[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10]
E-xơ-ra 1
chọn đoạn khác
1. Năm thứ nhứt đời Si-ru, vua nước Phe-rơ-sơ trị vì, Ðức Giê-hô-va muốn làm cho
ứng nghiệm lời Ngài đã cậy miệng Giê-rê-mi mà phán ra, nên Ngài cảm động lòng
Si-ru, vua Phe-rơ-sơ tuyên truyền trong khắp nước mình, và cũng ra sắc chỉ rằng:
2. Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, nói như vầy: Giê-hô-va Ðức Chúa Trời đã ban các nước
thế gian cho ta, và chánh Ngài có biểu ta xây cất cho Ngài một đền thờ tại
Giê-ru-sa-lem, trong xứ Giu-đa.
3. Trong các ngươi, phàm ai thuộc về dân sự Ngài, khá trở lên Giê-ru-sa-lem
trong xứ Giu-đa, đặng cất lại đền thờ Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,
vẫn ngự tại Giê-ru-sa-lem. Nguyện Ðức Chúa Trời người ấy ở cùng người!
4. Hễ dân Giu-đa còn sót lại, mặc dầu ở đâu, thì bổn dân của nơi họ ở, phải tiếp
trợ họ bằng bạc, vàng, của cải, súc vật, không kể những của lễ lạc hiến về đền
của Ðức Chúa Trời ở tại Giê-ru-sa-lem.
5. Bấy giờ những trưởng tộc của Giu-đa và Bên-gia-min, những thầy tế lễ, và
người Lê-vi, cả thảy những người nào Ðức Chúa Trời cảm động lòng có ý đi lên xây
cất đền thờ của Ðức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, bèn chổi dậy.
6. Các người lân cận chúng đều tiếp trợ chúng, cho những vật bằng bạc, bằng vàng,
của cải, súc vật, và những vật quí báu, bất kể các của lạc hiến khác.
7. Vua Si-ru cũng trả lại những khí dụng của đền thờ Ðức Giê-hô-va, mà
Nê-bu-cát-nết-sa đã đem đi khỏi Giê-ru-sa-lem và để trong đền thờ của thần người.
8. Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, truyền Mít-rê-đát, người thủ quỹ, lấy các khí dụng ấy
ra, đếm và giao cho Sết-ba-xa, quan trưởng của Giu-đa.
9. Nầy là số của các khí dụng ấy: ba mươi cái chậu vàng, ngàn cái chậu bạc, hai
mươi chín con dao,
10. ba mươi các chén vàng, bốn trăm mười cái chén bạc thứ hạng nhì, một ngàn cái
khí dụng khác.
11. Hết thảy những khí dụng bằng vàng và bạc số là năm ngàn bốn trăm cái. Khi
những người bị bắt làm phu tù ở Ba-by-lôn được dẫn về Giê-ru-sa-lem thì
Sết-ba-xa đem lên luôn hết thảy vật ấy.
E-xơ-ra 2
chọn đoạn khác
1. Trong con cháu các dân tỉnh Giu-đa bị Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, bắt
dẫn qua Ba-by-lôn, nầy những người bị đày đó trở lên Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đa,
mỗi người về trong thành mình,
2. có Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, Sê-ra-gia, Rê-ê-la-gia, Mạc-đô-chê, Binh-san,
Mít-bạt, Biết-vai, Rê-hum và Ba-a-na dẫn dắt. Vậy, nầy là sổ dựng những người
nam của Y-sơ-ra-ên.
