
10. Ngày hai mươi ba tháng bảy, người cho dân sự trở về trại mình, lòng đều vui
vẻ và mừng rỡ, vì sự nhân từ mà Ðức Giê-hô-va đã ban cho Ða-vít, cho Sa-lô-môn,
và cho Y-sơ-ra-ên, là dân sự của Ngài.
11. Như vậy, Sa-lô-môn làm xong đền Ðức Giê-hô-va và cung vua; phàm công việc gì
Sa-lô-môn rắp lòng làm trong đền Ðức Giê-hô-va và trong cung vua, đều xong cả.
12. Ban đêm Ðức Giê-hô-va hiện đến cùng Sa-lô-môn, mà rằng: Ta có nghe lời cầu
nguyện ngươi, và đã chọn nơi này làm một nhà tế lễ.
13. Nếu ta đóng các từng trời lại, không cho mưa xuống, khiến cào cào phá hại
thổ sản, và giáng ôn dịch giữa dân sự ta;
14. và nhược bằng dân sự ta, là dân gọi bằng danh ta, hạ mình xuống, cầu nguyện,
tìm kiếm mặt ta, và trở lại, bỏ con đường tà, thì ta ở trên trời sẽ nghe, tha
thứ tội chúng nó, và cứu xứ họ khỏi tai vạ.
15. Bấy giờ, mắt ta sẽ đoái xem, lỗ tai ta sẽ lắng nghe lời nào cầu nguyện tại
nơi này;
16. vì bây giờ, ta đã chọn và khiến cho cái nhà này ra thánh, hầu cho danh ta
ngự đó đời đời: mắt cùng lòng ta sẽ ở đó luôn luôn.
17. Còn ngươi, nếu ngươi khứng đi trước mặt ta như Ða-vít, cha ngươi đã làm, làm
theo mọi điều ta phán dạy ngươi, gìn giữ luật lệ và giới mạng ta,
18. thì ta sẽ lập ngôi nước ngươi được bền vững, y theo lời ước ta đã kết với
Ða-vít, cha ngươi, mà rằng: Ngươi sẽ chẳng hề thiếu người quản trị Y-sơ-ra-ên.
19. Nhưng nếu các ngươi bội nghịch, bỏ các luật lệ và giới mạng ta đã đặt trước
mặt các ngươi, đi hầu việc những tà thần và thờ lạy chúng nó,
20. thì ta sẽ rứt nhổ các ngươi khỏi đất ta đã ban cho các ngươi; còn cái nhà
này mà ta đã biệt riêng ra thánh cho danh ta, ta sẽ bỏ nó đi, làm cho nó nên một
câu tục ngữ, một việc nhạo cười giữa các dân tộc.
21. Cái nhà này dẫu cao dường nào, hễ ai đi qua gần nó cũng sẽ lấy làm lạ mà nói
rằng: Cớ sao Ðức Giê-hô-va có xử xứ này và đền này như thế?
22. Thì người ta sẽ đáp rằng: Bởi vì họ lìa bỏ Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ
phụ họ, là Ðấng đã dẫn họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô, và vì họ đeo đuổi theo các tà
thần, thờ lạy và hầu việc chúng nó, nên Ngài đã giáng trên họ các tai vạ này.
2 Sử-Ký 8
chọn đoạn khác
1. Cuối hai mươi năm, sau khi Sa-lô-môn đã xây cất xong cái đền của Ðức
Giê-hô-va và cái cung mình,
2. thì Sa-lô-môn cũng sửa xây lại các thành mà vua Hu-ram đã nhường cho người,
và khiến cho dân Y-sơ-ra-ên ở đó.
3. Sa-lô-môn đi đến Ha-mát-Xô-ba và thắng được.
4. Người xây thành Tát-mốt trong đồng vắng, và xây các thành dùng làm kho tàng
tại xứ Ha-mát.
5. Người cũng xây Bết-Hô-rôn trên và Bết-Hô-rôn dưới, là những thành bền vững,
có vách tường, cửa và then khóa;
6. lại xây thành Ba-lát và các thành làm kho tàng của Sa-lô-môn, các thành để
chứa xe, và các thành cho lính kỵ người ở; phàm điều gì Sa-lô-môn ước ao xây
cất, hoặc tại Giê-ru-sa-lem, trên Li-ban, hay là trong khắp xứ phục dưới quyền
người, thì đều xây cất cả.
7. Hết thảy những người còn sống sót lại trong dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân
Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, không thuộc về Y-sơ-ra-ên,
8. tức là những con cháu chúng nó hãy còn lại trong xứ, mà dân Y-sơ-ra-ên không
diệt hết, thì trong chúng nó Sa-lô-môn bắt kẻ làm xâu cho đến ngày nay.
9. Nhưng về dân Y-sơ-ra-ên, Sa-lô-môn không bắt ai làm xâu hết, vì họ làm quân
lính, quan tướng, quan cai xe, và lính kỵ của người.
10. Còn về quan trưởng của Sa-lô-môn đặt lên để quản đốc dân sự làm công việc,
số là hai trăm năm mươi người.
11. Sa-lô-môn sai rước công chúa Pha-ra-ôn ở thành Ða-vít lên cung mà người đã
cất cho nàng; vì người nói rằng: Vợ ta chẳng nên ở trong cung Ða-vít, vua
Y-sơ-ra-ên, vì nơi nào hòm của Ðức Giê-hô-va đến, thì đã nên thánh rồi.
12. Bấy giờ, Sa-lô-môn dâng của lễ thiêu cho Ðức Giê-hô-va tại trên bàn thờ của
Giê-hô-va mà người đã xây trước hiên cửa;
13. lại tùy theo lệ luật của Môi-se, người dâng mỗi ngày của lễ phải dâng, cùng
trong các ngày sa-bát, ngày mồng một, và hằng năm nhằm ba lễ trọng thể, tức lễ
bánh không men, lễ các tuần lễ, và lễ lều tạm.
14. Tùy theo lịnh truyền của Ða-vít, cha mình, người phân định ban thứ của những
thầy tế lễ trong phần việc họ, và lập người Lê-vi trong chức sự họ, đặng ngợi
khen Chúa và hầu việc tại trước mặt những thầy tế lễ, cứ công việc ngày nào theo
ngày nấy; tại mỗi cửa cũng đặt kẻ giữ cửa, cứ theo phiên mình, vì Ða-vít, người
của Ðức Chúa Trời, đã truyền lịnh như vậy.
15. Phàm điều gì vua đã phán dạy hững thầy tế lễ và người Lê-vi, hoặc về kho
tàng hay là về việc khác, thì họ chẳng bỏ bê chút nào.
16. Vả, các tài liệu mà Sa-lô-môn dùng về việc cất đền của Ðức Giê-hô-va, đều đã
sắm sửa từ ngày đặt nền cho đến khi công việc xong. Ðền của Ðức Giê-hô-va đã cất
xong là như vậy.
17. Khi ấy Sa-lô-môn đi đến Ê-xi-ôn-Ghê-be và Ê-lốt, tại trên mé biển, trong xứ
Ê-đôm.
18. Hu-ram bởi tay các tôi tớ mình, gởi đến cho người những tàu và các thủy thủ
thạo nghề đi biển; chúng đi với các tôi tớ của Sa-lô-môn đến Ô-phia, lấy tại đó
bốn trăm năm mươi ta lâng vàng, và chở về cho vua Sa-lô-môn.
2 Sử-Ký 9
chọn đoạn khác
1. Khi nữ vương nước Sê-ba nghe đồn danh tiếng của Sa-lô-môn, bèn đi đến
Giê-ru-sa-lem, lấy những câu đố mà thử người, bà có hầu hạ theo rất đông, có
những lạc đà chở thuốc thơm, rất nhiều vàng, và đá quí; bà đến cùng Sa-lô-môn,
nói với người mọi điều có ở trong lòng mình.
2. Sa-lô-môn đáp các câu hỏi của bà, chẳng câu nào ẩn bí quá cho Sa-lô-môn mà
người không giải nghĩa nổi cho bà.
3. Khi nữ vương Sê-ba thấy sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, cung điện người đã xây
cất,
4. những món ăn trên bàn người, nhà cửa các tôi tớ, thứ tự công việc của các
quan, và đồ mặc của họ, các quan chước tửu và áo xống của họ, cùng các của lễ
thiêu người dâng trong đền Ðức Giê-hô-va, thì mất vía,
5. bèn nói với vua rằng: Ðiều tôi nghe nói trong xứ tôi về các lời nói và sự
khôn ngoan của vua, thì thật lắm.
6. Song trước khi tôi chưa đến đây và chưa thấy tận mắt những điều này, thì tôi
chẳng tin lời họ; và kìa, người ta chẳng thuật cho tôi nghe đến phân nửa sự khôn
ngoan lớn lao của vua; vua thật trổi hơn tiếng đồn tôi đã nghe.
7. Các quần thần của vua thật có phước thay! Các tôi tớ vua, hằng đứng chầu
trước mặt vua, nghe sự khôn ngoan của vua, thật có phước thay!
8. Ðáng ngợi khen thay Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của vua, vì Ngài vui thích vua,
đặt vua ngồi trên ngôi của Ngài đặng làm vua cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của
vua! Bởi vì Ðức Chúa Trời của vua yêu mến Y-sơ-ra-ên, đặng làm cho chúng vững
bền đến đời đời, nên Ngài đã lập vua làm vua trên chúng, để làm theo sự ngay
thẳng và sự công bình.
9. Ðoạn, bà dâng cho vua một trăm hai mươi ta lâng vàng, và rất nhiều thuốc
thơm, cùng đá quí; chẳng hề có thuốc thơm nào giống như thuốc thơm của nữ vương
nước Sê-ba dâng cho vua Sa-lô-môn.
10. (Các tôi tớ của Hu-ram và tôi tớ của Sa-lô-môn từ Ô-phia chở vàng đến, cũng
có chở về gỗ bạch đàn hương và đá quí.
11. Vua dùng gỗ bạch đàn hương ấy mà làm cái thang trong đền của Ðức Giê-hô-va,
và trong cung điện vua, cùng những đờn cầm đờn sắt cho con hát: trước khi trong
nước Giu-đa, người ta chẳng hề thấy có giống như vậy).
12. Vua Sa-lô-môn tặng cho nữ vương nước Sê-ba mọi đồ bà ước ao và xin, gấp
nhiều hơn đồ bà đã đem dâng cho vua. Ðoạn, bà và các đầy tớ bà trở về xứ mình.
13. Vàng mà vua Sa-lô-môn nhận được mỗi năm cân đến sáu trăm bảy mươi ta lâng,
14. không kể vàng mà các nhà buôn bán, kẻ buôn bán dong đem vào, cùng vàng và
bạc mà các vua A-ra-bi và quan tổng trấn của xứ đem nộp cho Sa-lô-môn.
15. Sa-lô-môn làm hai trăm cái khiên lớn bằng vàng đánh giát cứ mỗi cái dùng sáu
trăm siếc lơ vàng đánh giát,
16. và ba trăm cái khiên nhỏ bằng vàng đánh giát, cứ mỗi cái dùng ba trăm siếc
lơ vàng; đoạn vua để các khiên ấy nơi cung rừng Li-ban.
17. Vua cũng làm một cái ngai lớn bằng ngà, và bọc vàng ròng;
18. cái ngai có sáu nấc lên, và một cái bệ bằng vàng liền với cái ngai; cũng có
thanh nâng tay bên này và bên kia của chỗ ngồi, gần thanh nâng tay có hai con sư
tử.
19. Lại có mười hai con sư tử đứng trên sáu nấc, bên hữu và bên tả: chẳng có
nước nào làm ngai giống như vậy.
20. Các đồ dùng để uống của vua Sa-lô-môn đều bằng vàng, và những khí dụng của
cung rừng Li-ban cũng đều bằng vàng ròng: trong đời Sa-lô-môn, chẳng kể bạc ra
gì,
21. vì vua có đoàn tàu vượt sang Ta-rê-si với các tôi tớ của Hi-ram: mỗi ba năm
một lần đoàn tàu Ta-rê-si chở đến vàng, bạc ngà voi, con khỉ và con công.
22. Ấy vậy, vua Sa-lô-môn trổi hơn các vua trên đất về sự khôn ngoan.
23. Các vua trên đất đều cầu thấy mặt Sa-lô-môn, đặng nghe sự khôn ngoan của
người mà Ðức Chúa Trời đã để trong lòng người.
24. Cứ hằng năm theo lệ định, chúng đều đem đến vật mình tiến cống, nào những
khí dụng bằng bạc, bằng vàng, nào áo xống, binh khí, nào thuốc thơm, ngựa và la.
25. Vua Sa-lô-môn có được bốn ngàn tàu ngựa và xe, cùng một vạn hai ngàn lính
kỵ, để trong các thành chứa xe, và gần bên vua, tại Giê-ru-sa-lem.
26. Người quản trị trên các vua, từ sông cái cho đến xứ Phi-li-tin, và cho đến
bờ cõi Ê-díp-tô.
27. Tại Giê-ru-sa-lem, vua làm cho bạc ra thường như đá sỏi, và cây bá hương
nhiều như cây sung mọc ở nơi đồng bằng.
28. Có người đem cho Sa-lô-môn những ngựa từ xứ Ê-díp-tô và từ các nước mà đến.
Sa-lô-môn qua đời
29. Các công việc khác của Sa-lô-môn làm từ đầu đến cuối đều chép trong sách
truyện Na-than, là đấng tiên tri, và trong sách tiên tri của A-hi-gia, người
Si-lô, cùng trong sách dị tượng của Giê-đô, đấng tiên kiến luận về việc
Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát.
30. Sa-lô-môn trị vì trên cả Y-sơ-ra-ên trong bốn mươi năm tại Giê-ru-sa-lem.
31. Sa-lô-môn an giấc cùng tổ phụ mình, được chôn trong thành của Ða-vít, là cha
người; Rô-bô-am, con trai người, cai trị thế cho người.
2 Sử-Ký 10
chọn đoạn khác
1. Rô-bô-am đi đến Si-chem, vì cả Y-sơ-ra-ên đều đã tới Si-chem đặng tôn người
làm vua.
2. Khi Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, hay điều đó, thì còn ở Ê-díp-tô, là nơi
người đã trốn, để thoát khỏi mặt Sa-lô-môn; người bèn từ Ê-díp-tô trở về.
3. Người ta sai kẻ đi gọi người về; đoạn Giê-rô-bô-am và cả Y-sơ-ra-ên đều đến
tâu với Rô-bô-am rằng:
4. Thân phụ vua đã gán ách nặng cho chúng tôi, vậy bây giờ, hãy giảm nhẹ sự phục
dịch khó nhọc này và cái ách nặng nề mà thân phụ vua đã gán trên chúng tôi, thì
chúng tôi sẽ phục sự vua.
5. Người đáp với chúng rằng: Khỏi ba ngày, các ngươi hãy trở lại cùng ta. Dân sự
bèn lui về.
6. Vua Rô-bô-am bàn nghị cùng các trưởng lão đã chầu trước mặt Sa-lô-môn, cha
người, trong lúc Sa-lô-môn còn sống, mà rằng: Các ngươi bàn luận cho ta phải trả
lời với dân sự này làm sao?
7. Các trưởng lão thưa lại với vua rằng: Nếu vua đãi dân sự này tử tế, ăn ở vui
lòng cùng chúng nó, và lấy lời hiền lành nói với chúng nó, ắt chúng nó sẽ làm
tôi tớ vua mãi mãi.
8. Song Rô-bô-am chẳng theo mưu của các trưởng lão đã bàn cho mình, bèn hội nghị
với các người trai trẻ đã đồng sanh trưởng với mình, và chầu trước mặt mình,
9. mà rằng: Dân sự này đã tâu với ta rằng: Hãy giảm nhẹ cái ách mà thân phụ vua
đã gán cho chúng tôi; vậy các ngươi bàn luận cho ta phải đáp với chúng nó làm
sao?
10. Các gã trai trẻ đồng lớn lên với người thưa rằng: Dân sự đã thưa với vua
rằng: Thân phụ vua khiến cho ách chúng tôi nặng nề; vua hãy làm cho nó ra nhẹ;
vua phải đáp lại cùng chúng như vầy: Ngón tay út ta lớn hơn lưng của cha ta.
11. Vậy, bây giờ, cha ta đã gán một cái ách nặng trên các ngươi, ắt ta sẽ làm
cho ách các ngươi thêm nặng hơn; cha ta đã sửa phạt các ngươi bằng roi, còn ta
sẽ sửa phạt các ngươi bằng roi bò cạp.
12. Ngày thứ ba, Giê-rô-bô-am và cả dân sự đều đến cùng Rô-bô-am y như vua đã
biểu rằng: Hãy trở lại cùng ta trong ngày thứ ba.
13. Vua Rô-bô-am đáp với dân sự cách xẳng xớm, bỏ mưu của các trưởng lão đã bàn,
14. theo lời bàn của những kẻ trai trẻ, và đáp cùng chúng rằng: Cha ta khiến cho
ách các ngươi nặng nề; ta sẽ làm cho ách các ngươi thêm nặng hơn; cha ta sửa
phạt các ngươi bằng roi, ta sẽ sửa phạt các ngươi bằng roi bò cạp.
15. Như vậy, vua không nghe lời dân sự, vì ấy là bởi Ðức Chúa Trời dẫn đến, hầu
cho Ðức Giê-hô-va làm ứng nghiệm lời của Ngài đã nhờ A-hi-gia, người Si-lô, mà
phán cùng Giê-rô-bô-am, con trai của Nê-bát.
16. Khi cả Y-sơ-ra-ên thấy vua không nghe lời họ, bèn đáp cùng người, mà rằng:
Chúng ta có phần gì với Ða-vít? Chúng ta chẳng có cơ nghiệp gì với con trai
Y-sai. Hỡi Y-sơ-ra-ên! mỗi người hãy trở về trại mình đi. Ớ Ða-vít! từ rày khá
coi chừng nhà của ngươi. Cả Y-sơ-ra-ên bằn trở về trại mình.
17. Nhưng còn dân Y-sơ-ra-ên ở tại các thành Giu-đa thì Rô-bô-am cai trị trên
chúng.
18. Bấy giờ, vua Rô-bô-am sai Ha-đô-ram, là người cai quản việc cống thuế, đến
cùng dân Y-sơ-ra-ên; song dân Y-sơ-ra-ên ném đá người, thì người chết. Vua
Rô-bô-am lật đật lên xe trốn về Giê-ru-sa-lem.
19. Ấy vậy, Y-sơ-ra-ên phản nghịch cùng nhà Ða-vít cho đến ngày nay.
2 Sử-Ký 11
chọn đoạn khác
1. Rô-bô-am trở về thành Giê-ru-sa-lem, bèn nhóm nhà Giu-đa và nhà Bên-gia-min,
được mười tám vạn chiến sĩ kén chọn, toan đánh giặc với Y-sơ-ra-ên, để đem nước
về Rô-bô-am lại.
2. Nhưng có lời của Ðức Giê-hô-va phán cùng Sê-ma-gia, người của Ðức Chúa Trời,
rằng:
3. Hãy nói với Rô-bô-am, con trai của Sa-lô-môn, vua Giu-đa, và với cả
Y-sơ-ra-ên trong Giu-đa, cùng Bên-gia-min, mà rằng:
4. Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi chớ đi lên chinh chiến với anh em mình;
mỗi người hãy trở về nhà mình, vì việc này tại ta mà xảy đến. Chúng nghe theo
lời của Ðức Giê-hô-va, và trở về, không đi đánh Giê-rô-bô-am.
5. Rô-bô-am ở tại Giê-ru-sa-lem, xây các thành trong đất Giu-đa làm nên đồn lũy.
6. Người xây Bết-lê-hem, Ê-tam, Thê-cô-a,
7. Bết-xu-rơ, Sô-cô, A-đu-lam,
8. Gát, Ma-rê-sa, Xíp
9. A-đô-ra-im, La-ki, A-xê-ka,
10. Xô-rê-a A-gia-lôn, và Hếp-rôn, là những thành bền vững ở trong đất Giu-đa và
đất Bên-gia-min.
11. Người làm cho các đồn lũy ấy vững chắc, đặt những quan tướng ở đó, chứa
lương thực, dầu, và rượu;
12. còn trong mỗi thành, người sắm khiên và giáo, làm cho các thành ấy rất bền
vững. Ðất Giu-đa và đất Bên-gia-min đều thuộc về người.