3. Họ Pha-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai;
4. họ Sê-pha-ti-a, ba trăm bảy mươi hai;
5. họ A-rách, bảy trăm bảy mươi lăm;
6. họ Pha-hát-Mô-áp, con cháu của Giê-sua và Giô-áp, hai ngàn tám trăm mười hai;
7. họ Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn;
8. họ Xát-tu, chín trăm bốn mươi lăm;
9. họ Xác-cai, bảy trăm sáu mươi;
10. họ Ba-ni, sáu trăm bốn mươi hai;
11. họ Bê-bai, sáu trăm hai mươi ba;
12. họ A-gát, một ngàn hai trăm hai mươi hai;
13. họ A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi sáu;
14. họ Biết-vai, hai ngàn năm mươi sáu;
15. họ A-đin, bốn trăm năm mươi bốn;
16. họ A-te, về gia quyến Ê-xê-chia, chín mươi tám;
17. họ Bết-sai, ba trăm hai mươi ba;
18. họ Giô-ra, một trăm mười hai;
19. họ Ha-sum, hai trăm hai mươi ba;
20. họ Ghi-ba, chín mươi lăm;
21. họ Bết-lê-hem, một trăm hai mươi ba;
22. người Nê-tô-pha, năm mươi sáu;
23. người A-na-tốt, một trăm hai mươi tám;
24. người Ách-ma-vết, bốn mươi hai,
25. người Ki-ri-át-A-rim, Kê-phi-a, và Bê-ê-rốt, bảy trăm bốn mươi ba;
26. người Ra-ma và Ghê-ra, sáu trăm hai mươi mốt;
27. người Mích-ba, một trăm hai hai mươi hai;
28. người Bê-tên và A-hi, hai trăm hai mươi ba;
29. họ Nê-bô, năm mươi hai;
30. họ Mác-bi một trăm năm mươi sáu;
31. họ Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn;
32. họ Ha-rim, ba trăm hai mươi;
33. họ Lô-đơ, họ Ha-đít, và họ Ô-nô, bảy trăm hai mươi lăm;
34. người Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm;
35. họ Sê-na, ba ngàn sáu trăm ba mươi.
36. Những thầy tế lễ: họ Giê-đa-gia, thuộc về chi phái Giê-sua, chín trăm bảy
mươi ba;
37. họ Y-mê, một ngàn hăm mươi hai;
38. họ Pha-su-rơ, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy;
39. họ Ha-rim, một ngàn mười bảy.
40. Các người Lê-vi: họ Giê-sua và Cát-mi-ên, con cháu của Hô-đa-via, bảy mươi
bốn.
41. Những người ca hát: họ A-sáp, một trăm hai mươi tám.
42. Các con cháu kẻ giữ cửa: con cháu Sa-lum, con cháu A-te, con cháu Tanh-môn,
con cháu A-cúp, con cháu Ha-ti-ta, con cháu Sô-bai, cộng hết thảy là một trăm ba
mươi chín người.
43. Kẻ phục dịch trong đền thờ: Con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt,
44. con cháu Kê-rốt, con cháu Sia-ha, con cháu Ba-đôn,
45. con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu A-cúp,
46. con cháu Ha-gáp, con cháu Sam-lai, con cháu Ha-nan,
47. con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-cha, con cháu Rê-a-gia,
48. con cháu Rê-xin, con cháu Nê-cô-đa, con cháu Ga-xam,
49. con cháu U-xa, con cháu Pha-sê-a, con cháu Bê-sai,
50. con cháu A-sê-na, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phu-sim,
51. con cháu Bác-búc, con cháu Ha-cu-pha, con cháu Ha-rua,
52. con cháu Ba-lút, con cháu Mê-hi-đa, con cháu Hạt-sa,
53. con cháu Bạt-cô, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tha-mác,
54. con cháu Nê-xia, con cháu Ha-ti-pha.
55. Con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn: con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con
cháu Phê-ru-đa,
56. con cháu Gia-a-la, con cháu Ðạt-côn, con cháu Ghi-đên,
57. con cháu Sê-pha-ti-a, con cháu Hát-tinh, con cháu Bô-kê-rết-Ha-xê-ba-im, con
cháu A-mi.
58. Tổng cộng những người phục dịch trong đền thờ và các con cháu của những tôi
tớ Sa-lô-môn, đều là ba trăm chín mươi hai người.
59. Nầy là những người ở Tên-Mê-la. Tên-Hạt-sa, Kê-rúp-A-đan, và Y-mê trở lên,
không thể nói rõ gia tộc và phổ hệ mình, đặng chỉ rằng mình thuộc về dòng dõi Y-sơ-ra-ên
hay chăng:
60. con cháu Ðê-la-gia, con cháu Tô-bi-gia, con cháu Nê-cô-đa, đều sáu trăm năm
mươi hai người.
61. Trong dòng dõi thầy tế lễ: con cháu Ha-ba-gia, con cháu Ha-cốt, con cháu
Bạt-xi-lai. Người ấy có cưới một con gái của Bạt-xi-lai ở Ga-la-át, nên được gọi
bằng tên ấy.
62. Các người ấy tìm gia phổ mình, nhưng chẳng tìm đặng; nên người ta kể họ là ô
uế, và họ bị truất khỏi chức tế lễ.
63. Quan tổng đốc cấm chúng ăn những vật chí thánh cho đến chừng nào có thầy tế
lễ cậy U-rim và Thu-mim mà cầu hỏi Ðức Chúa Trời.
64. Cả hội chúng đếm được bốn vạn hai ngàn ba trăm sáu mươi người,
65. chẳng kể những tôi trai tớ gái; số chúng nó là bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy.
Cũng có hai trăm người nam nữ ca hát theo cùng họ nữa.
66. Chúng có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la,
67. bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.
68. Có nhiều trưởng tộc, khi đã đến đền thờ của Ðức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem,
thì dâng những của lễ lạc ý cho nhà Ðức Chúa Trời, để xây cất nó lại chỗ cũ.
69. Tùy theo sức mình, chúng dâng vào kho của cuộc xây cất đến sáu mươi mốt ngàn
đa-riếc vàng, năm ngàn min bạc, và một trăm bộ áo thấy tế lễ.
70. Vậy, những thầy tế lễ, người Lê-vi, mấy người dân, người ca hát, kẻ giữ cửa,
những người phục dịch trong đền thờ, và cả dân Y-sơ-ra-ên, thảy đều ở trong bổn
thành mình.
E-xơ-ra 3
chọn đoạn khác
1. Ðến tháng bảy, khi dân Y-sơ-ra-ên đã ở trong bổn thành mình rồi, thì dân sự
hiệp lại như một người ở tại Giê-ru-sa-lem.
2. Bấy giờ, Giê-sua, con trai của Giô-sa-đác, và các anh em người, là thầy tế lễ,
luôn với Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-anh-thi-ên, và các anh em người, đều chổi dậy
xây cất bàn thờ Ðức Chúa Trời ở Y-sơ-ra-ên, đặng dâng của lễ thiêu tại đó, theo
như đã chép trong luật pháp Môi-se, người của Ðức chúa Trời.
3. Chúng sợ hãi dân của xứ, nên lập lại bàn thờ trên nền cũ nó, và dâng tại đó
của lễ thiêu cho Ðức Giê-hô-va, tức là của lễ thiêu buổi sớm và buổi chiều.
4. Chúng cũng giữ lễ lều tạm, y như đã chép, và dâng những của lễ thiêu ngày nầy
kế ngày kia, theo số đã định cho mỗi ngày.
5. Sau ấy, chúng dâng những của lễ thiêu hằng hiến, luôn những của lễ về lễ
trăng non và về các ngày lễ trọng thể biệt ra thánh cho Ðức Giê-hô-va; lại dâng
các của lễ của mỗi người lạc ý dâng cho Ðức Giê-hô-va.
6. Từ ngày mồng một tháng bảy, chúng khởi dâng những của lễ thiêu cho Ðức
Giê-hô-va.
7. Chúng phân cấp tiền bạc cho thợ đẽo đá và cho thợ mộc, luôn những lương thực,
rượu, và dầu cho dân Si-đôn và dân Ty-rơ, đặng sai họ đem gỗ bá hương từ Li-ban
đến biển Gia-phô, tùy theo chiếu của Si-ru, vua Phe-rơ-sơ.