13. Những thầy tế lễ và người Lê-vi trong khắp xứ Y-sơ-ra-ên, đều từ các miền họ
ở, đến cùng Rô-bô-am
14. vì các người Lê-vi lìa bỏ địa hạt các thành mình và sản nghiệp mình, mà đến
đất Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem; bởi Giê-rô-bô-am và các con trai người đuổi
họ đi, không cho làm chức thầy tế lễ của Ðức Giê-hô-va nữa;
15. Giê-rô-bô-am bèn lập những thầy tế lễ cho các nơi cao, cho các hình tượng dê
đực, và bò con mà người đã làm.
16. Lại trong các chi phái Y-sơ-ra-ên, phàm ai rắp lòng tìm kiếm Giê-hô-va Ðức
Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, thì đều theo những thầy tế lễ và người Lê-vi mà đến
Giê-ru-sa-lem đặng tế lễ cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ mình.
17. Trong ba năm, chúng làm cho nước Giu-đa vững chắc, giúp đỡ Rô-bô-am, con
trai của Sa-lô-môn, trở nên cường thạnh; vì trong ba năm ấy chúng đi theo con
đường của Ða-vít và Sa-lô-môn.
18. Rô-bô-am lấy Ma-ha-lát, con gái của Giê-ri-mốt, cháu của Ða-vít, làm vợ; lại
cưới A-bi-hai, con gái Ê-li-áp, cháu của Y-sai;
19. nàng sanh cho người những con trai, là Giê-úc, Sê-ma-ria, và Xa-ham.
20. Sau nàng, người lại cưới Ma-a-ca, con gái Áp-sa-lôn; nàng sanh cho người,
A-bi-gia, Át-thai Xi-xa, và Sê-lô-mít.
21. Vả, Rô-bô-am yêu mến Ma-a-ca con gái Áp-sa-lôm hơn các hậu phi khác (vì
người có lấy mười tám hoàng hậu và sáu mươi cung phi, sanh ra hai mươi tám con
trai và sáu mươi con gái).
22. Rô-bô-am lập A-bi-gia, con trai Ma-a-ca, làm trưởng, làm thái tử giữa anh em
mình; vì người toan lập con ấy làm vua.
23. Rô-bô-am cư xử cách khôn ngoan, phân tản các con trai mình đi ở khắp trong
cõi Giu-đa và Bên-gia-min, nơi các thành bền vững, cấp cho chúng lương thực dư
dật, và cưới nhiều vợ cho.
2 Sử-Ký 12
chọn đoạn khác
1. Xảy khi nước của Rô-bô-am vừa được lập vững bền, và người được cường thạnh,
thì người và cả Y-sơ-ra-ên liền bỏ luật pháp của Ðức Giê-hô-va.
2. Vì chúng có phạm tội cùng Ðức Giê-hô-va, nên xảy ra trong năm thứ năm đời vua
Rô-bô-am, Si-sắc, vua Ê-díp-tô, kéo lên hãm đánh Giê-ru-sa-lem;
3. có dẫn theo một ngàn hai trăm cỗ xe và sáu vạn lính kỵ; lại có dân Li-by, dân
Su-ri, và dân Ê-thi-ô-bi từ Ê-díp-tô kéo lên với người, số không thể đếm đặng.
4. Si-sắc bèn chiếm lấy các thành bền vững thuộc về Giu-đa, rồi đến tận
Giê-ru-sa-lem.
5. Tiên tri Sê-ma-gia đến cùng Rô-bô-am và các kẻ làm đầu Giu-đa, đương nhóm tại
Giê-ru-sa-lem để trốn khỏi Si-sắc, mà nói rằng: Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Các
ngươi đã bỏ ta, nên ta cũng đã bỏ các ngươi vào tay Si-sắc.
6. Bấy giờ, các kẻ làm đầu của Y-sơ-ra-ên và vua đều hạ mình xuống, mà nói rằng:
Ðức Giê-hô-va là công bình.
7. Khi Ðức Giê-hô-va thấy chúng hạ mình xuống, thì có lời Ðức Giê-hô-va phán
cùng Sê-ma-gia rằng: Chúng nó đã hạ mình xuống, ta sẽ không hủy diệt chúng nó;
song sẽ giải cứu chúng một chút, và cơn giận ta sẽ chẳng cậy tay Si-sắc mà đổ ra
trên Giê-ru-sa-lem;
8. song chúng nó sẽ bị phục dịch hắn, hầu cho biết phục sự ta và phục dịch nước
khác là có phân biệt thể nào.
9. Si-sắc, vua Ê-díp-tô, kéo lên hãm đánh Giê-ru-sa-lem, đoạt lấy các bửu vật
của đền Ðức Giê-hô-va và cung vua: người đoạt lấy hết thảy; cũng đoạt lấy những
khiên bằng vàng mà Sa-lô-môn đã làm.
10. Vua Rô-bô-am bèn làm những khiên bằng đồng thế cho, và giao nơi tay các quan
chánh thị vệ canh giữ cửa của cung điện vua.
11. Hễ khi nào vua vào trong đền của Ðức Giê-hô-va, thì các quan thị vệ cầm
khiên đến, đoạn đem nó lại vào phòng của quan thị vệ.
12. Khi vua hạ mình xuống, cơn giận của Ðức Giê-hô-va lánh khỏi người, không
diệt hết thảy; và lại trong Giu-đa còn có sự lành.
13. Ấy vậy vua Rô-bô-am làm cho mình ra bền vững trong Giê-ru-sa-lem và trị vì.
Vả khi Rô-bô-am lên ngôi, tuổi đã bốn mươi mốt; người cai trị mười bảy năm tại
Giê-ru-sa-lem, tức là thành mà Ðức Giê-hô-va đã chọn trong các chi phái
Y-sơ-ra-ên, đặng đặt danh Ngài tại đó; còn mẹ người tên là Na-a-ma, người đàn bà
Am-môn.
14. Rô-bô-am làm điều ác, vì không rắp lòng tìm cầu Ðức Giê-hô-va.
15. Các công việc của Rô-bô-am từ đầu đến cuối, đều chép trong sách truyện của
Sê-ma-gia, đấng tiên tri, trong sách Y-đô, đấng tiên kiến, luận về gia phổ.
Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am hằng đánh giặc với nhau luôn luôn.
16. Rô-bô-am an giấc cùng tổ phụ mình, được chôn trong thành Ða-vít; A-bi-gia,
con trai người, cai trị thế cho người.
2 Sử-Ký 13
chọn đoạn khác
1. Năm thứ mười tám đời vua Giê-rô-bô-am, A-bi-gia lên ngôi làm vua Giu-đa.
2. Người cai trị ba năm tại Giê-ru-sa-lem; tên mẹ người là Mi-ca-gia, con gái
của U-ri-ên ở Ghi-bê-a. A-bi-gia và Giê-rô-bô-am đánh giặc với nhau.
3. A-bi-gia ra trận với một đạo chiến sĩ, bốn mươi vạn người kén chọn; còn
Giê-rô-bô-am dàn trận đối với người, có tám mươi vạn người kén chọn, là lính
chiến mạnh dạn.
4. A-bi-gia đứng trên núi Xê-ma-ra-im trong miền núi Ép-ra-im, mà nói rằng: Hỡi
Giê-rô-bô-am và cả Y-sơ-ra-ên, khá nghe!
5. Bởi sự giao ước bằng muối, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã ban nước
Y-sơ-ra-ên cho Ða-vít và cho các con trai người đến đời đời, các ngươi há chẳng
biết sao?
6. Dẫu vậy, Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, tôi tớ của Sa-lô-môn, là con trai của
Ða-vít, bèn chổi dậy phản nghịch cùng Chúa mình;
7. những kẻ du đãng, đồ phàm hèn, đều hiệp lại theo người chúng nó tự làm mình
ra mạnh, nghịch với Rô-bô-am, con trai của Sa-lô-môn; còn Rô-bô-am thì trẻ tuổi,
nhát gan, không chống cự nổi chúng nó.
8. Vậy bây giờ, các ngươi tưởng rằng các ngươi sẽ chống cự nổi nước của Ðức
Giê-hô-va đã ban cho các con trai của Ða-vít, các ngươi một đoàn đông lớn, có
đem theo bò con vàng mà Giê-rô-bô-am đã đúc làm thần của các ngươi.
9. Các ngươi há chẳng có đuổi những thầy tế lễ của Ðức Giê-hô-va, là con cháu
A-rôn, và người Lê-vi sao? Các ngươi có theo phong tục của các dân ngoại mà lập
lấy những thầy tế lễ cho mình; phàm ai đến đem một con bò đực tơ và bảy con
chiên đực đặng dâng làm lễ, thì được làm thầy tế lễ của những thần hư không.
10. Nhưng về phần chúng ta, Giê-hô-va vẫn là Ðức Chúa Trời của chúng ta, chúng
ta chẳng có lìa bỏ Ngài; những thầy tế lễ, là con cháu của A-rôn, đều phục sự
Ðức Giê-hô-va, và các người Lê-vi giữ phần việc của họ;
11. mỗi buổi sớm mai và buổi chiều, chúng xông của lễ thiêu và thuốc thơm cho
Ðức Giê-hô-va; chúng cũng sắp bánh trần thiết trên bàn sạch sẽ, thắp các đèn của
chơn đèn vàng để nó cháy mỗi buổi chiều tối; vì chúng ta vâng giữ làm theo mạng
lịnh của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng ta, còn các ngươi lại bỏ đi.
12. Nầy, Ðức Chúa Trời ở cùng chúng ta, làm đầu chúng ta, và những thầy tế lễ
của Ngài cầm những kèn tiếng vang đặng thổi lên nghịch cùng các ngươi. Hỡi con
cái Y-sơ-ra-ên! chớ tranh chiến cùng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ các
ngươi, vì chẳng thắng được đâu!
13. Nhưng Giê-rô-bô-am truyền binh phục đi vòng đặng đến phía sau chúng vậy quân
Y-sơ-ra-ên ở đằng trước quân Giu-đa còn binh phục ở đằng sau.
14. Giu-đa xây ngó lại, kìa, giặc đã có phía trước và phía sau, bèn kêu cầu cùng
Ðức giê-hô-va, và những thầy tế lễ thổi kèn.
15. Bấy giờ người Giu-đa kêu la, thì Ðức Giê-hô-va đánh Giê-rô-bô-am và cả
Y-sơ-ra-ên tại trước mặt A-bi-gia và dân Giu-đa.
16. Dân Y-sơ-ra-ên chạy trốn trước mặt dân Giu-đa, và Ðức Chúa Trời phó chúng nó
vào tay dân Giu-đa.
17. A-bi-gia và quân lính người làm cho chúng bị thua trận cả thể, có năm mươi
vạn tinh binh của Y-sơ-ra-ên bị thương ngã chết.
18. Như vậy, trong lúc ấy, dân Y-sơ-ra-ên bị sỉ nhục, còn dân Giu-đa được thắng
hơn, vì chúng nhờ cậy nơi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ họ.
19. A-bi-gia đuổi theo Giê-rô-bô-am, chiếm lấy những thành, là Bê-tên và các
hương thôn nó; Giê-sa-na và các hương thôn nó; Ép-rôn và các hương thôn nó.
20. Trong lúc A-bi-gia còn sống, Giê-rô-bô-am chẳng được cường thạnh lại; Ðức
Giê-hô-va hành hại người, thì người chết.
21. Còn A-bi-gia được cường thạnh, cưới mười bốn người vợ, sanh được hai mươi
hai con trai và mười sáu con gái.
22. Các công sự khác của A-bi-gia, những việc làm và lời nói của người, đều chép
trong sách truyện của tiên tri Y-đô.
2 Sử-Ký 14
chọn đoạn khác
1. A-bi-gia an giấc cùng tổ phụ mình, và người ta chôn người trong thành Ða-vít.
A-sa, con trai người, cai trị thế cho người. Trong đời người, xứ được hòa bình
mười năm.
2. A-sa làm điều thiện và ngay thẳng trước mặt Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của
người;
3. vì người cất bỏ các bàn thờ của thần ngoại bang, và những nơi cao, đập bể các
trụ thờ, và đánh đổ những tượng A-sê-ra;
4. người khuyên Giu-đa phải tìm cầu Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ chúng,
cùng làm theo luật pháp và điều răn của Ngài.
5. Người cũng trừ bỏ những nơi cao và trụ thờ mặt trời khỏi các thành của
Giu-đa. Nước được bằng an trước mặt người.
6. Người xây những thành bền vững trong đất Giu-đa, vì trong mấy năm đó xứ hòa
bình, không có chiến trận, bởi Ðức Giê-hô-va đã ban cho người được an nghỉ.
7. Người bảo dân Giu-đa rằng: Ta hãy xây cất các thành này, đắp vách tường chung
quanh, dựng tháp, làm cửa và then, đương lúc xứ hãy còn thuộc về chúng ta; vì
chúng ta có tìm kiếm Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của chúng ta; chúng ta có tìm được
Ngài, Ngài đã ban cho chúng ta bình an bốn phía. Chúng bèn xây cất và được thành
công. A-sa thắng quân Ê-thi-ô-bi
8. A-sa có một đạo binh ba mươi vạn người Giu-đa, cầm khiên và giáo, và hai mươi
tám vạn người người Bên-gia-min cầm thuẫn và giương cung; hết thảy đều là người
mạnh dạn.
9. Xê-rách, người Ê-thi-ô-bi kéo đạo binh một trăm vạn người, và ba trăm cỗ xe,
ra hãm đánh người Giu-đa, và đi đến Ma-rê-sa.
10. A-sa ra đón người, dàn trận tại trong trũng Xê-pha-ta, gần Ma-rê-sa.
11. A-sa cầu khẩn Giê-hô-va Ðức Chúa Trời mình, mà rằng: Lạy Ðức Giê-hô-va! Trừ
ra Chúa chẳng có ai giúp đỡ người yếu thắng được người mạnh; Giê-hô-va Ðức Chúa
Trời chúng tôi ôi! Xin hãy giúp đỡ chúng tôi, vì chúng tôi nương cậy nơi Chúa;
ấy là nhơn danh Chúa mà chúng tôi đến đối địch cùng đoàn quân này. Ðức Giê-hô-va
ôi! Ngài là Ðức Chúa Trời chúng tôi; chớ để loài người thắng hơn Chúa!
12. Ðức Giê-hô-va bèn đánh dân Ê-thi-ô-bi tại trước mặt dân Giu-đa và vua A-sa;
quân Ê-thi-ô-bi chạy trốn.
13. A-sa và quân lính theo người, đều đuổi chúng cho đến Ghê-ra; quân Ê-thi-ô-bi
ngã chết nhiều, đến đỗi chẳng còn gượng lại được, vì chúng bị thua trước mặt Ðức
Giê-hô-va và đạo binh của Ngài. Người Giu-đa đoạt được của giặc rất nhiều;
14. cũng hãm đánh các thành chung quanh Ghê-ra, vì sự kinh khiếp của Ðức
Giê-hô-va giáng trên các thành đó; rồi quân lính A-sa cướp lấy hết thảy của cải
trong các thành ấy, vì trong nó có của cải rất nhiều.
15. Lại cũng đánh phá các chuồng súc vật, bắt đem đi rất nhiều chiên và lạc đà;
đoạn trở về Giê-ru-sa-lem.
2 Sử-Ký 15
chọn đoạn khác
1. Thần Ðức Chúa Trời cảm động A-xa-ria, con trai của Ô-đết: người đi ra đón
A-sa, mà nói với người rằng:
2. Hỡi A-sa, cả Giu-đa, và Bên-gia-min, hãy nghe lời ta: Các ngươi theo Ðức
Giê-hô-va chừng nào, thì Ðức Giê-hô-va ở với các ngươi chừng nấy; nếu các ngươi
tìm Ngài, ắt sẽ gặp Ngài được; nếu các ngươi lìa bỏ Ngài, thì Ngài sẽ lìa bỏ các
ngươi.
3. Ðã lâu ngày, Y-sơ-ra-ên không có Chúa thật, không có thầy tế lễ dạy dỗ, cũng
chẳng có luật pháp;
4. song trong lúc khốn khó, chúng trở lại cùng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên, mà tìm cầu Ngài, thì lại gặp Ngài đặng.
5. Trong khi ấy, dân của xứ phải bị sự rối loạn nhiều, kẻ ra kẻ vào không được
bằng yên.
6. Nước nầy giày đạp nước kia, thành này giày đạo thành nọ; vì Ðức Chúa Trời lấy
đủ thứ khổ nạn làm cho chúng rối loạn.
7. Song các ngươi hãy mạnh lòng, tay các ngươi chớ nhát sợ, vì việc các ngươi
làm sẽ được phần thưởng.
8. Khi A-sa đã nghe các lời này và lời tiên tri của tiên tri Ô-đết, thì giục
lòng mạnh mẽ, bèn trừ bỏ những thần tượng gớm ghiếc khỏi cả đất Giu-đa và
Bên-gia-min, cùng khỏi các thành người đã đoạt lấy trên miền núi Ép-ra-im; người
tu bổ lại cái bàn thờ của Ðức Giê-hô-va ở trước hiên cửa Ðức Giê-hô-va.
9. Người nhóm hiệp hết thảy người Giu-đa, người Bên-gia-min, và kẻ khách thuộc
về chi phái Ép-ra-im, Ma-na-se, và Si-mê-ôn, vẫn kiều ngụ với chúng; vì có nhiều
người Y-sơ-ra-ên khi thấy rằng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của A-sa ở cùng người,
thì đều về đằng người.
10. Tháng ba năm mười lăm đời A-sa, chúng nhóm hiệp tại Giê-ru-sa-lem;
11. nhằm ngày ấy họ lấy trong các súc vật mình đã đoạt được dẫn về bảy trăm con
bò đực và bảy ngàn con chiên mà tế lễ Ðức Giê-hô-va.
12. Chúng toan ước nhau hết lòng hết ý tìm kiếm Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ
phụ mình,
13. và hễ ai không tìm kiếm Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, thì sẽ bị xử
tử vô luận nhỏ hay lớn, nam hay nữ.
14. Chúng cất tiếng lớn mà thề cùng Ðức Giê-hô-va, reo mừng, thổi kèn, thổi còi.
15. Cả Giu-đa đều vui mừng về lời thề ấy, vì chúng hết lòng mà phát thề, và hết
ý tìm cầu Ðức Giê-hô-va; rồi chúng tìm gặp Ngài đặng. Ðức Giê-hô-va bèn ban cho
chúng được bình an bốn phía.
16. Vả lại, vì Ma-a-ca, mẹ vua A-sa lột chức thái hậu của bà, đánh đổ hình tượng
ấy và nghiền nát đi, rồi thiêu đốt trong trũng Xết-rôn.
17. Song các nơi cao không phá dỡ khỏi Y-sơ-ra-ên; dầu vậy, lòng A-sa vẫn trọn
lành cả đời người.
18. Người đem vào đền của Ðức Giê-hô-va các vật thánh của cha người, và những
vật mà chính mình người đã biệt riêng ra thánh, hoặc vàng, hoặc bạc, hay là
những khí dụng.
19. Chẳng có giặc giã cho đến năm thứ ba mươi lăm đời A-sa.
2 Sử-Ký 16
chọn đoạn khác
1. Năm thứ ba mươi sáu đời A-sa, Ba-ê-ba, vua Y-sơ-ra-ên, đi lên đánh Giu-đa,
cất đồn lũy Ra-ma, để làm cho dân sự của A-sa, vua Giu-đa, không ra vào được.
2. Khi ấy A-sa lấy bạc vàng ở trong kho của đền Ðức Giê-hô-va và trong kho của
cung vua, gởi đến Bên-Ha-đát, vua Sy-ri, ở tại Ða-mách, mà rằng:
3. Chúng ta hãy lập giao ước với nhau, y như thân phụ của tôi và thân phụ của
ông đã làm. Kìa, tôi gởi dâng cho ông bạc và vàng: hãy đi hủy ước của ông với
Ba-ê-ba, vua Y-sơ-ra-ên, để người xa khỏi tôi.
4. Bên-Ha-đát nghe theo lời vua A-sa, bèn sai các tướng đạo binh mình đi hãm
đánh các thành của Y-sơ-ra-ên, chiếm lấy Y-giôn, Ðan, A-bên-Ma-im, cùng các
thành kho tàng của đất Nép-ta-li.