8. Năm thứ hai tháng hai, sau khi chúng đến đền của Ðức Chúa Trời tại
Giê-ru-sa-lem, Xô-rô-ba-bên, con trai của Sa-anh-thi-ên, và Giê-sua, con của
Giô-xa-đác, với các anh em khác của họ, là những thầy tế lễ, người Lê-vi, cùng
hết thảy những người bị bắt làm phu tù được trở về Giê-ru-sa-lem, đều khởi làm
công việc xây cất đền thờ; chúng đặt người Lê-vi, từ hai mươi tuổi sắp lên, đặng
cai quản công việc xây cất đền thờ của Ðức Giê-hô-va.
9. Bấy giờ, Giê-sua, các con trai người và anh em người, Cát-mi-ên và các con
trai người, con cháu Hô-đa-via và con cháu Hê-na-đát, là người Lê-vi, với con
trai và anh em của họ, đều chổi dậy đồng hiệp nhau như một, mà quản đốc những
người làm việc trong nhà của Ðức Chúa Trời.
10. Khi các thợ xây nền đền của Ðức Giê-hô-va, thì có những thầy tế lễ đứng đó
mặc áo lễ và cầm kèn, còn những người Lê-vi, con cháu A-sáp, đều cầm chập chỏa,
đặng ngợi khen Ðức Giê-hô-va y như các lễ-phép của Ða-vít, vua Y-sơ-ra-ên, đã
lập ra.
11. Chúng ca hát đối đáp mà ngợi khen cảm tạ Ðức Giê-hô-va rằng: Ðáng ngợi khen
Ðức Giê-hô-va, vì Ngài là tốt lành, lòng thương xót của Ngài đối với Y-sơ-ra-ên
còn đến đời đời! Cả dân sự đều kêu reo tiếng lớn, ngợi khen Ðức Giê-hô-va, bởi
vì người ta xây nền đền thờ của Ðức Giê-hô-va.
12. Nhiều thầy tế lễ, người Lê-vi, trưởng tộc, tức là những người già cả đã thấy
đền thờ trước, bèn khóc tiếng lớn trong khi người ta xây nền của đền mới tại
trước mặt mình. Cũng có nhiều người khác lại la tiếng lớn vui mừng hớn hở;
13. nên người ta khó phân biệt tiếng vui mừng với tiếng khóc lóc; vì dân sự la
lớn tiếng lên, và tiếng ấy vẳng vẳng nghe xa.
E-xơ-ra 4
chọn đoạn khác
1. Khi các thù nghịch của Giu-đa và Bên-gia-min hay rằng những người đã bị bắt
làm phu tù được về xây cất đền thờ cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,
2. bèn đi đến Xô-rô-ba-bên và các trưởng tộc mà nói rằng: Chúng tôi muốn đồng
xây cất với các ngươi, vì chúng tôi tìm cầu Ðức Chúa Trời của anh em, cũng như
anh em, và chúng tôi đã dâng tế lễ cho Ngài từ đời Ê-sa-Ha-đôn, vua A-si-ri, đem
chúng tôi lên đây.
3. Nhưng Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, và các trưởng tộc khác của Y-sơ-ra-ên, đáp với
chúng rằng: Các ngươi chẳng được phần chung với chúng ta đặng xây cất một đền
thờ cho Ðức Chúa Trời của chúng ta; song chúng ta, chỉ một mình chúng ta, sẽ cất
một đền cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, y như Si-ru, vua Phe-rơ-sơ,
đã truyền bảo chúng ta.
4. Bấy giờ dân của xứ xui cho dân Giu-đa ngã lòng nhát sợ, trong khi họ xây cất;
5. và trọn đời Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, cho đến đời Ða-ri-út, vua Phe-rơ-sơ, trị
vì, chúng đem hối lộ cho những mưu sĩ chống với dân Giu-đa, đặng phá việc họ lo
toan.
6. Nhằm đời A-suê-ru, vừa bắt đầu lên ngôi, thì chúng làm một cái trạng cáo dân
Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem.
7. Qua đời Ạt-ta-xét-xe, thì Bít-lam, Mít-rê-đát, Ta-bê-ên, và đồng liêu của
chúng, viết biểu tấu lên Ạt-ta-xét-xe, vua Phe-rơ-sơ. Cái biểu ấy viết bằng chữ
A-ram và dịch ra tiếng A-ram.
8. Lại Rê-hum, tể tướng, và Sim-sai, thơ ký, đồng viết biểu nghịch cùng
Giê-ru-sa-lem, tấu lên vua Ạt-ta-xét-xe như vầy:
9. Rê-hum, tể tướng, Sim-sai, thơ ký và các đồng liêu của họ, tức là người
Ði-nít, người A-phạt-sa-thít, người Tạt-bê-lít, người A-phạt-sít, người
Ạt-kê-vít, người Ba-by-lôn, người Su-san, người Ðê-ha-vít, người Ê-lam,
10. và dân sự khác mà Ô-náp-ba cao trọng và vang hiển đã đem qua, khiến ở trong
thành Sa-ma-ri và trong các miền khác phía bên nầy sông.
11. Nầy là bổn sao lại của bức biểu chúng gởi tấu vua Ạt-ta-xét-xe. Các tôi tớ
vua ở bên phía nầy sông, kính tấu vua A-ta-xét-xe.
12. Tâu vua hay rõ ràng những người Giu-đa đã từ nơi vua lên đến chúng tôi tại
Giê-ru-sa-lem, đương lập lại thành phản nghịch hung ác ấy; chúng nó đã xây lại
vách thành và tu bổ các nền cho xong rồi.
13. Vậy, nguyện vua biết rõ ràng ví bằng thành nầy được cất lại, và vách tường
nó được xây lên, tất dân nó sẽ chẳng tiến cống, nộp thuế, hoặc đóng tiền mãi lộ,
rồi sau chắc sẽ gây tai họa cho vua.
14. Vả, vì chúng tôi ăn muối của đền vua, và chẳng nỡ chứng kiến việc gây thiệt
hại cho vua như vậy, nên chúng tôi sai sứ giả đến tâu rõ cùng vua,
15. đặng người ta tra khảo trong sử ký các tổ phụ của vua: tất sẽ tìm thấy trong
sách sử ký đó và biết rằng cái thành nầy vốn một cái thành phản nghịch, gây
thiệt hại cho các vua và nước; từ thuở xưa, người ta hay làm loạn ở đó; bởi cớ
ấy thành nầy đã bị phá hoang.
16. Chúng tôi tâu cáo vua hay rằng nếu thành nầy được cất lại, và vách tường nó
được xây lên, tất lại cớ ấy, đất ở phía bên nầy sông sẽ chẳng còn phục vua nữa.
17. Vua bèn giáng chiếu cho tể tướng Rê-hum, cho thơ ký Sim-sai, và cho các đồng
liêu của họ ở tại Sa-ma-ri và ở trong các miền khác phía bên nầy sông, mà rằng:
Nguyện các ngươi bình yên.
18. Bức biểu các ngươi dâng tấu lên ta đã đọc ra tỏ tường trước mặt ta.
19. Cứ theo mạng lịnh ta, người ta đã tra khảo, thấy rằng từ đời xưa cái thành
nầy có dấy loạn với các vua, và trong đó hằng có sự phản nghịch và việc ngụy
đảng.
20. Lại tại Giê-ru-sa-lem đã có những vua rất quyền thế, quản hạt cả xứ ở bên
kia sông, và người ta tiến cống, nộp thuế, và đóng tiền mãi lộ cho các vua đó.
21. Vì vậy, các ngươi hãy truyền lịnh ngăn cản những người đó cất lại cái thành
nầy, cho đến chừng ta ban chiếu chỉ về việc đó.
22. Khá cẩn thận về sự nấy, e các vua bị thiệt hại thêm chăng.
23. Vừa khi đã đọc chiếu của vua Ạt-ta-xét-xe trước mặt Rê-hum, thơ ký, Sim-sai
và các đồng liêu họ, thì chúng đồng lật đật đi đến dân Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem,
lấy năng lực và cường quyền khiến họ ngưng công việc.