5. Xảy khi Ba-ê-ba hay điều đó, liền thôi xây đồn Ra-ma và bãi công việc.
6. Vua A-sa bèn nhóm hết thảy người Giu-đa; chúng lấy đem đi đá và gỗ mà Ba-ê-ba
đã dùng xây cất Ra-ma; rồi A-sa dùng đồ ấy xây cất Ghê-ba và Mích-ba.
7. Trong khi ấy, đấng tiên kiến Ha-na-ni đến cùng A-sa, vua Giu-đa, mà nói rằng:
Bởi vì vua nương cậy vua Sy-ri, không nương cậy nơi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của
ông, nên đạo quân vua Sy-ri đã thoát khỏi tay ông.
8. Dân Ê-thi-ô-bi và dân Li-by há chẳng phải một đạo quân đông lắm sao? Xe và
lính kỵ họ há chẳng phải nhiều lắm ư? Dẫu vậy, bởi vua nhờ cậy Ðức Giê-hô-va,
nên Ngài phó chúng nó vào tay vua.
9. Vì con mắt của Ðức Giê-hô-va soi xét khắp thế gian, đặng giúp sức cho kẻ nào
có lòng trọn thành đối với Ngài. Trong việc này vua có cư xử cách dại dột, nên
từ này về sau vua sẽ có giặc giã.
10. A-sa nổi giận đấng tiên kiến, đem cầm tù người; vì tại việc ấy, vua tức giận
người lắm. Trong lúc đó, A-sa cũng hà hiếp mấy người của dân sự.
11. Nầy các công việc của A-sa, từ đầu đến cuối, đều đã chép trong sách các vua
Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
12. Năm thứ ba mươi chín đời A-sa trị vì, A-sa bị đau chơn, đến đỗi nặng lắm;
trong cơn bịnh người không tìm kiếm Ðức Giê-hô-va, nhưng tìm kiếm những thầy
thuốc.
13. A-sa an giấc cùng tổ phụ người, băng hà năm thứ bốn mươi mốt đời người trị
vì.
14. Người ta chôn người nơi mồ mả chính người đã đào cho mình trong thành
Ða-vít, để người nằm trên một cái giường đầy thuốc thơm, chế theo phép hòa
hương; đoạn người ta xông hương cho người rất nhiều.
2 Sử-Ký 17
chọn đoạn khác
1. Giô-sa-phát, con trai A-sa, cai trị thế cho người; người làm cho nước mình ra
mạnh để nghịch cùng Y-sơ-ra-ên,
2. đặt những cơ binh nơi các thành bền vững của Giu-đa, lập đồn trong xứ Giu-đa
và trong các thành Ép-ra-im, mà A-sa, cha người, đã chiếm lấy.
3. Ðức Giê-hô-va ở cùng Giô-sa-phát, vì người đi theo đường lối đầu tiên của
Ða-vít, tổ phụ mình, không tìm cầu thần Ba-anh,
4. nhưng tìm cầu Ðức Chúa Trời của tổ phụ mình, giữ theo các điều răn của Ngài,
chớ chẳng làm như Y-sơ-ra-ên.
5. Vì vậy Ðức Giê-hô-va khiến nước vững chắc trong tay người; cả Giu-đa dâng lễ
vật cho Giô-sa-phát, người được của cải nhiều và sự vinh hiển lớn.
6. Người vững lòng theo các đường lối của Ðức Giê-hô-va; lại phá dỡ các nơi cao
và những thần tượng A-sê-ra khỏi Giu-đa.
7. Năm thứ ba đời Giô-sa-phát trị vì, người sai các tôi tớ mình, là Bên-Hai,
Ô-ba-đia, Xa-cha-ri, Na-tha-na-ên, và Mi-ca-gia đi dạy dỗ trong các thành xứ
Giu-đa;
8. có mấy người Lê-vi đi với họ, là Sê-ma-gia, Nê-tha-nia, Xê-ba-đia, A-sa-ên,
Sê-mi-ra-mốt, Giô-na-than, A-đô-ni-gia, Tô-bi-gia, và Tô-ba-đô-ni-gia; lại có
Ê-li-sa-ma và Giô-ram, hai thầy tế lễ cũng đi nữa;
9. chúng có đem theo mình sách luật pháp của Ðức Giê-hô-va, đi vòng các thành xứ
Giu-đa mà dạy dỗ dân sự.
10. Ðức Giê-hô-va khiến các nước ở bốn phía của Giu-đa kinh hãi, chẳng dám chinh
chiến với Giô-sa-phát.
11. Có dân Phi-li-tin đem dâng cho Giô-sa-phát những lễ vật và bạc cống thuế;
người A rạp cũng dẫn đến cho người những bầy súc vật: bảy ngàn bảy trăm con
chiên đực, và bảy ngàn bảy trăm con dê đực.
12. Giô-sa-phát càng ngày càng cường đại, cho đến tột bực. Người xây cất trong
xứ Giu-đa những đền đài và thành kho tàng.
13. Người có nhiều công việc trong các thành Giu-đa, và tại Giê-ru-sa-lem có
những lính chiến mạnh dạn.
14. Ðây là sổ kể các người ấy tùy theo nhà tổ phụ họ; về Giu-đa, có những quan
tướng ngàn người, là Át-na làm đầu, người lãnh ba mươi vạn người mạnh dạn;
15. kế người có Giô-ha-nan làm đầu, người lãnh hai mươi tám vạn người mạnh dạn;
16. sau người này có A-ma-sia, con trai của Xiếc-ri, là người vui lòng dâng mình
cho Ðức Giê-hô-va, người lãnh hai mươi vạn người mạnh dạn.
17. Về Bên-gia-min có Ê-li-a-đa, là người mạnh dạn, người lãnh hai mươi vạn quân
cầm cung và khiên;
18. kế người có Giê-hô-xa-bát, người lãnh mười tám vạn binh đều sắm sửa ra trận.
19. Ðó là những người giúp việc vua, trừ ra những người mà vua đặt trong các
thành bền vững khắp xứ Giu-đa.
2 Sử-Ký 18
chọn đoạn khác
1. Giô-sa-phát đã được nhiều của cải và sự vinh hiển, bèn kết sui gia cùng
A-háp.
2. Cách một vài năm, người đi xuống A-háp tại Sa-ma-ri, A-háp giết nhiều chiên
bò ăn mừng Giô-sa-phát và dân sự theo người, rồi khuyên người đi lên hãm đánh
Ra-mốt tại Ga-la-át.
3. A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, nói với Giô-sa-phát, vua Giu-đa, rằng: Vua muốn đến
cùng tôi hãm đánh Ra-mốt tại Ga-la-át chăng? Người đáp: Tôi cũng như vua; dân sự
tôi cũng như dân sự vua; tôi sẽ cùng vua đi chinh chiến.
4. Giô-sa-phát lại nói với vua Y-sơ-ra-ên rằng: Tôi xin vua hãy cần vấn Ðức
Giê-hô-va trước đã.
5. Vua Y-sơ-ra-ên nhóm các tiên tri, số là bốn trăm người, mà hỏi rằng: Chúng ta
có nên đánh Ra-mốt tại Ga-la-át, hay là chẳng nên? Chúng đáp rằng: Hãy đi lên;
Ðức Chúa Trời sẽ phó nó vào tay vua.
6. Nhưng Giô-sa-phát tiếp rằng: Ở đây, còn có một đấng tiên tri nào khác của Ðức
Giê-hô-va, để chúng ta hỏi người ấy chăng?
7. Vua Y-sơ-ra-ên đáp với Giô-sa-phát rằng: Còn có một người tên là Mi-chê con
trai của Giêm-la, nhờ người ấy ta có thể cầu vấn Ðức Giê-hô-va; nhưng tôi ghét
người, vì người không hề nói tiên tri lành về tôi, bèn là dữ luôn. Giô-sa-phát
nói: Xin vua chớ nói như vậy!
8. Vua Y-sơ-ra-ên bèn gọi một hoạn quan đến mà bảo rằng: Hãy đòi Mi-chê, con
trai Giêm-la, đến lập tức.
9. Vả, vua Y-sơ-ra-ên và Giô-sa-phát, vua Giu-đa, mỗi người đều mặc đồ triều
phục, đương ngồi trên ngai mình, ở nơi sân đạp lúa tại cửa thành Sa-ma-ri; còn
hết thảy các tiên tri nói tiên tri ở trước mặt hai vua.
10. Sê-đê-kia, con trai Kê-na-na, làm lấy những sừng bằng sắt, và nói rằng: Ðức
Giê-hô-va phán như vầy: Với các sừng nầy, vua sẽ báng dân Sy-ri cho đến khi diệt
hết chúng nó.
11. Các tiên tri đều nói một cách mà rằng: Hãy đi lên đánh Ra-mốt tại Ga-la-át;
vua sẽ được thắng, vì Ðức Giê-hô-va sẽ phá thành ấy vào tay vua.
12. Vả, sứ giả đã đi đòi Mi-chê, nói với người rằng: Nầy những tiên tri đều đồng
thinh báo cáo sự lành cho vua; vậy tôi xin ông cũng hãy lấy lời như lời của họ
mà báo cáo điều lành.
13. Nhưng Mi-chê đáp rằng: Nguyện Ðức Giê-hô-va hằng sống, hễ sự gì Ðức Chúa
Trời ta sẽ phán dặn, thì ta sẽ nói cho.
14. Khi người đã đến cùng vua, vua bèn hỏi rằng: Hỡi Mi-chê, chúng ta có nên hãm
đánh Ra-mốt tại Ga-la-át, hay là chẳng nên đi? Người đáp: Hãy đi lên, vua sẽ
được thắng; chúng nó sẽ bị phó vào tay hai vua.
15. Vua nói với người rằng: Biết bao lần ta đã lấy lời thề buộc ngươi nhơn danh
Ðức Giê-hô-va nói chơn thật với ta?
16. Mi-chê đáp: Tôi thấy cả Y-sơ-ra-ên tản lạc trên các núi như bầy chiên không
có người chăn; và Ðức Giê-hô-va có phán rằng: Những kẻ ấy không có chủ, ai nấy
hãy trở về nhà mình bình an.
17. Vua Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sa-phát rằng: Tôi há chẳng có nói với vua rằng
người không nói tiên tri điều lành về việc tôi, bèn là điều dữ sao?
18. Mi-chê lại tiếp: Vậy, hãy nhe lời của Ðức Giê-hô-va. Tôi thấy Ðức Giê-hô-va
ngự trên ngôi Ngài, còn cả đạo binh trên trời đứng chầu bên hữu và bên tả.
19. Ðức Giê-hô-va phán rằng: Ai sẽ đi dụ A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, để người đi lên
Ra-mốt tại Ga-la-át mà ngã chết ở đó? Rồi người nói cách này, kẻ nói cách khác.
20. Bấy giờ, có một thần đi ra, đứng trước mặt Ðức Giê-hô-va, mà thưa rằng: Tôi
sẽ đi dụ người Ðức Giê-hô-va phán hỏi: Dụ làm sao?
21. Thần thưa lại rằng: Tôi sẽ đi ra làm một thần nói dối trong miệng các tiên
tri của người. Ðức Giê-hô-va phán: Phải, ngươi sẽ dụ người được: Hãy đi, làm như
lời.
22. Vậy bây giờ, hãy xem Ðức Giê-hô-va đã đặt một thần nói dối trong miệng các
tiên tri của vua, và Ðức Giê-hô-va đã phán sẽ giáng họa trên vua.
23. Sê-đê-kia, con trai của Kê-na-na, đi đến gần, vả Mi-chê nơi má, mà rằng:
Thần Ðức Giê-hô-va có từ khỏi ta mà đi ngả nào đặng mách bảo cho ngươi?
24. Mi-chê đáp: Kìa, trong ngày ngươi chạy từ phòng này qua phòng kia đặng ẩn
lánh, thì sẽ biết điều đó.
25. Vua Y-sơ-ra-ên truyền lịnh rằng: Hãy bắt Mi-chê dẫn đến A-môn, là quan cai
thành, và cho Giô-ách, con trai của vua,
26. rồi hãy nói: Vua bảo như vầy: Hãy bỏ tù người này, lấy bánh và nước khổ nạn
mà nuôi nó cho đến khi ta trở về bình an.
27. Mi-chê bèn nói: Nếu vua trở về bình an, ắt Ðức Giê-hô-va không có cậy tôi
phán. Người lại nói: Hỡi chúng dân, hết thảy hãy nghe điều đó!
28. Vậy, vua Y-sơ-ra-ên và Giô-sa-phát, vua Giu-đa, đồng đi lên Ra-mốt tại
ga-la-át.
29. Vua Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sa-phát rằng: Tôi sẽ cải dạng ăn mặc, rồi ra
trận; còn vua, hãy mặc áo xống vua. Vua Y-sơ-ra-ên bèn ăn mặc cải dạng, rồi hai
người đi ra trận.
30. Vả, vua Sy-ri có truyền lịnh cho các quan cai xe mình rằng: Chớ áp đánh ai
hoặc nhỏ hay lớn, nhưng chỉ một mình vua Y-sơ-ra-ên mà thôi,
31. Xảy khi các quan cai xe thấy Giô-sa-phát, thì nói rằng: Ấy là vua
Y-sơ-ra-ên. Chúng bèn xây lại đặng áp đánh người. Giô-sa-phát kêu la lớn, Ðức
Giê-hô-va tiếp cứu người, và Ðức Chúa Trời khiến chúng dang xa khỏi người.
32. Vậy, xảy khi các quan cai xe thấy chẳng phải vua Y-sơ-ra-ên, thì thối lại
chẳng đuổi theo nữa.
33. Bấy giờ, có một người tình cờ giương cung bắn vua Y-sơ-ra-ên trúng nhằm vua
nơi mối giáp đâu lại; A-háp nói với người đánh xe mình rằng: Hãy quay cương lại
đem ta ra khỏi hàng quân, vì ta bị thương nặng.
34. Trong ngày đó thế trận càng thêm dữ dội; song vua Y-sơ-ra-ên đứng vịn trên
xe mình, đối mặt cùng dân Sy-ri, cho đến buổi chiều; người chết vào lối mặt trời
lặn.
2 Sử-Ký 19
chọn đoạn khác
1. Giô-sa-phát, vua Giu-đa, trở về bình an nơi cung mình tại Giê-ru-sa-lem.
2. Giê-hu, con trai của Ha-na-ni, đấng tiên kiến, đi ra đón vua Giô-sa-phát, mà
nói rằng: Vua há giúp đỡ kẻ hung ác, và thương mến kẻ ghen ghét Ðức Giê-hô-va
sao? Bởi cớ đó, có cơn giận của Ðức Giê-hô-va đến trên vua.
3. Nhưng trong vua có điều lành, vì vua có trừ diệt khỏi xứ những thần A-sê-ra,
và rắp lòng tìm cầu Ðức Chúa Trời.
4. Giô-sa-phát ở tại Giê-ru-sa-lem. Ðoạn, người lại đi ra tuần soát dân sự, từ
Bê-e-Sê-ba cho đến núi Ép-ra-im, dẫn dắt chúng trở về cùng Giê-hô-va Ðức Chúa
Trời của tổ phụ họ.
5. Người lập quan xét trong khắp nước, tại các thành bền vững của Giu-đa, thành
nào cũng có.
6. Rồi người bảo các quan xét rằng: Hãy cẩn thận việc các người làm; vì chẳng
phải vì loài người mà các ngươi xét đoán đâu, bèn là vì Ðức Giê-hô-va; Ngài sẽ ở
cùng các ngươi trong việc xét đoán.
7. Vậy bây giờ, phải kính sợ Ðức Giê-hô-va, khá cẩn thận mà làm; vì Giê-hô-va
Ðức Chúa Trời của chúng ta chẳng trái phép công bình, chẳng thiên vị người,
chẳng nhận của hối lộ.
8. Lại Giô-sa-phát cũng chọn mấy người Lê-vi, thầy tế lễ và trưởng tộc của
Y-sơ-ra-ên, đặt họ tại Giê-ru-sa-lem, đặng vì Ðức Giê-hô-va mà đoán xét và phân
xử việc kiện cáo. Chúng đều trở về Giê-ru-sa-lem.
9. Người dạy biểu chúng rằng: Các ngươi phải kính sợ Ðức Giê-hô-va, lấy lòng
trọn lành trung tín mà làm như vậy.
10. Hễ có anh em các ngươi ở trong các thành họ, đem đến trước mặt các ngươi
việc tranh tụng nào, hoặc vì sự đổ huyết, hoặc vì phạm luật lệ và điều răn, giới
mạng và pháp độ, thì các ngươi phải dạy bảo họ chớ phạm tội cùng Ðức Giê-hô-va,
e có cơn giận nghịch cùng các ngươi và anh em các ngươi: các ngươi làm như vậy,
ắt không gây cho mình mắc tội.
11. Nầy thầy tế lễ cả A-ma-ria, sẽ quản lý những việc thuộc về Ðức Giê-hô-va, và
Xê-ba-đia, con trai Ích-ma-ên, trưởng tộc chi phái Giu-đa, sẽ quản lý những việc
thuộc về vua; trước mặt các ngươi cũng có những người Lê-vi làm quan cai. Các
ngươi khác làm việc cách can đởm, và Ðức Giê-hô-va sẽ ở cùng người thiện.
2 Sử-Ký 20
chọn đoạn khác
1. Sau các việc này, xảy có dân Mô-áp, dân Am-môn, và những người Mao-nít ở cùng
họ, kéo đến đặng đánh giặc với Giô-sa-phát
2. Bấy giờ, có người đến thuật cho Giô-sa-phát, mà rằng: Có một đám quân rất
đông từ bên bờ kia của biển, từ nước Sy-ri, mà đến hạm đánh vua; kìa chúng đương
ở tại Hát-sát-son-Tha-ma, cũng gọi là Ên-ghê-đi.
3. Giô-sa-phát sợ hãi, và rao khắp xứ Giu-đa phải kiêng ăn một ngày.
4. Giu-đa nhóm lại đặng cầu Ðức Giê-hô-va cứu giúp; người ta ở các thành Giu-đa
đều đến đặng tìm cầu Ðức Giê-hô-va.
5. Giô-sa-phát đứng trong hội chúng Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, tại trong đền của
Ðức Giê-hô-va, trước hành lang mới,
6. mà cầu nguyện rằng: Lạy Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ chúng tôi! Ngài há
chẳng phải là Chúa ở trên các từng trời sao? Há chẳng phải Ðấng quản trị muôn
dân muôn nước sao? Ở nơi tay Chúa có quyền thế năng lực, chẳng ai chống trả Chúa
cho nổi.
7. Hỡi Ðức Chúa Trời chúng tôi! Ngài há chẳng phải đã đuổi dân ở xứ này khỏi
trước mặt dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, mà ban xứ ấy cho dòng dõi Áp-ra-ham, là bạn
hữu Chúa, làm sản nghiệp đời đời sao?
8. Chúng đã ở đó, và đã cất cho danh Chúa một đền thánh mà rằng:
9. Nếu tai họa giáng trên chúng tôi, hoặc gươm giáo, hoặc sự đoán phạt, hoặc
dịch hạch, hay là cơn đói kém, thì chúng tôi sẽ đứng trước đền này và trước mặt
Chúa (vì danh Chúa ở trong đền này), mà kêu cầu Chúa trong sự gian nan chúng
tôi, thì Chúa sẽ dủ nghe và giải cứu cho.
10. Trong lúc dân Y-sơ-ra-ên từ xứ Ê-díp-tô lên, Chúa có cấm họ loán đến xứ dân
Am-môn, dân Mô-áp, và người ở núi Sê-i-rơ; dân Y-sơ-ra-ên xây khỏi chúng nó,
không diệt chúng nó đi;
11. kìa, chúng nó báo lại chúng tôi dường nào, đến toan đuổi chúng tôi khỏi sản
nghiệp Chúa đã ban cho chúng tôi nhận lấy.
12. Hỡi Ðức Chúa Trời chúng tôi ôi, chớ thì Ngài sẽ không xét đoán chúng nó sao?
Vì nơi chúng tôi chẳng còn sức lực gì đối địch cùng đám quân đông đảo này đương
đến hãm đánh chúng tôi, và chúng tôi cũng không biết điều gì mình phải làm;
nhưng con mắt chúng tôi ngửa trông Chúa!
13. Cả Giu-đa đều đứng tại trước mặt Ðức Giê-hô-va với các đứa nhỏ, vợ, và con
cái mình.
14. Bấy giờ, tại giữa hội chúng, Thần Ðức Giê-hô-va cảm động Gia-ha-xi-ên, con
trai Xa-cha-ri, cháu Bê-na-gia, chắt Giê-hi-ên, chít Ma-tha-nia, là người Lê-vi
thuộc về dòng A-sáp,
15. mà phán rằng: Hỡi các người Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem, cùng vua
Giô-sa-phát, hãy nghe! Ðức Giê-hô-va phán cho các ngươi như vầy: Chớ sợ, chớ
kinh hãi bởi cớ đám quân đông đảo này: vì trận giặc này chẳng phải của các ngươi
đâu, bèn là của Ðức Chúa Trời.
16. Ngày mai, hãy đi xuống đón chúng nó: kìa, chúng nó đi lên dốc Xít, các ngươi
sẽ gặp chúng nó nơi đầu trũng, trước mặt đồng vắng Giê-ru-ên.
17. Trong trận này các ngươi sẽ chẳng cần gì tranh chiến; hãy dàn ra, đứng yên
lặng mà xem thấy sự giải cứu của Ðức Giê-hô-va ở cùng các ngươi. Hỡi Giu-đa và
Giê-ru-sa-lem! chớ sợ, chớ kinh hãi; ngày mai, hãy đi ra đón chúng nó, vì Ðức
Giê-hô-va ở cùng các ngươi.
18. Giô-sa-phát bèn cúi sấp mặt xuống đất; và cả Giu-đa và dân cư thành
Giê-ru-sa-lem đều sấp mặt xuống trước mặt Ðức Giê-hô-va, mà thờ lạy Ngài.
19. Người Lê-vi về dòng Kê-hát và về dòng Cô-rê đều đứng dậy cất tiếng lớn mà
khen ngợi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
20. Buổi sớm mai, chúng đều chổi dậy thật sớm, kéo ra đồng vắng Thê-cô-a; đương
lúc chúng đi, Giô-sa-phát đứng tại đó, mà nói rằng: Hỡi người Giu-đa và dân cư
thành Giê-ru-sa-lem! hãy nghe ta: Khá tin cậy Giê-hô-va Ðức Chúa Trời các ngươi,
thì các ngươi sẽ vững chắc; hãy tin các đấng tiên tri Ngài, thì các ngươi sẽ
được may mắn.
21. Khi người đã bàn nghị với dân sự, bèn lập những người ca xướng cho Ðức
Giê-hô-va mặc áo lễ thánh mà đi ra trước cơ binh ngợi khen Chúa rằng: Hãy ngợi
khen Ðức Giê-hô-va, vì sự thương xót Ngài hằng có đời đời.
22. Ðương lúc chúng khởi ca hát và ngợi khen thì Ðức Giê-hô-va đặt phục binh
xông vào dân Am-môn, dân Mô-áp và những kẻ ở núi Sê-i-rơ đã đến hãm đánh Giu-đa;
và các dân ấy đều bị bại.
23. Dân Am-môn và dân Mô-áp dấy lên đánh dân ở núi Sê-i-rơ, đặng diệt chúng nó
đi; khi đã diệt dân ở Sê-i-rơ rồi, thì chúng lại trở giết lẫn nhau.
24. Khi dân Giu-đa đến tháp canh nơi đồng vắng, nhìn đến đám quân đông đảo, thì
thấy những thây nằm sãi trên đất, chẳng có một ai thoát khỏi được.
25. Giô-sa-phát và dân sự người đến cướp lấy tài vật của chúng, thấy có nhiều
của cải, xác chết, và đồ quí báu, bèn cướp lấy cho đến chừng đem đi không đặng;
họ cướp lấy tài vật trong ba ngày, vì là rất nhiều.
26. Qua ngày thứ tư, họ nhóm hiệp tại trũng Bê-ra-ca đặt tên chỗ đó là trũng
Bê-ra-ca cho đến, ngày nay.
27. Hết thảy người Giu-đa và người Giê-ru-sa-lem cùng Giô-sa-phát đi đầu trước,
trở về Giê-ru-sa-lem cách vui vẻ; vì Ðức Giê-hô-va đã làm cho chúng vui mừng, vì
cớ quân thù nghịch mình bị đánh bại.
28. Chúng gảy đờn cầm, đờn sắt, và thổi sáo mà trở về Giê-ru-sa-lem, đến đền của
Ðức Giê-hô-va.
29. Khi các nước thiên hạ nghe Ðức Giê-hô-va đã đánh bại quân thù nghịch của
Y-sơ-ra-ên, thì lấy làm kinh hãi Ðức Chúa Trời.
30. Vậy, nước của Giô-sa-phát được hòa bình, vì Ðức Chúa Trời người ban cho
người sự an nghỉ bốn bên.
31. Vậy, Giô-sa-phát làm vua nước Giu-đa; khi lên ngôi thì tuổi được ba mươi
lăm, và người cai trị hai mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem; tên mẹ người là
A-xu-ba, con gái của Si-li.
32. Người đi theo con đường của A-sa, cha người, không lìa bỏ, làm điều ngay
thẳng trước mặt Ðức Giê-hô-va.
33. Song người không trừ bỏ các nơi cao, và dân sự chưa dốc lòng tìm cầu Ðức
Chúa Trời của tổ phụ mình.
34. Các công việc khác của Giô-sa-phát từ đầu đến cuối, đều chép tong truyện
Giê-hu, con trai Ha-na-ni, và truyện ấy đã đem vào sách các vua Y-sơ-ra-ên.
35. Sau việc đó, Giô-sa-phát, vua Giu-đa, kết giao với A-cha-xia, vua
Y-sơ-ra-ên; người này ăn ở rất gian ác.
36. Hai vua hội hiệp nhau đặng đóng tàu vượt đi Ta-rê-si; họ đóng tàu tại
Ê-xi-ôn-Ghê-be.
37. Khi ấy, Ê-li-ê-xe, con trai Ðô-đa-va ở Ma-rê-sa, nói tiên tri về vua
Giô-sa-phát, mà rằng: Bởi vì vua kết giao với A-cha-xia, nên Ðức Giê-hô-va đã
hủy phá công việc vua; những tàu bèn bị bể nát, không vượt đi Ta-rê-si được.
2 Sử-Ký 21
chọn đoạn khác
1. Giô-sa-phát an giấc cùng tổ phụ mình, được chôn trong thành Ða-vít với tổ phụ
người; Giô-ram con trai người, cai trị thế cho người.
2. Người có các em ruột, tức là những con trai Giô-sa-phát: A-xa-ria, Giê-hi-ên,
Xa-cha-ri, A-xa-ria-u, Mi-ca-ên, và Sê-pha-ti-a; các người này đều là con trai
của Giô-sa-phát, vua Y-sơ-ra-ên.
3. Vua cha có ban cho chúng nhiều của cải bằng bạc và vàng, những bửu vật với
các thành vững bền trong xứ Giu-đa; nhưng người ban ngôi nước cho Giô-ram, bởi
vì người là con trưởng.
4. Khi Giô-ram lên ngôi nước cha mình, làm cho mình mạnh mẽ, bèn lấy gươm giết
các em mình và mấy người quan trưởng của Y-sơ-ra-ên.
5. Giô-ram được ba mươi hai tuổi, khi lên ngôi làm vua, và người cai trị tám năm
tại Giê-ru-sa-lem.
6. Người đi trong con đường của các vua Y-sơ-ra-ên, theo điều nhà A-háp đã làm;
vì người có cưới con gái A-háp làm vợ; người làm điều ác trước mặt Ðức
Giê-hô-va.
7. Nhưng, vì Ðức Giê-hô-va đã lập giao ước với Ða-vít, bởi Ngài đã hứa rằng sẽ
ban một ngọn đèn cho người và cho con cháu người đến đời đời, nên Ngài không
muốn diệt nhà Ða-vít.
8. Trong đời Giô-ram, Ê-đôm phản nghịch cùng Giu-đa, và lập một vua cho mình.
9. Giô-ram với các quan tướng và các xe của mình, ban đêm chổi dậy, kéo ra đánh
Ê-đôm đã vây phủ mình và các quan cai xe.
10. Song Ê-đôm dấy nghịch, không phục dưới tay Giu-đa cho đến ngày nay. Cũng
trong một lúc ấy, Líp-na phản nghịch, không phục dưới tay Giô-ram nữa, bởi vì
người đã lìa bỏ Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ người.
11. Người cũng lập những nơi cao trong các núi Giu-đa, xui cho dân cư thành
Giê-ru-sa-lem thông dâm, và khiến cho dân Giu-đa lầm lạc.
12. Ðấng tiên tri Ê-li gởi thơ cho Giô-ram, mà nói rằng: Giê-hô-va Ðức Chúa Trời
của Ða-vít, tổ phụ ông, đã phán như vầy: bởi ngươi không đi theo đường lối của
Giô-sa-phát, cha ngươi, lại cũng chẳng đi theo con đường của A-sa, vua Giu-đa,
13. nhưng đã đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, xui cho người Giu-đa và
dân cư thành Giê-ru-sa-lem thông dâm y như nhà A-háp đã làm vậy, và cũng đã giết
các em ngươi về nhà cha của ngươi, là những người tốt hơn ngươi,
14. này Ðức Giê-hô-va sẽ giáng họa lớn trên dân sự ngươi, trên con cái ngươi,
trên các vợ ngươi, cùng trên các tài vật của ngươi;
15. còn chính mình ngươi sẽ bị bịnh trong gan ruột càng ngày càng nặng cho đến
đỗi gan ruột tan rớt ra.
16. Vả lại, Ðức Giê-hô-va khêu lòng dân Phi-li-tin và dân A rạp ở gần bên dân
Ê-thi-ô-bi, nghịch với Giô-ram;
17. chúng kéo lên hãm đánh Giu-đa, lấn vào trong cả xứ, đoạt lấy các tài vật
thấy trong cung điện vua, và bắt các vương tử cùng hậu phi của người đi làm phu
tù, đến nỗi trừ ra Giô-a-cha con trai út người, thì chẳng còn sót lại cho người
một con trai nào hết.
18. Sau các việc ấy, Ðức Giê-hô-va hành hại người, khiến cho bị bịnh bất trị
trong ruột.
19. Ngày qua tháng lụn, xảy cuối năm thứ nhì, thì ruột gan Giô-ram vì bịnh tan
rớt ra, và người chết cách đau đớn dữ tợn; dân sự không xông thuốc thơm cho
người như đã xông cho tổ phụ người.
20. Khi người lên ngôi, thì tuổi được ba mươi hai, và người cai trị tám năm tại
Giê-ru-sa-lem; người qua đời chẳng ai tiếc người; người ta chôn người trong
thành Ða-vít, song chẳng phải tại mồ các vua.
2 Sử-Ký 22
chọn đoạn khác
1. Dân cư thành Giê-ru-sa-lem lập A-cha-xia, con trai út của Giô-ram, làm vua
thay vì người; vì đạo quân đến với dân A rạp xông vào trại quân, đã giết các con
trai lớn hơn người. Ấy vậy, A-cha-xia, con trai Giô-ram, vua Giu-đa, lên ngôi
làm vua.
2. A-cha-xia được hai mươi hai tuổi khi người tức vị; người cai trị một năm tại
Giê-ru-sa-lem; tên mẹ người là A-tha-li, con gái của Ôm-ri.
3. Người cũng đi theo các đường lối của nhà A-háp vì mẹ người là kẻ bày mưu giục
người làm điều ác.
4. Người làm những điều ác trước mặt Ðức Giê-hô-va như nhà A-háp đã làm; vì sau
khi vua cha qua đời, nhà A-háp làm kẻ bày mưu cho người, gây cho người bị bại
hoại.
5. Người cũng theo mưu chước của chúng mà đi với Giô-ram, con trai A-háp, vua
Y-sơ-ra-ên, đến Ra-mốt tại Ga-la-át, đặng tranh chiến cùng Ha-xa-ên, vua Sy-ri.
Dân Sy-ri làm cho Giô-ram bị thương.
6. Người bèn trở về Gít-rê-ên, đặng chữa lành các dấu thương người đã bị tại
Ra-ma, khi đánh giặc với Ha-xa-ên, vua Sy-ri, A-cha-xia, con trai Giô-ram, vua
Giu-đa đi xuống Gít-rê-ên đặng thăm bịnh Giô-ram, con trai A-háp.
7. Việc A-cha-xia đi đến cùng Giô-ram bởi ý Ðức Chúa Trời, và gây cho người bị
bại hoại; vì khi người đến tận nơi, bèn cùng Giô-ram kéo ra đánh Giê-hu, con
trai Nim-si, là người Ðức Giê-hô-va đã xức dầu cho, đặng trừ diệt nhà A-háp.
8. Xảy đương khi Giê-hu trừ diệt nhà A-háp, lại gặp được các quan trưởng Giu-đa
và các con trai của anh em A-cha-xia vẫn phục sự người, thì liền giết chúng nó
đi.
9. Người cũng tìm A-cha-xia đương ẩn tại Sa-ma-ri, người ta bắt người, dẫn đến
cùng Giê-hu, rồi giết người đi, đoạn họ chôn người, vì nói rằng: Hắn là con trai
của Giô-sa-phát, tức người hết lòng tìm cầu Ðức Giê-hô-va. Trong nhà A-cha-xia
chẳng còn ai có thể giữ quyền cai trị nước được.
10. Vả, khi A-tha-li, mẹ của A-cha-xia, thấy con trai mình đã chết, bèn chổi dậy
diệt cả dòng giống vua Giu-đa.
11. Nhưng Giô-sa-bát, con gái của vua, bồng trộm Giô-ách, con trai của
A-cha-xia, đem khỏi vòng các con trai cua mà người ta toan giết, rồi để nó và kẻ
vú nó trong phòng ngủ. Như vậy, Giô-sa-bát, con gái của vua Giô-ram, vợ thầy tế
lễ Giê-hô-gia-đa, giấu Giô-ách khỏi trước mắt A-tha-li, và A-tha-li không giết
nó được; Giô-sa-bát là em gái của A-cha-xia.
12. Giô-ách bị ẩn giấu với họ trong sáu năm tại đền thờ của Ðức Chúa Trời; còn
A-tha-li cai trị trên xứ.
2 Sử-Ký 23
chọn đoạn khác
1. Năm thứ bảy, Giê-hô-gia-đa làm cho mình nên mạnh, vời các quan tướng cai trăm
người, là A-cha-xia, con trai của Giê-rô-ham, Ích-ma-ên, con trai của
Giô-ha-nan, A-xa-ria, con trai của Ô-bết, Ma-a-xê-gia, con trai của A-đa-gia, và
Ê-li-sa-phát, con trai của Xiếc-ri, và lập giao ước với các người ấy.
2. Những người ấy đi khắp xứ Giu-đa, và từ các thành Giu-đa nhóm người Lê-vi và
các trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên; rồi họ đều đến Giê-ru-sa-lem.
3. Cả hội chúng đều lập giao ước với vua tại trong đền thờ của Ðức Chúa Trời.
Giê-hô-gia-đa nói với chúng rằng: Nầy con trai của vua sẽ cai trị theo lời Ðức
Giê-hô-va đã phán về con cháu Ða-vít.
4. Nầy điều các ngươi sẽ làm: Một phần ba trong các ngươi, tức những thầy tế lễ
và người Lê-vi, đến phiên trong ngày sa-bát, sẽ giữ cửa;
5. một phần ba sẽ vào trong cung vua, và một phần ba ở nơi cửa Giê-sốt; còn cả
dân sự sẽ ở nơi hành lang của đền Ðức Giê-hô-va.
6. Chớ để ai vào trong đền của Ðức Giê-hô-va ngoại trừ những thầy tế lễ và các
người Lê-vi phục sự: họ sẽ vào, bởi vì họ thánh sạch, cả dân sự sẽ giữ mạng lịnh
của Ðức Giê-hô-va.
7. Người Lê-vi sẽ vây chung quanh vua, hễ ai vào đền thờ thì sẽ bị giết; các
ngươi khá theo hầu vua khi người đi ra đi vào.
8. Người Lê-vi và cả Giu-đa đều làm theo lời thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đã dặn
bảo; mỗi người đều lãnh kẻ thủ hạ mình, hoặc những kẻ vào phiên ngày sa-bát hay
là kẻ mãn phiên ngày sa-bát; vì thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa không cho các phiên đổi
về.
9. Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa phát cho các quan tướng cai trăm người, những giáo,
khiên nhỏ và lớn của vua Ða-vít, để trong đền Ðức Chúa Trời.
10. Người khiến dân chúng, ai nấy cầm binh khí mình, sắp hàng đứng chung quanh
vua dài theo bàn thờ và đền, từ bên hữu đền cho đến bên tả đền.
11. Ðoạn chúng đem vương tử ra, đội mão triều thiên trên đầu người, và trao luật
pháp cho người, rồi tôn người làm vua; Giê-hô-gia-đa và các con trai người xức
dầu cho người mà rằng: Vua vạn tuế!
12. Khi A-tha-li nghe tiếng dân sự chạy và chúc tụng vua, thì đi đến cùng dân sự
tại trong đền Ðức Giê-hô-va.
13. Bà xem thấy vua đứng trên cái sạp tại cửa vào; các quan tướng và kẻ thổi kèn
đứng gần bên vua; còn cả dân sự của xứ đều vui mừng và thổi kèn, lại có những kẻ
ca xướng gảy nhạc khí, mà ngợi khen Ðức Chúa Trời. A-tha-li bèn xé áo mình mà la
lên rằng: Phản ngụy! phản ngụy!
14. Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đòi ra các quan tướng cai trăm người được đặt thống
quản đạo quân, mà biểu rằng: Hãy dẫn bà ra ngoài khỏi hàng quân, hễ ai theo bà,
khá giết nó bằng gươm, vì thầy tế lễ đã dạy rằng: Chớ giết bà tại trong đền thờ
của Ðức Giê-hô-va.
15. Chúng bèn vẹt đường cho bà; bà trở vào cung vua bởi nơi cửa ngựa vào; rồi
chúng giết bà tại đó.
16. Giê-hô-gia-đa bèn lập giao ước với cả dân sự và với vua, để chúng làm dân sự
của Ðức Giê-hô-va.
17. Cả dân sự đều đi đến miễu Ba-anh, phá dỡ nó, đập bể bàn thờ và hình tượng
nó, rồi giết Ma-than, thầy tế lễ của Ba-anh, tại trước bàn thờ.
18. Chiếu theo ban thứ Ða-vít đã định trong đền của Ðức Giê-hô-va, Giê-hô-gia-đa
giao các chức sự về đền Ðức Giê-hô-va vào tay những thầy tế lễ và người Lê-vi,
đặng dân những của lễ thiêu cho Giê-hô-va cách ca hát vui mừng, y theo đều đã
chép trong luật pháp của Môi-se, và theo lệ Ða-vít đã định.
19. Người cũng đặt những kẻ canh cửa ở nơi các cửa đền Ðức Giê-hô-va, hầu cho ai
bị ô uế về vô luận sự gì, đều chẳng được vào đó.
20. Người lãnh lấy những quan tướng cai trăm người, kẻ tước vị và những người
quan trưởng của dân, cùng cả dân sự của xứ, mà rước vua từ đền Ðức Giê-hô-va
xuống, đi vào cung vua bởi cửa trên, rồi đặt vua ngồi trên ngôi nước.
21. Hết thảy dân sự của xứ đều vui mừng, và thành được bình tịnh. Vả, chúng đã
giết A-tha-li bằng gươm.
2 Sử-Ký 24
chọn đoạn khác
1. Giô-ách được bảy tuổi khi người lên làm vua; người cai trị bốn mươi năm tại
Giê-ru-sa-lem; mẹ người tên là Xi-bia, quê ở Bê-e-Sê-ba.
2. Giô-ách làm điều thiện trước mặt Ðức Giê-hô-va trọn đời thầy tế lễ
Giê-hô-gia-đa.
3. Giê-hô-gia-đa cưới hai vợ cho Giô-ách; người sanh được những con trai và con
gái.
4. Sau việc này, Giô-ách có ý tu bổ đền của Ðức Giê-hô-va,
5. bèn nhóm những thầy tế lễ và người Lê-vi, mà bảo rằng: Hãy đi khắp các thành
Giu-đa, thâu lấy tiền bạc của cả Y-sơ-ra-ên, để hằng năm tu bổ lại cái đền của
Ðức Chúa Trời các ngươi; khá làm việc này cho mau. Song người Lê-vi trì hưỡn.