24. Vậy, công việc xây cất nhà của Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem đình cho đến
năm thứ hai đời Ða-ri-út, vua Phe-rơ-sơ trị vì.
E-xơ-ra 5
chọn đoạn khác
1. Vả, tiên tri A-ghê và tiên tri Xa-cha-ri, con của Y-đô, nhơn danh Ðức Chúa
Trời của Y-sơ-ra-ên nói tiên tri cho các người Giu-đa ở tại xứ Giu-đa và ở
Giê-ru-sa-lem.
2. Xô-rô-ba-bên, con trai của Sa-anh-thi-ên, và Giê-sua, con trai của
Giô-xa-đác, bèn chổi dậy, khởi cất đền Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, có các
tiên tri của Ðức Chúa Trời giúp đỡ.
3. Trong lúc đó, Tát-tê-nai, quan tổng đốc của xứ phía bên nầy sông,
Sê-ta-Bô-xê-nai, và các đồng liêu họ, đến tìm dân Giu-đa, mà nói cùng chúng như
vầy: Ai ban lịnh cho các ngươi cất cái đền nầy và xây vách thành nầy lên?
4. Chúng ta bèn nói cùng họ tên những người xây cất cái đền nầy.
5. Con mắt Ðức Chúa Trời của chúng đoái xem các trưởng lão dân Giu-đa, nên họ
không ngăn cấm chúng làm công việc, đành lòng đem việc ấy tâu lại vua Ða-ri-út,
đợi đến khi vua giáng chiếu về sự ấy.
6. Nầy bổn sao lục tờ biểu mà Tát-tê-nai, quan tổng đốc của xứ phía bên nầy
sông, Sê-ta-Bô-xê-nai, và các đồng liêu người, tức người A-phạt-sác ở bên nầy
sông, tấu lên vua Ða-ri-út,
7. như lời sau nầy: Chúc vua Ða-ri-út thái bình mọi vẻ!
8. Chúng tôi muốn vua hay rằng chúng tôi có đi trong tỉnh Giu-đa, đến đền thờ
của Ðức Chúa Trời rất lớn, thấy người Giu-đa xây cất cái đền thờ ấy bằng đá
nguyên khối; sườn nhà đã gác ngang qua vách rồi, và công việc làm cách kỹ lưỡng
và tấn tới trong tay họ.
9. Chúng tôi có hỏi các trưởng lão ấy rằng: Ai ban lịnh cho các ngươi xây cất
cái đền nầy và xây vách thành nầy lên?
10. Chúng tôi cũng hỏi danh tánh họ, đặng tâu cho vua biết các tên của những
người quản suất chúng.
11. Chúng đáp lời như vầy: Chúng tôi vốn là kẻ tôi tớ của Ðức Chúa Trời, Chúa tể
của trời và đất; chúng tôi đang xây cất lại cái đền thờ, đã lâu năm trước đây có
một vua sang trọng của Y-sơ-ra-ên lập lên và làm cho hoàn thành.
12. Song các tổ phụ chúng tôi chọc giận Ðức Chúa Trời, nên Ngài phó chúng vào
tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, là người Canh-đê; vua ấy phá hủy đền nầy và
bắt dân sự đem qua Ba-by-lôn.
13. Nhưng năm đời Si-ru, vua Ba-by-lôn, trị vì, vua Si-ru truyền lịnh cất lại
cái đền của Ðức Chúa Trời.
14. Vua Si-ru cũng rút ra khỏi đền thờ Ba-by-lôn những chậu vàng và bạc của đền
Ðức Chúa Trời, mà Nê-bu-cát-nết-sa đã đoạt lấy khỏi đền thờ tại Giê-ru-sa-lem,
đem về trong đền thờ Ba-by-lôn; Si-ru giao các vật ấy cho danh Sết-ba-xa, mà
người lập làm quan tổng đốc,
15. và nói với người rằng: Hãy lấy các khí dụng nầy, đi để trong đền thờ tại
Giê-ru-sa-lem, để xây cất lại nhà của Ðức Chúa Trời trên chỗ cũ nó.