6. Vua vời thầy tế lễ thượng phẩm Giê-hô-gia-đa, mà bảo rằng: Cớ sao người Lê-vi
từ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đem nộp thuế, mà Môi-se, tôi tớ của Ðức Giê-hô-va, đã
định cho hội chúng Y-sơ-ra-ên phải dâng cho trại chứng cớ?
7. Vì A-tha-li, người nữ độc ác kia, và các con trai nàng đã phá hủy đền của Ðức
Chúa Trời; và chúng nó đã dâng các vật thánh của đền Ðức Giê-hô-va cho thần
Ba-anh.
8. Vua bèn truyền dạy người ta đóng một cái hòm, để phía ngoài cửa đền Ðức
Giê-hô-va.
9. Rồi người ta rao cho khắp xứ Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem ai nấy phải đem
dâng cho Ðức Giê-hô-va tiền thuế mà Môi-se, tôi tớ của Ðức Chúa Trời, đã định về
Y-sơ-ra-ên tại trong đồng vắng.
10. Hết thảy các quan trưởng và cả dân sự đều vui mừng, đem bạc đến bỏ vào trong
hòm cho đến đầy.
11. Khi người Lê-vi thấy trong hòm đựng nhiều bạc, bèn đem nó lên giao cho vua
kiểm soát; thơ ký vua và người của thầy tế lễ thượng phẩm đều đến trút hòm ra,
rồi đem để lại chỗ cũ. Mỗi ngày họ làm như vậy, và thâu được rất hiều bạc.
12. Vua và Giê-hô-gia-đa giao bạc ấy cho những kẻ coi sóc công việc trong đền
Ðức Giê-hô-va; họ mướn thợ đẽo đá, và thợ mộc, đặng tu bổ đền Ðức Giê-hô-va;
cũng mướn những thợ sắt và thợ đồng đặng sửa lại đền Ðức Giê-hô-va.
13. Vậy, các thợ làm công việc, và nhờ tay họ việc tu bổ được thành; chúng làm
lại đền của Ðức Chúa Trời như cũ, và làm cho vững chắc.
14. Khi đã làm xong, chúng bèn đem bạc còn dư lại đến trước mặt vua và
Giê-hô-gia-đa; người ta dùng bạc ấy làm những đồ lễ về đền Ðức Giê-hô-va, tức
những đồ dùng về việc phụng sự, và về cuộc tế lễ, những chén, và những khí dụng
bằng vàng bằng bạc. Trọn đời Giê-hô-gia-đa, người ta hằng dâng của lễ thiêu tại
đền của Ðức Giê-hô-va luôn luôn.
15. Vả, Giê-hô-gia-đa đã trở về già tuổi rất cao, rồi qua đời; lúc người thác,
được một trăm ba mươi tuổi.
16. Người ta chôn người tại trong thành Ða-vít chung với các vua, vì người có
công lao trong Y-sơ-ra-ên, có hầu việc Ðức Chúa Trời, và tu bổ đền của Ngài.
17. Sau khi Giê-hô-gia-đa đã qua đời, các quan trưởng Giu-đa đến chầu lạy vua.
Vua bèn nghe theo lời của chúng,
18. lìa bỏ đền Ðức Giê-hô-va là Ðức Chúa Trời của tổ phụ mình, mà phục sự những
thần A-sê-ra và các hình tượng; tại cớ tội lỗi ấy, bèn có cơn giận của Chúa
nghịch cùng Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
19. Ðức Giê-hô-va sai các đấng tiên tri đến cùng chúng, để dắt chúng trở lại
cùng Ðức Giê-hô-va; nhưng chúng không chịu nghe.
20. Thần của Ðức Chúa Trời cảm động Xa-cha-ri, con trai của thầy tế lễ
Giê-hô-gia-đa; người đứng dậy trước mặt dân sự, mà nói rằng: Ðức Chúa Trời phán
như vầy: Cớ sao các ngươi phạm các điều răn của Ðức Giê-hô-va? Các ngươi sẽ
chẳng may mắn được, vì đã lìa bỏ Ðức Giê-hô-va, và Ðức Giê-hô-va cũng đã lìa bỏ
các ngươi.
21. Chúng bèn phản nghịch với người, và theo lịnh vua ném đá người tại trong
hành lang của đền Ðức Giê-hô-va.
22. Ấy vậy, vua Giô-ách không nhớ đến sự nhân từ của Giê-hô-gia-đa, cha của
A-cha-xia, đã làm cho mình, nhưng giết con trai người đi; khi người chết thì có
nói rằng: Nguyện Ðức Giê-hô-va xem xét và báo lại cho!
23. Xảy khi đến cuối năm, thì đạo binh Sy-ri kéo lên hãm đánh Giô-ách; chúng nó
loán đến Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, giết các quan trưởng của dân, rồi gởi hết
những của cướp về cho vua tại Ða-mách.
24. Ðạo binh Sy-ri kéo đến có ít người, Ðức Giê-hô-va lại phó một đạo binh rất
đông vào tay chúng nó, bởi vì họ đã lìa bỏ Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ
mình. Như vậy, dân Sy-ri xử hình phạt cho Giô-ách.
25. Khi chúng đã bỏ đi rồi (vả chúng để người ở lại bị đau nặng), các đầy tớ
người bèn phản nghịch cùng người, vì cớ huyết của con trai thầy tế lễ
Giê-hô-gia-đa, giết người tại trên giường, và người chết; người ta chôn người
tại trong thành Ða-vít, song không phải trong mồ các vua.
26. Nầy là những kẻ dấy nghịch cùng người: Xa-bát, con trai của Si-mê-át, là đờn
bà Am-môn, và Giô-xa-bát, con trai Sim-rít, là đờn bà Mô-áp.
27. Còn về việc các con trai người, số cống thuế người phải nộp, và cuộc tu bổ
đền của Ðức Giê-hô-va, thảy đều chép trong sách truyện các vua. A-ma-xia, con
trai người, cai trị thế cho người.
2 Sử-Ký 25
chọn đoạn khác
1. A-ma-xia được hai mươi lăm tuổi khi người lên ngôi làm vua; người cai trị hai
mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem; mẹ người tên là Giô-a-đan, quê ở Giê-ru-sa-lem.
2. Người làm điều thiện tại trước mặt Ðức Giê-hô-va, song lòng không được trọn
lành.
3. Xảy khi nước người được vững chắc, thì người xử tử những đầy tớ đã giết cha
mình.
4. Nhưng người không xử tử các con trai chúng, theo điều đã chép trong sách luật
pháp của Môi-se, như Ðức Giê-hô-va đã phán dặn rằng: Cha sẽ chẳng phải chết vì
con, con cũng sẽ chẳng phải chết vì cha; song mỗi người sẽ chết vì tội mình.
5. A-ma-xia nhóm những người Giu-đa, cứ theo họ hàng của tổ phụ Giu-đa và
Bên-gia-min, mà lập những quan tướng cai ngàn người và cai trăm người; lại tu bộ
những người từ hai mươi tuổi sấp lên, số cọng được ba mươi vạn người kén chọn ra
trận được cùng có tài cầm giáo và khiên.
6. Người cũng mộ mười vạn người mạnh dạn trong Y-sơ-ra-ên, giá một trăm ta lâng
bạc.
7. Nhưng có người của Ðức Chúa Trời đến nói với người rằng: Hỡi vua! đạo binh
Y-sơ-ra-ên chớ kéo đi với vua; vì Ðức Giê-hô-va chẳng ở cùng Y-sơ-ra-ên, chẳng ở
cùng các con cháu Ép-ra-im.
8. Còn nếu vua muốn đi, thì hãy đi đi khá làm cho mình mạnh mẽ mà chinh chiến
đi; Ðức Chúa Trời sẽ khiến vua ngã trước mặt quân thù; vì Ðức Chúa Trời có quyền
giúp cho thắng và cũng có quyền làm cho sa bại.
9. A-ma-xia nói với người Ðức Chúa Trời rằng: Còn về một trăm ta lâng bạc kia,
mà ta đã phát cho đạo binh Y-sơ-ra-ên, thì phải làm sao? Người của Ðức Chúa Trời
đáp: Ðức Giê-hô-va có thể ban cho vua nhiều hơn số ấy.
10. Vậy, A-ma-xia phân rẽ đạo binh đã từ Ép-ra-im đến cùng người, cho chúng trở
về nhà; tại cớ ấy, chúng giận Giu-đa lắm, và trở về nhà lấy làm nóng giận phừng.
11. A-ma-xia làm dạn dĩ, kéo dân sự mình đến trũng Muối, đánh một vạn người của
dân Sê-i-rơ.
12. Dân Giu-đa bắt sống một vạn người đem chúng nó lên trên chót hòn đá, rồi từ
trên chót hòn đá xô chúng nó xuống, thảy đều bị giập chết hết.
13. Còn đạo binh mà A-ma-xia khiến trở về, không cho đi ra trận với mình, thì
xông vào các thành Giu-đa, từ Sa-ma-ri cho đến Bết-Hô-rôn, đánh giết ba ngàn
người tại đó, và cướp lấy nhiều của cải.
14. Khi đánh được dân Ê-đôm trở về, thì đem các thần của dân Sê-i-rơ về, lập lên
làm thần của mình, quì lạy trước mặt chúng nó, và đốt hương cho.
15. Vì vậy, cơn thạnh nộ của Ðức Giê-hô-va nổi lên cùng A-ma-xia, Ngài sai một
đấng tiên tri đến nói với người rằng: Cớ sao ngươi đi cầu các thần không giải
cứu được dân tộc thờ lạy chúng nó khỏi tay ngươi?
16. Xảy khi đấng tiên tri tâu với vua, thì vua bảo người rằng: Ta há lập ngươi
làm mưu sĩ cho vua sao? Hãy thôi đi, kẻo ta đánh ngươi chăng Ðấng tiên tri bèn
thôi, và nói rằng: Tôi biết rằng Ðức Giê-hô-va đã quyết định hủy diệt vua, bởi
vì vua đã làm điều ấy, và không nghe lời tôi.
17. A-ma-xia, vua Giu-đa, mưu nghị rồi, thì sai đến Giô-ách, con trai Giô-a-cha,
cháu Giê-hu, vua Y-sơ-ra-ên, mà nói rằng: Hãy đến, để chúng ta thấy nhau.
18. Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên, sai sứ đến A-ma-xia, vua Giu-đa, mà nói rằng: Cây
gai ở Li-ban có sai đến nói với cây bá hương ở Li-ban rằng: Hãy gả con gái ngươi
cho con trai ta làm vợ. Song có một con thú đồng ở Li-ban đi ngang qua, giày đạp
cây gai đi.
19. Ngươi nói: Nầy ta đã đánh Ê-đôm! Lòng ngươi lại tự cao tự khoe. Bây giờ, khá
ở trong nhà ngươi, cớ sao làm cho mình mắc họa, và khiến cho ngươi và Giu-đa
phải sa ngã?
20. A-ma-xia không nghe lời, vì điều đó do ý Ðức Chúa Trời, để phó chúng vào tay
kẻ thù nghịch, bởi vì chúng có tìm kiếm các thần của Ê-đôm.
21. Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên, kéo lên; người và A-ma-xia, vua Giu-đa, bèn thấy
nhau tại Bết-sê-mết trong xứ Giu-đa.
22. Quân Giu-đa bị quân Y-sơ-ra-ên đánh đuổi, bèn chạy trốn, ai về trại nấy.
23. Tại Bết-sê-mết, Giô-ách vua Y-sơ-ra-ên, bắt A-ma-xia, vua Giu-đa, con trai
Giô-ách, cháu Giô-a-cha, điệu người về Giê-ru-sa-lem đoạn người phá cửa Góc, một
khúc dài bốn trăm thước.
24. Người lấy hết vàng, bạc, và những khí dụng ở trong đền của Ðức Chúa Trời, có
Ô-bết-Ê-đôm coi giữ, cùng các bửu vật của cung vua; người cũng bắt kẻ cầm làm
tin, rồi trở về Sa-ma-ri.
25. A-ma-xia, con trai Giô-ách, vua Giu-đam còn sống mười lăm năm nữa, sau khi
Giô-a-cha, vua Y-sơ-ra-ên, đã băng hà.
26. Các công việc khác của A-ma-xia từ đầu đến cuối, đều đã chép trong sách các
vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
27. Vả từ khi A-ma-xia xây bỏ Ðức Giê-hô-va về sau, thì có người phản nghịch
cùng người tại Giê-ru-sa-lem, người bèn chạy trốn đến La-ki; song người ta sai
đuổi theo người đến La-ki, và giết người tại đó.
28. Ðoạn người ta có chở thây người về trên ngựa, chôn người tại trong thành
Giu-đa chung cùng các tổ phụ người.
2 Sử-Ký 26
chọn đoạn khác
1. Cả dân Giu-đa đều lập Ô-xia làm vua thế cho A-ma-xia, cha người; tuổi người
được mười sáu.
2. Sau khi vua cha đã an giấc với các tổ phụ, người xây cất Ê-lốt, và khôi phục
nó cho Giu-đa.
3. Ô-xia được mười sáu tuổi, khi người lên làm vua; người cai trị năm mươi hai
năm tại Giê-ru-sa-lam; mẹ người tên là Giê-cô-lia, quê ở Giê-ru-sa-lem.
4. Người làm điều thiện trước mặt Ðức Giê-hô-va, y theo mọi điều A-ma-xia, cha
người đã làm.
5. Trong đời Xa-cha-ri, là người thông hiểu các dị tượng của Ðức Chúa Trời, thì
Ô-xia rắp lòng tìm kiếm Ðức Chúa Trời; và người tìm kiếm bao lâu; thì Ðức Chúa
Trời khiến cho người đặng may mắn bấy lâu.
6. Người kéo ra chiến tranh với dân Phi-li-tin đánh đổ tường thành Gát, tường
thành Giáp-nê, và tường thành Ách-đốt; người xây cất những thành trong địa hạt
Ách-đốt và tại đất người Phi-li-tin.
7. Ðức Chúa Trời giúp đỡ người được thắng dân Phi-li-tin, dân A rạp ở tại
Gu-rơ-Ba-anh, và dân Ma-ôn.
8. Dân Am-môn cũng tiến cống cho Ô-xia; danh tiếng người đồn đến cõi Ê-díp-tô,
vì người đã trở nên rất cường thạnh.
9. Ô-xia cũng xây những tháp tại Giê-ru-sa-lem, trên cửa Góc, trên cửa Trũng, và
trên Góc tường, làm cho nó vững chắc.
10. Người cũng cất những tháo trong đồng vắng, đào nhiều giếng, vì có nhiều súc
vật trong đồng bằng và trên đồng cao; cũng có những người làm ruộng, kẻ trồng
nho trên núi và tại Cạt-mên, vì người thích việc canh nông.
11. Ô-xia có một đạo binh đặn đi chinh chiến, kéo ra trận từ tốp, tùy số tu bộ
mà thơ ký Giê-hi-ên, và quan giám thị Ma-a-xê-gia đã làm, có Ha-na-nia, đại thần
của vua, cai quản.
12. Trọn số các trưởng tộc, tức là những người mạnh dạn, là hai ngàn sáu trăm
người.
13. Chúng quản lãnh một đạo binh ba mươi vạn bảy ngàn sáu trăm người, đều hay
đánh giặc cách mạnh dạn, hầu giúp vua đối địch với cừu địch.
14. Ô-xia sắm sửa cho cả đạo binh những khiên, giáo, mũ, giáp, cung, và những đá
trành.
15. Ở Giê-ru-sa-lem, người khiến tay kỹ sư chế tạo những máy dùng đặt trên các
tháp, và trên chót đồn lũy, đặng bắn tên và đá lớn. Danh tiếng người đồn ra
phương xa; bởi vì người được Chúa giúp đỡ cách lạ thường, cho đến trở nên cường
thạnh.
16. Song khi người được trở nên cường thạnh, lòng bèn kiêu ngạo, đến đỗi làm ác,
phạm tội cùng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của người; vì người vào trong đền thờ Ðức
Giê-hô-va, xông hương trên bàn thờ xông hương.
17. Thầy tế lễ A-xa-ria vào sau người, có tám mươi thầy tế lễ, đều là người mạnh
dạn, đồng đi theo.
18. Chúng cản cự vua Ô-xia mà rằng: Hỡi vua, chẳng phải phần vua xông hương cho
Ðức Giê-hô-va đâu, bèn là phần của những thầy tế lễ, con cháu A-rôn, đã được
biệt riêng ra thánh đặng xông hương vậy. Hãy đi ra khỏi đền thánh, vì vua đã
phạm tội; lại vì việc này Ðức Giê-hô-va sẽ chẳng làm cho vua được vinh hiển đâu
19. Ô-xia bèn nổi giận; người cầm nơi tay một cái bình hương toan xông hương; và
đang khi người nổi giận cùng những thầy tế lễ, phung bèn nổi lên nơi trán người
trước mặt những thầy tế lễ, tại trong đền của Ðức Giê-hô-va ở gần bên bàn thờ
xông hương.
20. A-xa-ria, thầy tế lễ thượng phẩm, và hết thảy thầy tế lễ khác ngó xem người,
thấy người bị bịnh phung ở nơi trán, bèn đuổi người ra khỏi đó; và chính người
cũng lật đật ra, vì Ðức Giê-hô-va hành hại người.
21. Ô-xia bị bịnh phung cho đến ngày băng hà; và vì bị phung phải ở riêng ra
trong một nhà khác, chẳng còn được vào đền của Ðức Giê-hô-va nữa; Giô-tham, con
trai người, quản lý cung vua, và xét đoán dân sự của nước.
22. Ðấng tiên tri Ê-sai, con trai của A-mốt, đã biên chép các công sự khác của
Ô-xia từ đầu đến cuối.
23. Ô-xia an giấc cùng tổ phụ người, và người ta chôn người chung với tổ phụ
người tại ruộng lăng tẩm của các vua; vì người ta nói rằng: Người bị phung.
Giô-tham, con trai người, cai trị thế cho người.
2 Sử-Ký 27
chọn đoạn khác
1. Giô-tham được hai mươi lăm tuổi khi người lên ngôi làm vua, và người cai trị
mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem; mẹ người tên là Giê-ru-sa, con gái của Xa-đốc.
2. Người làm điều thiện trước mặt Ðức Giê-hô-va, y theo mọi điều Ô-xia, cha
người, đã làm; song người không vào đền thờ của Ðức Giê-hô-va; còn dân sự lại
càng làm luông tuồng nữa.
3. Người xây cửa trên của đền Ðức Giê-hô-va, và xây nhiều trên tường thành
Ô-phên.
4. Người cũng xây những thành trong miền núi Giu-đa, và đền đài cùng những tháp
ở trên rừng.
5. Người đánh giặc với vua dân Am-môn, và thắng được chúng. Trong năm đó, dân
Am-môn nộp cho người một trăm ta lâng bạc một vạn cô-rơ lúa miến, và một vạn
cô-rơ lúc mạch. Trong năm thứ nhì và thứ ba, dân Am-môn cũng tiến cống người số
ấy.
6. Vậy, Giô-tham trở nên cường thạnh, bởi vì người đi đường chánh đáng trước mặt
Ðức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời mình.
7. Các công việc khác của Giô-tham, hết thảy những chiến trận và đường lối của
người, đều chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
8. Người được hai mươi lăm tuổi khi lên làm vua, và người cai trị mười sáu năm
tại Giê-ru-sa-lem.
9. Người an giấc cùng tổ tiên mình, người ta chôn người tại trong thành Ða-vít;
đoạn A-cha, con trai người, cai trị thế cho người.
2 Sử-Ký 28
chọn đoạn khác
1. A-cha được hai mươi tuổi khi người lên ngôi làm vua; người cai trị mười sáu
năm tại Giê-ru-sa-lem, chẳng làm điều thiện trước mặt Ðức Giê-hô-va y như
Ða-vít, tổ phụ người, đã làm;
2. nhưng người đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, lại cũng làm những hình
tượng đúc cho thần Ba-anh,
3. đốt hương trong trũng con Hi-nôm, và thiêu con cái mình nơi lửa, theo sự gớm
ghiếc của các dân tộc mà Ðức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-đơ-ra-ên.
4. Người dâng của lễ và xông hương trên các nơi cao, trên các gò nổng và dưới
các cây rậm.
5. Vì vậy, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời người phó người vào tay vua Sy-ri; quân Sy-ri
đánh được người, bắt trong dân người rất nhiều phu tù, và dẫn về Ða-mách, Người
cũng bị phó vào tay của Y-sơ-ra-ên, làm cho người phải thất trận cả thể.
6. Vả, Phê-ca, con trai của Rê-ma-lia, giết trong một ngày mười hai vạn người
Giu-đa, thảy đều là người mạnh dạn; bởi vì chúng đã lìa bỏ Giê-hô-va Ðức Chúa
Trời của tổ phụ mình.
7. Xiếc-ri, một người mạnh dạn ở đất Ép-ra-im, giết Ma-a-xê-gia, con trai vua,
A-ri-kham, quan cai cung vua, và Ên-ca-na, quan tể tướng.
8. Người Y-sơ-ra-ên bắt trong anh em mình hai mươi vạn phu tù, cả đờn bà, con
trai, con gái; cũng cướp lấy nhiều của cải mà đem về Sa-ma-ri.
9. Ở tại đó, có một đấng tiên tri của Ðức Giê-hô-va, tên là Ô-đết, đi ra đón đạo
binh đang trở về Sa-ma-ri, mà nói rằng: Nầy bởi vì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của
tổ phụ các ngươi nổi giận cùng Giu-đa, nên Ngài đã phó chúng vào tay các ngươi,
các ngươi có giết chúng trong cơn căm giận dữ quá đến đỗi thấu đến trời.
10. Bây giờ, các ngươi lại toan bắt phục các người Giu-đa và người Giê-ru-sa-lem
làm tôi trai tớ gái cho các ngưi sao! Còn về các ngươi, các ngươi há chẳng có
phạm tội cùng Giê-hô-va Ðức Chúa trời của các ngươi sao?
11. Vậy bây giờ, khá nghe ta, cho về những phu tù mà các ngươi đã bắt trong anh
em các ngươi vì cơn giận của Ðức Giê-hô-va nổi phừng cùng các ngươi.
12. Khi ấy, có mấy người trong các quan trưởng của dân Ép-ra-im, là A-xa-ria,
con trai của Giô-ha-nan, Bê-rê-kia, con trai của mê-si-lê-mốt, Ê-xê-chia, con
trai của Sa-lum, và A-ma-sa con trai của Hát-lai, đều đứng dậy nghịch cùng những
kẻ đi đánh giặc trở về, mà rằng:
13. Các ngươi chớ đem những phu tù vào đây; vì các ngươi toan làm điều gây cho
chúng ta mắc tội cùng Ðức Giê-hô-va, đặng gia thêm vào tội và ác của chúng ta;
vì tội lỗi chúng ta thật lớn và Chúa nổi giận phừng phừng cùng Y-sơ-ra-ên
14. Quân lính bèn thả các phu tù và bỏ của cải tại trước mặt các quan trưởng và
cả hội chúng.
15. Những người đã kể tên trước đây, bèn chổi dậy, dẫn các phu tù ra, lấy của
cướp mặc cho các người trong họ bị trần truồng; chúng mặc quần áo và mang giày
cho họ, cho ăn, uống, và xức dầu cho, cùng để những người yếu đuối cỡi lừa, rồi
đưa họ về cùng anh em mình, đến Giê-ri-cô, thành cây chà là; đoạn chúng trở về
Sa-ma-ri.
16. Trong lúc đó, vua A-cha sai sứ đi cầu vua A-si-ri tiếp cứu mình
17. Vì dân Ê-đôm đã trở lại đánh Giu-đa và bắt dẫn những phu tù về.
18. Dân Phi-li-tin cũng xông vào các thành tại xứ đồng bằng và tại miền nam xứ
Giu-đa, chiếm lấy Bết-sê-mết, A-gia-lôn, Ghê-đê-rốt, Sô-cô, và các làng địa hạt
nó, Thim-na và các làng địa hạt nó, Ghim-xô và các làng địa hạt nó, rồi chúng nó
ở tại các nơi ấy.
19. Bởi cớ A-cha, vua Giu-đa, Ðức Giê-hô-va có hạ Giu-đa xuống, vì A-cha đã xui
cho dân Giu-đa buông tuồng, và phạm tội nặng cùng Ðức Giê-hô-va.
20. Tiếc-lát Phim-nê-se, vua A-si-ri, đến cùng người, và hà hiếp người, song
chẳng tiếp cứu chút nào.
21. A-cha thâu lấy những đồ nơi đền của Ðức Giê-hô-va, trong cung vua, và trong
nhà các quan trưởng, rồi giao vật ấy cho vua A-si-ri; song người cũng không tiếp
cứu.
22. Trong cơn hoạn nạn, vua A-cha lại càng phạm tội cùng Ðức Giê-hô-va;
23. người cúng tế các thần của dân Ða-mách, là dân đã đánh mình; người nói rằng:
Bởi vì các thần của vua Sy-ri đã phù trợ họ, nên ta sẽ cúng tế các thần ấy, hầu
cho các thần ấy cũng phù trợ ta nữa. Song le chúng nó gây cho vua và cả
Y-sơ-ra-ên phải sa ngã.
24. A-cha góp lấy các khí dụng của đền Ðức Chúa Trời, đập bể nó ra, và đóng các
cửa đền của Ðức Giê-hô-va; đoạn lập lấy cho mình những bàn thờ trong mỗi nơi xó
góc của thành Giê-ru-sa-lem.
25. Trong các thành xứ Giu-đa, người dựng lên những nơi cao đặng xông hương cho
các thần khác mà chọc giận Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ người.
26. Vả, các chuyện khác của người, thói ăn cách ở người từ đầu đến cuối, đều
chép trong sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
27. A-cha an giấc cùng tổ phụ mình, và người ta chôn người trong thành
Giê-ru-sa-lem; song không để người nơi lăng tẩm các vua Y-sơ-ra-ên. Ê-xê-chia
con trai người, cai trị thế cho người.
2 Sử-Ký 29
chọn đoạn khác
1. Ê-xê-chia được hai lăm tuổi khi người lên ngôi làm vua; người cai trị hai
mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem; mẹ người tên là A-bi-gia, con gái của
Xa-cha-ri.
2. Người làm điều thiện trước mặt Ðức Giê-hô-va, y theo mọi điều Ða-vít, tổ phụ
người, đã làm.
3. Tháng giêng năm đầu người trị vì, người mở các cửa đền của Ðức Giê-hô-va, và
sửa sang lại.
4. Người đòi những thầy tế lễ và người Lê-vi đến, hiệp chúng lại tại nơi phố
phía đông,
5. mà bảo rằng: Hỡi người Lê-vi, hãy nghe ta! Bây giờ khá dọn mình ra thánh, và
dọn đền của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời các ngươi cho thánh sạch, cùng cất những
điều dơ dáy khỏi nơi đền thánh đi.
6. Vì các tổ phụ chúng ta đã phạm tội, làm điều ác trước mặt Giê-hô-va Ðức Chúa
Trời chúng ta, lìa bỏ Ngài, ngảnh mặt khỏi nơi ngự của Ðức Giê-hô-va, và xây
lưng lại Ngài.
7. Chúng lại đóng các hiên cửa, tắt các đèn, không xông hương và không dâng của
lễ thiêu tại nơi thánh cho Ðức Giê-hô-va của Y-sơ-ra-ên.
8. Vì vậy cơn thạnh nộ của Ðức Giê-hô-va giáng trên Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, và
Ngài phó chúng vào sự khổ sở, sự bại hoại, và sự chê bai, y như các ngươi đã
thấy tận mắt mình.
9. Nầy, vì cớ ấy mà các tổ phụ ta bị gươm ngã chết, các con trai, con gái, và vợ
ta, phải bị bắt dẫn đi làm phu tù.
10. Bây giờ, ta có ý lập giao ước cùng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,
để cơn thạnh nộ Ngài lìa khỏi chúng ta.
11. Hỡi các con, chớ trì hưỡn nữa, vì Ðức Giê-hô-va có chọn các ngươi làm đầy tớ
Ngài, để đứng trước mặt Ngài, hầu việc và xông hương cho Ngài.
12. Những người Lê-vi bèn chổi dậy; về dòng Kê-át có Ma-hát, con của A-ma-sai,
và Giô-ên, con trai của A-sa-ria; về dòng Mê-ra-ri có Kích, con trai Áp-đi, và
A-xa-ria, con trai Giê-ha-lê-le; về dòng Ghẹt-sôn có Giô-a, con trai của Xim-ma,
Ê-đen, con trai của Giô-a;
13. về dòng Ê-lít-sa-phan có Sim-ri và Giê-i-ên; về dòng A-sáp có Xa-cha-ri và
Ma-tha-nia;
14. về dòng Hê-man có Giê-hi-ên và Si-mê-i; về dòng Giê-đu-thun có Sê-ma-gia và
U-xi-ên.
15. Chúng hiệp anh em mình lại, dọn mình cho sạch, rồi cứ theo lịnh vua truyền
dạy, và lời phán của Ðức Giê-hô-va, họ đi vào làm sạch đền của Ðức Giê-hô-va.
16. Những thầy tế lễ đi vào trong đền của Ðức Giê-hô-va, đặng dọn nó cho sạch;
phàm điều gì dơ dáy thấy ở trong đền của Ðức Giê-hô-va, họ lấy liệng ra ngoài ở
nơi hành lang của đền; rồi người Lê-vi lấy nó đem quăng ở ngoài tại trong khe
Xết-rôn.
17. Ngày mồng một tháng giêng, chúng khởi việc dọn đền cho sạch; qua ngày mồng
tám tháng ấy, chúng đến nơi hiên cửa của Ðức Giê-hô-va; trong tám ngày họ dọn
đền của Ðức Giê-hô-va cho sạch; và qua ngày mười sáu tháng giêng công việc làm
xong.
18. Chúng vào cung vua Ê-xê-chia, mà nói rằng: Chúng tôi đã dọn sạch cả đền Ðức
Giê-hô-va, bàn thờ của lễ thiêu và các đồ dùng nó, cái bàn sắp bánh trần thiết
và các đồ dùng nó;
19. Lại những khí dụng mà vua A-cha quăng bỏ, trong đời người trị vì, lúc người
phạm tội, thì chúng tôi đã sắp sửa lại và dọn ra sạch; kìa, nó ở trước mặt bàn
thờ của Ðức Giê-hô-va.
20. Vua Ê-xê-chia dậy sớm, nhóm hiệp các quan trưởng trong thành, và lên đền của
Ðức Giê-hô-va;
21. đem theo bảy con bò đực, bảy con chiên đực, bảy con chiên con, và bảy con dê
đực đặng làm của lễ chuộc tội cho nước, cho đền thánh, và cho Giu-đa. Vua biểu
những thầy tế lễ, con cháu của A-rôn, dâng các con sinh ấy trên bàn thờ của Ðức
Giê-hô-va.
22. Chúng bèn giết các con bò đực, thầy tế lễ hứng lấy huyết mà rảy trên bàn
thờ; rồi giết các con chiên đực và rảy huyết trên bàn thờ; chúng cũng giết các
con chiên con, và rảy huyết trên bàn thờ.
23. Ðoạn, chúng đem các con dê đực dùng về của lễ chuộc tội lại gần tại trước
mặt vua và hội chúng, đặt tay mình trên chúng nó,
24. rồi, thầy tế lễ giết chúng nó, hứng lấy huyết rảy trên bàn thờ đặng làm lễ
chuộc tội cho cả Y-sơ-ra-ên; vì vua có dạy rằng của lễ thiêu và của lễ chuộc tội
phải dâng lên vì cả Y-sơ-ra-ên.
25. Vua đặt người Lê-vi ở trong đền Ðức Giê-hô-va cầm chập chỏa, đờn cầm, đờn
sắt, tùy theo lệ định của Ða-vít, của Gát, là đấng tiên kiến của vua, và của
tiên tri Na-than; vì lệ định ấy do nơi Ðức Giê-hô-va cậy các tiên tri Ngài mà
dạy biểu.
26. Các người Lê-vi đứng cầm nhạc khí của Ða-vít, còn những thầy tế lễ cầm còi.
27. Ê-xê-chia truyền dâng của lễ thiêu, và đương lúc khởi dâng của lễ thiêu, thì
khởi hát bài ca khen ngợi Ðức Giê-hô-va, có còi thổi và nhạc khí của Ða-vít, vua
Y-sơ-ra-ên, họa thêm.
28. Cả hội chúng thờ lạy, người ca hát đều hát, và kẻ thổi kèn đều thổi kèn, cho
đến đã xông của lễ thiêu đoạn.
29. Khi dâng của lễ thiêu xong, vua và các người ở với vua bèn cúi xuống thờ
lạy.
30. Vả lại, vua Ê-xê-chia và các quan trưởng biểu người Lê-vi hát ngợi khen Ðức
Giê-hô-va bằng lời của Ða-vít và của A-sáp, là đấng tiên kiến; chúng bèn hát
ngợi khen cách vui mừng, rồi cúi đầu xuống mà thờ lạy.
31. Ê-xê-chia cất tiếng nói rằng: Bây giờ các ngươi đã biệt mình riêng ra thánh
cho Ðức Giê-hô-va; vậy hãy đến gần, đem những hi sinh và của lễ cảm tạ vào trong
đền của Ðức Giê-hô-va. Hội chúng bèn dẫn đến những hi sinh và của lễ cảm tạ; còn
kẻ nào vui lòng thì đem dâng những của lễ thiêu.
32. Số con sinh dùng về của lễ thiêu mà hội chúng đem đến là bảy mươi con bò
đực, một trăm con chiên đực, và hai trăm con chiên con; họ dùng các thú đó làm
của lễ thiêu cho Ðức Giê-hô-va.
33. Cũng biệt riêng ra thánh sáu trăm con bò đực và ba ngàn con trừu.
34. Song thầy tế lễ chỉ có ít quá, không đủ lột da các con sinh dùng về của lễ
thiêu vì vậy anh em họ, là người Lê-vi, bèn giúp đỡ họ cho đến khi xong công
việc, và những thầy tế lễ đã dọn mình thánh sạch; vì người Lê-vi có lòng thành
dọn mình thánh sạch hơn những thầy tế lễ.
35. Lại cũng có nhiều của lễ thiêu, mỡ của lễ thù ân, và lễ quán cặp theo mỗi
của lễ thiêu. Vậy, cuộc tế lễ trong đền Ðức Giê-hô-va đã lập lại rồi.
36. Ê-xê-chia và cả dân sự đều vui mừng về điều Ðức Chúa Trời đã sắm sửa cho dân
sự; bởi công việc ấy thình lình mà làm thành.
2 Sử-Ký 30
chọn đoạn khác
1. Ê-xê-chia sai sứ đến cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, cũng viết thơ cho người
Ép-ra-im và người Ma-na-se, đòi chúng tới đền Ðức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem,
đặng giữ lễ Vượt qua cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
2. Vua và các quan trưởng cùng cả hội chúng ở Giê-ru-sa-lem hội nghị nhau, định
dự lễ Vượt qua trong tháng hai;
3. vì chúng không thể dự lễ trong lúc ấy, bởi số thầy tế lễ dọn mình thánh sạch
không đủ, và dân sự chưa nhóm lại tại Giê-ru-sa-lem.
4. Vua và cả hội chúng đều lấy việc ấy làm phải;
5. bèn nhất định rao truyền khắp xứ Y-sơ-ra-ên, từ Bê-e-Sê-ba cho đến Ðan, khiến
người ta đến dự lễ Vượt qua của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, tại
Giê-ru-sa-lem; vì từ lâu nay chúng không có dự lễ ấy như đã chép trong luật lệ.
6. Vậy, các trạm vâng mạng đem thơ của vua và của các quan trưởng đi khắp xứ
Y-sơ-ra-ên và xứ Giu-đa, thơ rằng: Hỡi con cháu Y-sơ-ra-ên, hãy trở lại cùng
Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của Y-sác và của Y-sơ-ra-ên, hầu cho Ngài
trở lại cùng những kẻ còn sót lại trong các ngươi mà được thoát khỏi tay các vua
A-si-ri.
7. Chớ nên giống như tổ phụ và anh em các ngươi đã phạm tội cùng Giê-hô-va Ðức
Chúa Trời của tổ phụ họ, đến đỗi Ngài phó chúng vào sự hư bại, như các ngươi đã
thấy.
8. Bây giờ, chớ cứng cổ như tổ phụ các ngươi hãy giơ tay mình ra cho Ðức
Giê-hô-va, vào trong nơi thánh mà Ngài đã biệt riêng ra thánh đời đời, và hầu
việc Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của các ngươi, để cơn giận phừng của Ngài xây khỏi
các ngươi.
9. Vì nếu các ngươi trở lại cùng Ðức Giê-hô-va, thì anh em và con cái của các
ngươi sẽ được ơn trước mặt những kẻ bắt họ làm phu tù, và họ sẽ được trở về
trong xứ này; bởi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của các ngươi có lòng nhân từ và hay
thương xót, sẽ không xây mặt khỏi các ngươi, nếu các ngươi trở lại cùng Ngài.
10. Các trạm thành này qua thành kia, trong khắp xứ Ép-ra-im, Ma-na-xe, và cho
đến đất Sa-nu-lôn; song người ta chê cười nhạo báng chúng
11. Dầu vậy, cũng có mấy người trong A-se, Ma-na-se, và Sa-bu-lôn chịu hạ mình
xuống và đến Giê-ru-sa-lem.
12. Ðức Chúa Trời cũng cảm động người Giu-đa, đồng lòng vâng mạng lịnh của vua
và các quan trưởng đã truyền ra, theo lời của Ðức Giê-hô-va.
13. Tháng hai, có nhiều người nhóm lại tại Giê-ru-sa-lem, một hội rất đông đảo,
đặng giữ lễ bánh không men.
14. Chúng chổi dậy, cất hết các bàn thờ ở trong Giê-ru-sa-lem, và những bình đốt
hương, rồi đem liệng nó trong khe Xết-rôn.
15. Ngày mười bốn tháng hai, người ta giết con sinh về lễ Vượt qua; còn những
thầy tế lễ và người Lê-vi, thì lấy làm hổ thẹn, bèn dọn mình thanh sạch, và đem
những của lễ thiêu vào trong đền Ðức Giê-hô-va.
16. Chúng đều đứng trong chỗ mình, theo thường lệ đã định trong luật pháp của
Môi-se, người của Ðức Chúa Trời; và những thầy tế lễ nhận lấy huyết nơi tay
người Lê-vi mà rảy ra.
17. Trong hội chúng còn nhiều người chưa dọn mình thanh sạch; vì vậy người Lê-vi
phải giết dâng con sinh về lễ Vượt qua thế cho mỗi người không thanh sạch, để
làm họ nên thanh sạch cho Ðức Giê-hô-va.
18. Vì trong dân sự, nhất là trong dân Ép-ra-im, Ma-na-se, Y-sa-ca, và Sa-bu-lôn
có nhiều người không dọn mình thanh sạch, lại ăn lễ Vượt qua, chẳng theo lệ đã
chép; vì Ê-xê-chia có cầu nguyện cho chúng, mà rằng:
19. Nguyện Ðức Giê-hô-va là Ðấng nhân từ, tha tội cho những người đã hết lòng
tìm kiếm Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ họ, mặc dầu không theo lệ tẩy uế của
đền thánh mà dọn mình cho thanh sạch.
20. Ðức Giê-hô-va dủ nghe lời cầu nguyện của Ê-xê-chia và chữa lành cho dân sự.
21. Những người Y-sơ-ra-ên ở tại Giê-ru-sa-lem giữ lễ bánh không men trong bảy
ngày cách vui vẻ; người Lê-vi và những thầy tế lễ ngày này sang ngày kia, dùng
nhạc khí hát mừng ngợi khen Ðức Giê-hô-va.
22. Ê-xê-chia nói an ủi lòng những người Lê-vi thông sáng hiểu biết cuộc thờ
phượng Ðức Giê-hô-va. Chúng ăn lễ trong bảy ngày, dâng những của lễ thù ân, và
cảm tạ Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ mình.
23. Cả hội chúng bèn quyết định giữ lễ thêm bảy ngày; rồi chúng vui vẻ giữ thêm
bảy ngày nữa.
24. Vì Ê-xê-chia, vua Giu-đa, đã ban cho hội chúng một ngàn con bò đực và bảy
ngàn con chiên; các quan trưởng cũng ban cho hội chúng một ngàn con bò đực và
mười ngàn con chiên lại có nhiều thầy tế lễ dọn mình ra thanh sạch.
25. Cả hội chúng Giu-đa với những thầy tế lễ, người Lê-vi, và hội chúng đến từ
Y-sơ-ra-ên, cùng những người ngoại bang, kẻ thì kiều ngụ trong xứ Y-sơ-ra-ên,
người thì kiều ngụ trong xứ Giu-đa, thảy đều vui mừng.