16. Bấy giờ, Sết-ba-xa nầy đến, lập nền đền thờ của Ðức Chúa Trời tại
Giê-ru-sa-lem; và từ lúc đó đến rày người ta đương xây cất nó, song chưa hoàn
thành.
17. Vậy bây giờ, nếu đẹp ý vua, xin hãy tra khảo trong kho vua tại Ba-by-lôn,
xem thử thật Si-ru có ra chiếu chỉ xây cất lại cái đền của Ðức Chúa Trời tại
Giê-ru-sa-lem chăng. Ðoạn, cầu vua giáng chiếu dạy chúng tôi ý vua về việc ấy.
E-xơ-ra 6
chọn đoạn khác
1. Vua Ða-ri-út bèn truyền tra khảo trong tàng thơ viện là nơi chứa các bửu vật
tại Ba-by-lôn.
2. Người ta tìm được trong đồn ở Éc-ba-tan tại tỉnh Mê-đi, một cuốn giấy trên đó
có di tích như vầy:
3. Năm thứ nhứt đời Si-ru, vua Si-ru ra chiếu chỉ về đền của Ðức Chúa Trời tại
Giê-ru-sa-lem rằng: Khá xây cất lại đền của Ðức Chúa Trời, đặng làm nơi dâng
những của lễ; các nền nó phải lập cho vững bền. Ðền thờ sẽ sáu mươi thước bề
cao, và sáu mươi thước bề dài;
4. nó sẽ có ba hàng đá nguyên khối và một hàng đòn tay gỗ mới; còn tiền sở phí
thì phải cấp phát từ trong nhà vua.
5. Lại, các khí dụng bằng vàng và bạc của nhà Ðức Chúa Trời, mà Nê-bu-cát-nết-sa
đã lấy trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem và đem qua Ba-by-lôn, thì phải trả lại,
và đem về trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, khí dụng nầy trong chỗ nấy; ngươi
phải để nó tại chỗ cũ trong nhà Ðức Chúa Trời.
6. Vậy bây giờ, hỡi Tát-tê-nai, tổng đốc của xứ bên kia sông, Sê-ta-Bô-xê-nai,
và các đồng liêu người ở A-phạt-sác bên kia sông, hãy dan ra;
7. khá để cho quan cai của người Giu-đa và những người trưởng lão của chúng xây
cất lại đền thờ của Ðức Chúa Trời tại nơi cũ nó.
8. Nầy ta ra lịnh, truyền các ngươi phải làm gì đối với các trưởng lão dân
Giu-đa, đặng giúp việc cất lại cái đền của Ðức Chúa Trời: Hãy lấy thuế khóa thâu
ở bên kia sông, vội cấp phát các tiền chi phí cho những người đó, để công việc
chẳng bị dứt chừng.
9. Phàm vật chi cần kíp, hoặc bò tơ đực, chiên đực hay là chiên con, để dùng làm
của lễ thiêu dâng cho Ðức Chúa Trời trên trời; hoặc lúa mì, muối, rượu, hay là
dầu, theo lời của những thầy tế lễ ở tại Giê-ru-sa-lem, khá giao cho họ mỗi
ngày, chớ thiếu,
10. hầu cho họ dâng những của lễ có mùi thơm cho Ðức Chúa Trời trên trời, và cầu
nguyện cho sanh mạng của vua và của các vương tử.
11. Ta cũng truyền lịnh rằng: Nếu ai cải chiếu chỉ nầy, thì khá rút một cây đòn
tay trong nhà kẻ ấy, rồi treo nó tại đó. và vì cớ tội ấy, làm cho nhà nó thành
ra một chỗ đổ rác.
12. Nguyện Ðức Chúa Trời, là Ðấng đã khiến danh Ngài ngự trong đền thờ ấy, hủy
diệt vua nào, dân tộc nào dám giơ tay ra cải chiếu này đặng phá hủy đền thờ của
Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Ta là Ða-ri-út ban chiếu chỉ nầy; khá làm theo
nó cách cần mẫn!