26. Ấy vậy, ở Giê-ru-sa-lem có sự vui mừng cả thể; vì từ đời Sa-lô-môn, con trai
Ða-vít, vua Y-sơ-ra-ên, tại thành Giê-ru-sa-lem chẳng có sự gì như vậy.
27. Ðoạn, những thầy tế lễ và người Lê-vi đứng dậy chúc phước cho dân sự; tiếng
của chúng được nhậm, lời cầu nguyện chúng thấu đến nơi ngự thánh của Ðức
Giê-hô-va trên các từng trời.
2 Sử-Ký 31
chọn đoạn khác
1. Khi các việc ấy đã xong, những người Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó đi ra các thành
Giu-đa, đập bể những trụ thờ, đánh đổ các thần A-sê-ra, phá dỡ những nơi cao, và
các bàn thờ trong khắp đất Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im, và Ma-na-se, cho đến
khi đã phá hủy hết thảy. Ðoạn, hết thảy dân Y-sơ-ra-ên ai nấy đều trở về thành
mình, về nơi sản nghiệp mình.
2. Ê-xê-chia lập lại các ban thứ của những thầy tế lễ và của người Lê-vi, tùy
theo phần việc của mỗi người đặng dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân, đặng phụng
sự, cảm tạ, và hát ngợi khen Chúa tại nơi các cửa trại của Ðức Giê-hô-va.
3. Người cũng định phần vua phải lấy trong tài sản mình đặng dùng làm của lễ
thiêu về buổi sớm mai và buổi chiều, cùng dùng về những của lễ thiêu trong ngày
sa-bát, ngày mồng một, và trong các này lễ trọng thể, y như đã chép trong luật
pháp của Ðức Giê-hô-va.
4. Người cũng truyền cho dân sự ở tại Giê-ru-sa-lem, phải cung cấp phần của
những thầy tế lễ và người Lê-vi, hầu cho chúng chuyện lo gìn giữ luật pháp của
Ðức Giê-hô-va.
5. Khi chỉ dụ của vua mới truyền ra, thì dân Y-sơ-ra-ên đem đến rất nhiều sản
vật đầu mùa về ngũ cốc, rượu, dầu, mật, và những thổ sản khác; chúng đem đến một
phần mười của mọi vật thật rất nhiều.
6. Người Y-sơ-ra-ên và người Giu-đa ở trong các thành xứ Giu-đa, cũng đều đem
đến nộp một phần mười về bò và chiên, cùng một phần mười về các vật đã biệt
riêng ra thánh cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của chúng, rồi để ra từng đống.
7. Tháng thứ ba, chúng khởi gom lại từng đống, và qua đến tháng bảy mới xong.
8. Khi Ê-xê-chia và các quan trưởng đến, thấy các đống ấy, thì ngợi khen Ðức
Giê-hô-va, và chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài.
9. Ê-xê-chia hỏi thăm những thầy tế lễ và người Lê-vi về tích những đống ấy.
10. A-xa-ria, thầy tế lễ cả về dòng Xa-đốc, thưa lại cùng người mà rằng: Từ khi
dân sự khởi đem lễ vật vào trong đền Ðức Giê-hô-va, thì chúng tôi có ăn được đầy
đủ, và còn dư lại nhiều; vì Ðức Giê-hô-va đã ban phước cho dân sự Ngài; còn số
nhiều này, ấy là phần dư lại.
11. Ê-xê-chia truyền dọn dẹp các phòng trong đền Ðức Giê-hô-va; người ta bèn dọn
dẹp,
12. rồi đem vào cách ngay thẳng các lễ vật, thuế một phần mười, và các vật
thánh. Cô-na-nia, người Lê-vi, cai quản những vật ấy, và Si-mê-i, em người, làm
phó;
13. còn Giê-hi-ên, A-xa-xia, Na-hát, A-sa-ên, Giê-ri-mốt, Giô-sa-bát, Ê-li-ên,
Gít-ma-kia, Ma-hát, và Bê-na-gia, đều làm kẻ coi sóc dưới quyền Cô-na-nia và
Si-mê-i, em người, cứ theo lịnh của vua Ê-xê-chia và A-xa-ria, là người cai trị
đền Ðức Chúa Trời.
14. Cô-rê, con trai của Dim-na, người Lê-vi, là kẻ giữ cửa phía đông, được đặt
cai quản các lễ vật lạc ý dâng cho Ðức Chúa Trời, đặng phân phát các lễ vật dâng
cho Ðức Giê-hô-va và những vật rất thánh.
15. Dưới tay người có Ê-đen, Min-gia-min, Giê-sua, Sê-ma-gia, A-ma-ria, và
Sê-ca-nia, ở trong các thành thầy tế lễ, đặng phân phát lễ vật ấy cách công bình
cho anh em mình, hoặc nhỏ hay lớn, thao ban thứ của họ.
16. Ngoại trừ những nam đinh đã biên tên vào gia phổ từ ba tuổi sắp lên, tức
những kẻ theo ban thứ mình mà vào đền Ðức Giê-hô-va đặng phụng sự trong chức
mình, làm việc ngày nào theo ngày nấy;
17. lại phân phát cho những thầy tế lễ đã theo tông tộc mình mà ghi tên vào gia
phổ, và cho người Lê-vi từ hai mươi tuổi sắp lên, tùy theo chức phận và ban thứ
của họ;
18. cùng phân phát cho hết thảy con nhỏ của họ, vợ họ, con trai và con gái họ,
tức cả hội chúng ghi tên vào gia phổ; vì chúng thành tín biệt mình riêng ra đặng
nên thánh.
19. Còn về con cháu A-rôn, tức là những thầy tế lễ ở trong đồng ruộng, rải rác
nơi địa hạt các thành của họ, thì có đặt trong mỗi thành những người gọi từng
tên, đặng phân phát phần cho hết thảy người nam trong những thầy tế lễ và cho
những kẻ trong vòng người Lê-vi đã ghi tên vào gia phổ.
20. Trong khắp Giu-đa, Ê-xê-chia làm như vậy. Người làm những điều lành, ngay
thẳng và chơn thành, tại trước mặt Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của người.
21. Trong các việc người làm, hoặc quản lý sự phục dịch nơi đền của Ðức Chúa
Trời, hoặc theo luật pháp hay là điều răn đặng tìm kiếm Ðức Chúa Trời của người,
thì người hết lòng mà làm, và được hanh thông.
2 Sử-Ký 32
chọn đoạn khác
1. Sau các việc này và sự thành tín này, thì San-chê-ríp loán đến trong xứ
Giu-đa, vây các thành bền vững, có ý hãm lấy nó.
2. Khi Ê-xê-chia thấy San-chê-ríp đã đến, toan hãm đánh Giê-ru-sa-lem,
3. thì người hội nghị với các quan trưởng và những người mạnh dạn đặng ngăn nước
suối ở ngoài thành; họ bèn giúp đỡ người.
4. Dân sự nhóm lại đông, chận các suối và các khe chảy giữ xứ, mà rằng: Làm gì
để cho vua A-si-ri đến, thấy có nước nhiều?
5. Người tự can đảm, xây đắp vách thành đã bị hư lủng, xây nó lên đến tận tháp;
rồi lại xây một cái vách khác ở phía ngoài; người làm cho vững chắc Mi-lô ở
trong thành Ða-vít và chế nhiều cây lao cùng khiên.
6. Người lập những quan tướng trên dân sự, rồi hiệp lập chúng lại gần mình tại
phố bên cửa thành, nói động lòng chúng, mà rằng:
7. Khá vững lòng bền chí, chớ sợ, chớ kinh hãi trước mặt vua A-si-ri và đám quân
đông đảo theo người; vì có một Ðấng ở cùng chúng ta thắng hơn kẻ ở với họ:
8. với người chỉ một cánh tay xác thịt; còn với chúng ta có Giê-hô-va Ðức Chúa
Trời của chúng ta đặng giúp đỡ và chiến tranh thế cho chúng ta. Dân sự bèn nương
cậy nơi lời của Ê-xê-chia, vua Giu-đa.
9. Sau việc ấy, San-chê-ríp, vua A-si-ri, với cả đạo binh của người hãy còn vây
La-ki, có sai các đầy tớ người đến Ê-xê-chia và dân Giu-đa ở tại Giê-ru-sa-lem,
mà nói rằng:
10. San-chê-ríp, vua A-si-ri, nói như vầy: Các ngươi nương cậy điều gì, mà chịu
ở vậy trong thành Giê-ru-sa-lem như thế?
11. Ê-xê-chia nói rằng: Giê-hô-va Ðức Chúa Trời chúng ta sẽ giải cứu chúng ta
khỏi tay vua A-si-ri, ấy há chẳng phải người dỗ dành các ngươi đặng phó các
ngươi đói khát cho chết hay sao?
12. Chớ thì chẳng phải chính Ê-xê-chia này đã cất những nơi cao và bàn thờ của
Ngài, rồi biểu dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: Các ngươi khá thờ lạy trước một
bàn thờ, và chỉ xông hương tại trên đó mà thôi?
13. Các ngươi há chẳng biết điều ta và tổ phụ ta đã làm cho các dân thiên hạ
sao? Các thần của những dân tộc thiên hạ, há giải cứu xứ chúng nó được khỏi tay
ta ư?
14. Nội trong các thần của những dân tộc mà tổ phụ ta đã diệt hết đi, há có thần
nào giải cứu dân mình cho khỏi tay ta chăng? Dễ có một mình Thần các ngươi giải
cứu các ngươi được khỏi tay ta chớ!
15. Vậy bây giờ, chớ để Ê-xê-chia phỉnh gạt, khuyên dụ các ngươi như thế, và các
ngươi chớ tin người; vì chẳng có thần của dân nào nước nào giải cứu dân mình
được khỏi tay ta hay là khỏi tay tổ phụ ta; huống chi Ðức Chúa Trời các ngươi
giải cứu các ngươi khỏi tay ta!
16. Các đầy tớ người lại còn nói nghịch cùng Giê-hô-va là Ðức Chúa Trời thật, và
nghịch cùng Ê-xê-chia, là tôi tớ Ngài.
17. Người cũng viết thơ sỉ nhục Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và nói
phạm đến Ngài mà rằng: Hễ thần của các dân tộc thiên hạ chẳng giải cứu dân mình
khỏi tay ta thế nào, thì thần của Ê-xê-chia cũng chẳng giải cứu được dân sự
người khỏi tay ta thế ấy.
18. Chúng la lớn lên, nói bằng tiếng Giu-đa cho dân Giê-ru-sa-lam ở trên vách
thành, đặng làm cho chúng sợ hoảng, để hãm lấy thành.
19. Chúng lại nói về Ðức Chúa Trời của Giê-ru-sa-lem, như thể các thần của dân
thiên hạ đều là công việc của tay người ta làm ra.
20. Vua Ê-xê-chia, và tiên tri Ê-sai, con trai A-mốt, cầu nguyện về việc này, và
kêu la thấu đến trời.
21. Ðức Giê-hô-va bèn sai một thiên sứ diệt những người mạnh dạn, các quan
trưởng và các quan tướng ở trong trại quân của vua A-si-ri. người trở về trong
xứ mình, mặt hổ thẹn; và khi người vào trong miễu thần mình, có những kẻ bởi
lòng người sanh ra đều lấy gươm giết người tại đó.
22. Như vậy Ðức Giê-hô-va cứu Ê-xê-chia và dân cư thành Giê-ru-sa-lem khỏi tay
San-chê-ríp, vua A-si-ri, và khỏi tay mọi người khác, cùng phù hộ cho chúng bốn
bên.
23. Có nhiều người đem những lễ vật đến dâng cho Ðức Giê-hô-va tại
Giê-ru-sa-lem, và những vật quí báu cho Ê-xê-chia, vua Giu-đa; nên từ khi ấy về
sau, người được tôn cao trước mặt các nước.
24. Trong lúc ấy, Ê-xê-chia bị đau hòng chết; người cầu nguyện Ðức Giê-hô-va,
Ðức Giê-hô-va phán cùng người, và ban cho người một dấu lạ.
25. Nhưng Ê-xê-chia chẳng báo đáp lại ơn Chúa mà người đã lãnh, vì lòng người tự
cao; bèn có cơn thạnh nộ của Chúa nổi lên cùng người, cùng Giu-đa và
Giê-ru-sa-lem.
26. Song Ê-xê-chia hạ sự tự cao trong lòng mình xuống, người và dân cư
Giê-ru-sa-lem cũng vậy, nên trong đời Ê-xê-chia, cơn thạnh nộ của Ðức Giê-hô-va
không giáng trên chúng.
27. Ê-xê-chia được rất giàu rất sang; người cất những kho để trử bạc, vàng, đá
quí, thuốc thơm, khiên, và các thứ khí giới tốt đẹp;
28. những lẫm đặng chứa ngũ cốc, rượu, và dầu; những chuồng để nhốt các thứ thú
vật, bầy chiên, và bầy bò.
29. Người cũng xây những thành, có nhiều bầy chiên và bò; vì Ðức Chúa Trời ban
cho người rất nhiều của cải.
30. Ấy là Ê-xê-chia này lấp nguồn trên của nước Ghi-hôn, và dẫn nó chảy ngầm
dưới đất qua phía tây của thành Ða-vít. Trong mọi việc Ê-xê-chia được hanh
thông.
31. Song khi sứ giả mà vua Ba-by-lôn sai đến người đặng hỏi thăm dấu lạ đã xảy
ra trong xứ, thì Ðức Chúa Trời tạm lìa bỏ người đặng thử người, để cho biết mọi
điều ở trong lòng người.
32. Các công việc khác của Ê-xê-chia, và những việc thiện của người, đều chép
trong sách dị tượng của Ê-sai, đấng tiên tri, con trai của A-mốt, và trong sách
các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
33. Ê-xê-chia an giấc cùng tổ phụ mình, người ta chôn người trong lăng tẩm cao
của con cháu Ða-vít; cả Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đều tôn kính người lúc người
thác; Ma-na-se, con trai người, cai trị thế cho người.
2 Sử-Ký 33
chọn đoạn khác
1. Ma-na-se được mười hai tuổi khi người lên làm vua, và người cai trị năm mươi
lăm năm tại Giê-ru-sa-lem.
2. Người làm điều ác trước mặt Ðức Giê-hô-va, theo những sự gớm ghiếc của các
dân tộc mà Ðức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
3. Người cất lại các nơi cao mà Ê-xê-chia, cha người, đã phá dỡ, dựng lên những
bàn thờ cho Ba-anh, làm các tượng A-sê-ra, thờ lạy cả cơ binh trên trời, và hầu
việc chúng nó.
4. Người xây những bàn thờ tại trong đền Ðức Giê-hô-va, là về nơi ấy mà Ðức
Giê-hô-va đã phán rằng: Danh ta sẽ ngự nơi Giê-ru-sa-lem đời đời.
5. Người cũng lập những bàn thờ cho các cơ binh trên trời, tại trong hai hành
lang của đến Ðức Giê-hô-va,
6. và đưa con cái mình qua lửa, tại trong trũng con Hi-nôm; người xem bói; ếm
chú, dùng pháp thuật, ham theo những kẻ cầu vong và thầy phù thủy: người làm
điều ác thái quá tại trước mặt Ðức Giê-hô-va đặng chọc giận Ngài.
7. Người đặt hình tượng chạm mà mình đã làm trong đền của Ðức Chúa Trời, là về
đền ấy mà Ðức Chúa Trời có phán với Ða-vít và Sa-lô-môn, con trai người, rằng:
Trong đền này và tại Giê-ru-sa-lem, thành ta đã chọn trong các chi phái
Y-sơ-ra-ên, ta sẽ đặt danh ta ở đời đời;
8. nếu Y-sơ-ra-ên gìn giữ làm theo các luật pháp, điều răn, và mạng lịnh, mà ta
đã cậy Môi-se phán dạy chúng nó, thì ta sẽ chẳng cất chơn của chúng nó khỏi đất
ta đã ban cho tổ phụ chúng nó.
9. Ma-na-se quyến dụ Giu-đa và dân sự Giê-ru-sa-lem, đến đỗi chúng làm điều ác
hơn các dân tộc mà Ðức Giê-hô-va đã hủy diệt khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
10. Ðức Giê-hô-va phán bảo Ma-na-se và dân sự người; song chúng không chủ ý đến.
11. Vì cớ ấy, Ðức Giê-hô-va khiến các quan tướng đạo binh của vua A-si-ri đến
hãm đánh chúng; các quan ấy bắt đóng cùm Ma-na-se, xiềng người lại, rồi dẫn về
Ba-by-lôn.
12. Khi người bị hoạn nạn, bèn cầu khẩn Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của người và hạ
mình xuống lắm trước mặt Ðức Chúa Trời của tổ phụ người.
13. Ma-na-se cầu nguyện cùng Ngài; Ngài nhậm người, dủ nghe lời nài xin của
người, dẫn người về Giê-ru-sa-lem trong nước người; khi ấy Ma-na-se nhìn biết
Giê-hô-va là Ðức Chúa Trời.
14. Sau việc ấy, người xây vách ngoài thành Ða-vít, về phía tây Ghi-hôn trong
trũng, đến lối vào cửa cá, và chung quanh Ô-phên, xây nó rất cao rồi người đặt
những quan tướng trong các thành bền vững xứ Giu-đa.
15. Người cất khỏi đền Ðức Giê-hô-va những thần ngoại bang, hình tượng, và bàn
thờ mà người đã xây trên núi của đền Ðức Giê-hô-va và tại Giê-ru-sa-lem, rồi
quăng nó ra ngoài thành.
16. Ðoạn, người sửa sang bàn thờ của Ðức Giê-hô-va, dâng của lễ bình an và của
lễ thù ân tại đó; người truyền dạy dân Giu-đa phục sự Giê-hô-va Ðức Chúa Trời
của Y-sơ-ra-ên.
17. Dầu vậy, dân sự còn tế lễ cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của mình mà thôi.
18. Các công việc khác của Ma-na-se, lời người cầu nguyện cùng Ðức Chúa Trời
người, và các lời của đấng tiên kiến nhân danh Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên mà phán với người, đều đã chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên.
19. Bài cầu nguyện người, và làm sao Ðức Chúa Trời nhậm lời người, các tội lỗi,
và gian ác người đã phạm, những chỗ người lập nơi cao, dựng lên thần A-sê-ra và
tượng chạm, trước khi người chưa hạ mình xuống, kìa, thảy đều chép trong truyện
Hô-xai.
20. Ma-na-xe an giấc cùng tổ phụ mình, được chôn trong cung điện người; A-môn
con trai người, cai trị thế cho người.
21. A-môn được hai mươi hai tuổi khi người lên ngôi làm vua; người cai trị hai
năm tại Giê-ru-sa-lem.
22. Người làm điều ác tại trước mặt Ðức Giê-hô-va y như Ma-na-se, cha người, đã
làm, cúng tế cho các tượng chạm mà Ma-na-se, cha người, đã làm, và hầu việc
chúng nó.
23. Người không hạ mình xuống trước mặt Ðức Giê-hô-va như Ma-na-se, cha người,
đã làm; nhưng người càng thêm phạm tội.
24. Các đầy tớ người mưu phản, giết người tại trong cung điện người.
25. Còn dân sự của xứ lại giết các kẻ đã mưu phản giết vua A-môn; rồi lập
Giô-si-a, con trai người, làm vua thế cho người.
2 Sử-Ký 34
chọn đoạn khác
1. Giô-si-a được tám tuổi khi người lên ngôi làm vua, và cai trị ba mươi mốt năm
tại Giê-ru-sa-lem.
2. Người làm điều thiện trước mặt Ðức Giê-hô-va, và đi theo con đường của
Ða-vít, tổ phụ người, không xây về bên hữu hay là bên tả.
3. Năm thứ tám đời người trị vì, khi người hãy còn trẻ tuổi, thì người khởi tìm
kiếm Ðức Chúa Trời của Ða-vít, tổ phụ người; năm thứ mười hai, người khởi dọn
sạch Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, trừ bỏ những nơi cao, thần A-sê-ra, tượng chạm và
tượng đúc.
4. Trước mặt vua, người ta phá dỡ các bàn thờ Ba-anh, đánh đổ những trụ thờ mặt
trời ở trên cao bàn thờ ấy; còn thần A-sê-ra, tượng chạm và tượng đúc, thì bẻ
gãy, nghiền nát nó ra, rồi rải trên mồ mả của những kẻ đã cúng tế nó.
5. Người cũng thiêu hài cốt của những thầy tế lễ tại trên bàn thờ các thần ấy,
và dọn sạch Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
6. Trong các thành của Ma-na-se, của Ép-ra-im, và của Si-mê-ôn, cho đến
Nép-ta-li khắp chung quanh các nơi đổ nát,
7. người phá dỡ các bàn thờ và nghiền nát ra bụi những thần A-sê-ra, tượng chạm
và tượng đúc, đánh đổ các trụ thờ mặt trời ở trong khắp xứ Y-sơ-ra-ên; rồi người
trở về Giê-ru-sa-lem.
8. Năm thứ mười tám đời người trị vì, sau khi đã dọn sạch xứ và đền thờ rồi, thì
người sai Sa-phan, con trai A-sa-lia, Ma-a-xê-gia, quan cai thành, và Giô-a, con
trai Giô-a-cha, quan thái sử, đặng sửa sang đền của Giê-hô-va Ðức Chúa Trời
người.
9. Các người ấy đi đến cùng Hinh-kia, thầy tế lễ thượng phẩm, giao cho người
tiền bạc đã đem vào đền Ðức Chúa Trời, tức tiền bạc mà người Lê-vi, kẻ giữ cửa,
đã nhận nơi tay người Ma-na-se, người Ép-ra-im, và nơi những kẻ còn sót lại
trong Y-sơ-ra-ên, cùng nhận nơi cả Giu-đa, Bên-gia-min và những dân cư thành
Giê-ru-sa-lem.
10. Chúng giao bạc ấy nơi tay những người coi sóc công việc của đền Ðức
Giê-hô-va; họ phát cho các thợ đặng tu bổ, sửa sang đền thờ:
11. tức giao cho các nhà thuộc về đền mà các vua Giu-đa đã phá hủy.
12. Các thợ ấy đều làm công việc cách thành tâm. Kẻ quản đốc các thợ ấy là
Gia-hát và Ô-ba-đia, hai người Lê-vi thuộc về dòng Mê-ra-ri; Xa-cha-ri và
Mê-su-lam về dòng Kê-hát, cùng mấy người Lê-vi khác, đánh nhạc khí giỏi.
13. Chúng cũng quản đốc kẻ khiêng gánh, và coi sóc những người làm đủ mọi thứ
công việc; còn những ký lục, quan cai và kẻ canh cửa đều là người Lê-vi.
14. Khi người ta đem bạc đã đem vào đền Ðức Giê-hô-va ra, thì Hinh-kia, thầy tế
lễ, tìm được cuốn sách luật pháp của Ðức Giê-hô-va truyền lại bởi Môi-se.
15. Hinh-kia cất tiếng lên nói với thơ ký Sa-phan rằng: Ta có tìm được cuốn sách
luật pháp ở trong đền của Ðức Giê-hô-va. Rồi Hinh-kia giao sách ấy cho Sa-phan.
16. Sa-phan đem sách đó cho vua; rồi người cũng tâu với vua rằng: Mọi việc giao
nơi tay các tôi tớ vua thì họ đương làm.
17. Chúng đã lấy bạc tìm được trong đền Ðức Giê-hô-va ra, và đã giao nơi tay các
đốc công và những người làm công việc.
18. Thơ ký Sa-phan lại tâu với vua rằng: Thầy tế lễ Hinh-kia có trao cho tôi một
cuốn sách. Sa-phan bèn đọc tại trước mặt vua.
19. Xảy khi vua nghe các lời luật pháp rồi, thì xé áo mình.
20. Vua truyền lịnh cho Hinh-kia, A-hi-cam, con trai của Sa-phan, Áp-đôn, con
trai của Mi-ca, Sa-phan, thơ ký, và A-sa-gia, quan cận thần vua, mà rằng:
21. Hãy vì ta, vì các người Y-sơ-ra-ên và vì người Giu-đa còn sót lại, mà đi cầu
vấn Ðức Giê-hô-va về các lời phán của sách này đã tìm lại được vì cơn giận của
Ðức Giê-hô-va đã giáng trên chúng ta thật lớn thay, bởi các tổ phụ ta không gìn
giữ lời phán của Ðức Giê-hô-va, và chẳng làm theo các điều đã chép trong sách
này.
22. Hinh-kia và các kẻ vua sai đi đến Hun-đa, nữ tiên tri, vợ của Sa-lum, là
người giữ áo lễ, con trai của Tô-cát, cháu Hát-ra; bà ở tại Giê-ru-sa-lem trong
quận thứ nhì; chúng nói với bà theo các lời vua đã phán.
23. Bà bèn nói với chúng rằng: Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-r-ên phán như
vầy: Hãy nói cùng người đã sai các ngươi đến cùng ta rằng:
24. Ðức Giê-hô-va phán như vầy: nầy ta sẽ khiến các tai vạ giáng trên chỗ này và
trên dân ở chỗ này, tức là các sự rủa sả chép trong sách mà người ta đã đọc
trước mặt vua Giu-đa.
25. Bởi vì chúng đã lìa bỏ ta, xông hương cho các tà thần, lấy các công việc tay
chúng nó làm mà chọc giận ta; nên cơn thạnh nộ ta sẽ đổ ra trên chỗ này, không
hề nguôi.
26. Còn vua Giu-đa đã sai các ngươi đi cầu vấn Ðức Giê-hô-va, các ngươi hãy nói
cho người như vầy: Về các lời ngươi đã nghe, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên có phán như vầy:
27. Khi ngươi nghe lời ta phán nghịch cùng chỗ này, và nghịch cùng dân cư nó,
thì ngươi có lòng mềm mại, hạ mình xuống trước mặt ta, xé áo ngươi, và khóc lóc
tại trước mặt ta; bởi vậy cho nên ta cũng có nghe ngươi.
28. Kìa, ta sẽ khiến ngươi về cùng tổ phụ ngươi, ngươi sẽ được chôn bình an, và
mắt ngươi sẽ chẳng thấy các tai vạ ta toan giáng xuống trên chốn này cùng trên
dân cư nó. Chúng bèn tâu lại cho vua những lời ấy.
29. Vua bèn sai người nhóm các trưởng lão Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
30. Ðoạn, vua đi lên đền Ðức Giê-hô-va, có hết thảy người Giu-đa, dân cư
Giê-ru-sa-lem, những thầy tế lễ, người Lê-vi, và cả dân sự, từ nhỏ đến lớn, đều
đi theo người; người đọc cho chúng nghe các lời của sách giao ước đã tìm được
trong đền của Ðức Giê-hô-va,
31. Vua đứng tại chỗ mình, lập giao ước trước mặt Ðức Giê-hô-va, hứa đi theo Ðức
Giê-hô-va, hết lòng hết ý gìn giữ các điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Ngài,
đặng làm trọn lời giao ước giao ước đã chép trong sách ấy.
32. Người cũng khiến những người ở Giê-ru-sa-lem và Bên-gia-min ưng theo giao
ước ấy. Vậy, dân cư Giê-ru-sa-lem đều làm theo giao ước của Ðức Chúa Trời, là
Ðức Chúa Trời của tổ phụ họ.
33. Giô-si-a cất hết thảy sự gớm ghiếc khỏi các xứ thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, và
buộc hết thảy những người ở xứ Y-sơ-ra-ên phải phục sự Giê-hô-va Ðức Chúa Trời
của họ. Trọn đời Giô-si-a, chúng hằng theo Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ
họ, chẳng lìa bỏ Ngài.
2 Sử-Ký 35
chọn đoạn khác
1. Giô-si-a giữ lễ Vượt qua cho Ðức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem ngày mười bốn
tháng giêng, họ giết con sinh về lễ Vượt qua.
2. Người cắt những thầy tế lễ giữ chức phận mình, và khuyên giục chúng về việc
của đền Ðức Giê-hô-va.
3. Người phán cùng những người Lê-vi vẫn dạy dỗ cả Y-sơ-ra-ên, và đã biệt mình
riêng ra thánh cho Ðức Giê-hô-va, mà rằng: Hãy để hòm thánh tại trong đền mà
Sa-lô-môn, con trai của Ða-vít, vua Y-sơ-ra-ên, đã xây cất; các ngươi không còn
khiêng hòm ấy trên vai. Bây giờ, hãy phục sự Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của các
ngươi và giúp việc cho Y-sơ-ra-ên là dân sự của Ngài;
4. các ngươi hãy tùy tông tộc và ban thứ các ngươi, mà dọn mình cho sẵn, chiếu
theo lệ luật mà Ða-vít, vua Y-sơ-ra-ên, và Sa-lô-môn, con trai người, đã chép.
5. Ðoạn hạy đứng trong nơi thánh, theo thứ tự tông tộc của anh em các ngươi, là
dân Y-sơ-ra-ên, và theo thứ tự tông tộc của anh em các ngươi, là dân Y-sơ-ra-ên,
và theo thứ tự tông tộc của người Lê-vi.
6. Các ngươi hãy giết con sinh về lễ Vượt qua, biệt mình riêng ra thánh và sắm
sửa lễ Vượt qua thế cho anh em các ngươi, để làm y như lời của Ðức Giê-hô-va cậy
Môi-se phán.
7. Giô-si-a ban cho dân sự những súc vật nhỏ, số là ba vạn chiên con và dê con,
cùng ba ngàn con bò đực, dùng trọn về lễ Vượt qua cho các người có mặt tại đó;
các thú đó đều bắt nơi sản vật của vua.
8. Các quan trưởng cũng đều đành lòng ban súc vật cho dân sự, cấp cho thầy tế lễ
và người Lê-vi. Hinh-kia, Xa-cha-ri, và Giê-hi-ên, là các người quản đốc đền Ðức
Chúa Trời, cấp cho những thầy tế lễ, hai ngàn sáu trăm con chiên, và ba trăm con
bò để dùng về lễ Vượt qua.
9. Cô-na-nia, Sê-ma-gia, Na-tha-na-ên, và các anh em người, Ha-sa-bia, Giê-i-ên,
và Giô-xa-bát, là các quan trưởng của người Lê-vi, đều cấp cho người Lê-vi năm
ngàn con chiên, và năm trăm con bò để dùng về lễ Vượt qua.
10. Vậy, việc tế lễ đã sắp đặt rồi, những thầy tế lễ đều đứng tại chỗ mình, và
người lê-vi cứ theo ban thứ mình, y theo mạng lịnh của vua.
11. Người Lê-vi giết con sinh về lễ Vượt qua, và những thầy tế lễ nhận lấy huyết
nơi tay chúng mà rảy nó ra; còn người Lê-vi thì lột da con sinh.
12. Chúng để những của lễ thiêu riêng ra, đặng phân phát cho dân sự, theo thứ tự
tông tộc của họ, để dâng cho Ðức Giê-hô-va, tùy theo điều đã chép trong sách của
Môi-se; họ cũng làm như vậy về các con bò đực.
13. Chúng theo lệ định, mà quay thịt con sinh về lễ Vượt qua; còn những vật
thánh thì nấu trong cái nồi, cái vạc, và cái chảo, rồi hối hả đem phân phát cho
cả dân sự.
14. Kế sau, chúng lo sắm sửa vật dùng cho mình và cho những thầy tế lễ; vì những
thầy tế lễ, là con cháu A-rôn, đều mắc việc dâng của lễ thiêu và mỡ cho đến
chiều tối; vì vậy người Lê-vi sắm sửa vật dùng cho mình và cho những thầy tế lễ,
là con cháu của A-rôn.
15. Những người ca hát, là con cháu của A-sáp, đều ở tại chỗ mình, tùy theo lệ
của Ða-vít, A-sáp, Hê-man, và Giê-đu-thun, đấng tiên kiến của vua, đã định; các
người canh cửa đều ở tại mỗi cửa, không cần rời khỏi việc mình, vì anh em của
họ, là người Lê-vi, sắm sửa vật dùng cho họ.
16. Nội ngày đó, các cuộc thờ phượng Ðức Giê-hô-va đã sắp đặt rồi, để giữ lễ
Vượt qua, và dâng những của lễ thiêu trên bàn thờ của Ðức Giê-hô-va, tùy theo
mạng lịnh của vua Giô-si-a.
17. Những người Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó, đều giữ lễ Vượt qua trong lúc ấy, và
giữ lễ bánh không men trong bảy ngày.
18. Từ đời tiên tri Sa-mu-ên, trong Y-sơ-ra-ên, người ta không có giữ lễ Vượt
qua giống như vậy; cũng chẳng có vua nào trong các vua Y-sơ-ra-ên giữ lễ Vượt
qua giống như lễ Vượt qua mà Giô-si-a với những thầy tế lễ, người Lê-vi, cả dân
Giu-đa, và Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó, đã giữ.
19. Người ta giữ lễ Vượt qua này nhằm năm thứ mười tám đời Giô-si-a trị vì.
20. Sau các việc ấy, khi Giô-si-a đã sửa sang đền thờ rồi, thì Nê-cô, vua
Ê-díp-tô, đi lên hãm đánh Cạt-kê-mít, trên bờ sông Ơ-phơ-rát; Giô-si-a kéo ra
đón người.
21. Nê-cô sai sứ đến nói với người rằng: Hỡi vua Giu-đa, ta với ngươi có điều gì
chăng? Ngày nay ta chẳng đến đặng hãm đánh ngươi đâu, nhưng ta ra đánh nhà thù
nghịch nước ta; Ðức Chúa Trời đã phán biểu ta khá vội vàng; vậy, hãy thôi, chớ
chống cự Ðức Chúa Trời, là Ðấng ở cùng ta, e Ngài hủy diệt ngươi chăng.
22. Dầu vậy, Giô-si-a chẳng khứng thối lại, chẳng chịu nghe lời Ðức Chúa Trời
cậy Nê-cô mà phán ra; nhưng lại ăn mặc giả dạng đặng đối địch cùng người bèn đến
đánh giặc tại trũng Mê-ghi-đô.
23. Các lính cầm cung bắn nhằm vua Giô-si-a; vua nói với đầy tớ mình rằng: hãy
đem ta ra khỏi đây vì ta bị thương nặng.
24. Các đầy tớ người đem người khỏi xe, để người trong một cái xe thứ nhì mà
người có sẵn, rồi đem người về Giê-ru-sa-lem. Người thác, được chôn tại trong mồ
mả của tổ phụ người. Cả Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đều thương khóc người.
25. Giê-rê-mi đặt bài ai ca về Giô-si-a; lại các kẻ ca xướng, năm và nữ, hãy còn
hát về Giô-si-a trong bài ai ca của mình cho đến ngày nay; người ta lập điều đó
như một thường lệ trong Y-sơ-ra-ên; kìa, các chuyện ấy đã chép trong sách ai ca.
26. Các công việc khác của Giô-si-a, những việc thiện người làm cứ theo điều đã
chép trong sách luật pháp của Ðức Giê-hô-va và các sự người, từ đầu đến cuối,
27. kìa, đã ghi chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
2 Sử-Ký 36
chọn đoạn khác
1. Dân sự của xứ bèn lập Giô-a-cha, con trai Giô-si-a, làm vua thay vì cha người
tại Giê-ru-sa-lam.
2. Giô-a-cha được hai mươi ba tuổi khi lên ngôi làm vua, và cai trị ba tháng tại
Giê-ru-sa-lem.
3. Vua Ê-díp-tô truất ngôi người tại Giê-ru-sa-lem, và bắt vạ xứ một trăm ta
lâng bạc và một ta lâng vàng.
4. Ðoạn, vua Ê-díp-tô lập Ê-li-a-kim, em Giô-a-cha, làm vua của Giu-đa và
Giê-ru-sa-lem, và đổi tên người ra là Giê-hô-gia-kim. Nê-cô bắt Giô-a-cha, anh
của Giê-hô-gia-kim, đem người về xứ Ê-díp-tô.
5. Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi khi người lên ngôi làm vua; người cai
trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem, và làm điều ác trước mặt Giê-hô-va Ðức Chúa
Trời của người.
6. Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đi lên hãm đánh người, xiềng người lại, và
dẫn người qua Ba-by-lôn.
7. Nê-bu-cát-nết-sa cũng đoạt lấy đem về Ba-by-lôn những khí dụng của đền Ðức
Giê-hô-va, rồi để vào trong miễu người tại Ba-by-lôn.
8. Các công việc khác của Giê-hô-gia-kim những sự gớm ghiếc người đã làm, và sự
đã tìm được trong lòng người, thảy đều chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và
Giu-đa Giê-hô-gia-kin, con trai người, cai trị thế cho người.
9. Giê-hô-gia-kin được mười tám tuổi khi người lên ngôi làm vua, và cai trị ba
tháng mười ngày tại Giê-ru-sa-lem. Người làm điều ác tại trước mặt Ðức
Giê-hô-va.
10. Sang đầu năm, vua Nê-bu-cát-nết-sa sai bắt người dẫn về Ba-by-lôn, cùng đoạt
lấy đem về các vật tốt đẹp của đền Ðức Giê-hô-va, rồi lập Sê-đê-kia, em người,
làm vua Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
11. Sê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi, khi người lên ngôi làm vua, và cai trị
mười một năm tại Giê-ru-sa-lem.
12. Người làm điều ác trước mặt Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của người, không hạ mình
xuống trước mặt Giê-rê-mi, là đấng tiên tri vâng mạng Ðức Giê-hô-va mà khuyên
bảo người.
13. Người cũng dấy lên nghịch cùng vua Nê-bu-cát-nết-sa, là vua đã buộc người
chỉ Ðức Chúa Trời mà thề; song người lại cứng cổ rắn lòng, không khứng trở về
cùng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
14. Những thầy tế lễ cả và dân sự đều theo những sự gớm ghiếc của các dân ngoại
bang mà phạm tội lỗi nhiều quá đỗi; làm cho ô uế đền của Ðức Giê-hô-va mà Ngài
đã biệt riêng ra thánh tại Giê-ru-sa-lem.
15. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ chúng, vì có lòng thương xót dân sự và
đền của Ngài; nên hằng sai sứ giả đến cùng chúng;
16. nhưng chúng nhạo báng sứ giả của Ðức Chúa Trời, khinh bỉ các lời phán Ngài,
cười nhạo những tiên tri của Ngài, cho đến đỗi cơn thạnh nộ của Ðức Giê-hô-va
nổi lên cùng dân sự Ngài, chẳng còn phương chữa được.
17. Vì vậy, Ðức Chúa Trời khiến vua dân Canh-đê lên hãm đánh chúng, người dùng
gươm giết những trai trẻ của chúng tại đền thánh họ; người chẳng thương xót đến,
hoặc trai trẻ, nữ đồng trinh, già cả, hay là kẻ đầu bạc: Ngài phó hết thảy vào
tay của vua Canh-đê.
18. Các khí dụng nhỏ và lớn của đền Ðức Chúa Trời, các bửu vật của vua và của
các quan trưởng vua, cả thảy đều bị đem qua Ba-by-lôn.
19. Chúng đốt đền Ðức Chúa Trơi, đánh đổ vách thành Giê-ru-sa-lem, lấy lửa đốt
các cung điện, và phá hủy các khí dụng tốt đẹp của nó.
20. Phàm ai thoát khỏi gươm, thì người bắt đem qua Ba-by-lôn; chúng làm tôi mọi
cho người và cho con trai người cho đến đời nước Phe-rơ-sơ hưng khởi;
21. để cho ứng nghiệm lời của Ðức Giê-hô-va đã cậy miệng Giê-rê-mi mà phán ra,
tức cho đến khi xứ được hưởng các năm sa-bát của nó; vì trọn lúc xứ bị bỏ hoang,
thì dường như giữ sa-bát, cho đến khi mãn hạn bảy mươi năm.
22. Năm thứ nhất đời Si-ru, vua Phe-rơ-sơ trị vì, Ðức Giê-hô-a muốn làm cho ứng
nghiệm lời Ngài đã cậy miệng Giê-rê-mi mà phán ra, bèn cảm động lòng Si-ru, vua
Phe-rơ-sơ, rao truyền trong khắp nước mình, và cũng ra chiếu chỉ, mà rằng:
23. Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, nói như vầy: Giê-hô-va Ðức Chúa Trời đã ban cho ta các
nước thế gian, và biểu ta xây cất cho Ngài một cái đền ở tại Giê-ru-sa-lem trong
xứ Giu-đa. Trong các ngươi, phàm ai thuộc về dân sự Ngài, hãy trở lên
Giê-ru-sa-lem; nguyện Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của người ấy ở cùng người!