13. Tát-tê-nai, quan tổng đốc của xứ phía bên nầy sông, Sê-ta-Bô-xê-nai và các
đồng liêu họ, bèn cần mẫn tuân theo chiếu chỉ mà vua Ða-ri-út đã sai đến.
14. Ấy vậy, các trưởng lão của dân Giu-đa bắt tay cất lại đền thờ, công việc
được may mắn, y lời tiên tri của tiên tri A-ghê, và của Xa-cha-ri, con trai của
Y-đô. Vậy, chúng làm xong công việc cất đền thờ, tùy theo mạng lịnh của Ðức Chúa
Trời của Y-sơ-ra-ên, và theo chiếu chỉ của Si-ru, Ða-ri-út, và Ạt-ta-xét-xe, vua
nước Phe-rơ-sơ.
15. Ngày thứ ba tháng A-đa, nhằm năm thứ sáu đời vua Ða-ri-út, cái đền nầy được
xây cất xong.
16. Dân Y-sơ-ra-ên, những thầy tế lễ, người Lê-vi, và những người khác đã bị bắt
làm phu tù được về, đều giữ lễ khánh thành đền thờ của Ðức Chúa Trời cách vui
mừng.
17. Về lễ khánh thành đền thờ nầy, chúng dâng một trăm con bò đực, hai trăm con
chiên đực, bốn trăm con chiên con, và tùy theo số các chi phái Y-sơ-ra-ên, chúng
dâng mười hai con dê đực làm của lễ chuộc tội cho cả dân Y-sơ-ra-ên.
18. Chúng lập lên những thầy tế lễ và các người Lê-vi tùy theo ban thứ của họ,
đặng phục sự Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, y như đã chép trong sách Môi-se.
19. Ðoạn, ngày mười bốn tháng giêng, các người đã bị bắt làm phu tù được về, dự
lễ Vượt qua.
20. Vì những thầy tế lễ và người Lê-vi, cả thảy đã dọn mình cho thanh sạch,
không trừ ai; rồi chúng vì hết thảy người đã bị bắt làm phu tù được trở về, vì
những thầy tế lễ, là anh em mình, và vì chính mình, mà giết con sinh dùng về lễ
Vượt qua.
21. Những người Y-sơ-ra-ên đã bị bắt làm phu tù được về, bèn ăn lễ Vượt qua,
luôn với những người đã tự chia rẽ ra sự ô uế của các dân tộc trong xứ đó, đến
theo dân Y-sơ-ra-ên, đặng tìm kiếm Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
22. Trong bảy ngày chúng giữ lễ bánh không men cách vui vẻ; vì Ðức Giê-hô-va đã
làm cho lòng chúng được khoái lạc, và có cảm động lòng vua A-si-ri đoái xem
chúng, đặng giúp đỡ trong cuộc xây cất đền của Ðức Chúa Trời, tức là Ðức Chúa
Trời ở Y-sơ-ra-ên
E-xơ-ra 7
chọn đoạn khác
1. Sau các việc ấy, nhằm đời Ạt-ta-xét-xe, vua Phe-rơ-sơ, có E-xơ-ra, là con
trai Sê-ra-gia;
2. Sê-ra-gia con trai của Hinh-kia, Hinh-kia con trai của Sa-lum, Sa-lum con
trai của Xa-đốc, Xa-đốc con trai của A-hi-túp.
3. A-hi-túp con trai của A-ma-ria, A-ma-ria con trai của A-xa-ria, A-xa-ria con
trai của Mê-ra-giốt.
4. Mê-ra-giốt con trai của Xê-ra-hi-gia, Xê-ra-hi-gia con trai của U-xi,
5. U-xi con trai của Bu-ki, Bu-ki con trai của A-bi-sua, A-bi-sua con trai của
Phi-nê-a, Phi-nê-a con trai của Ê-lê-a-sa, Ê-lê-a-sa con trai của A-rôn, là thầy
tế lễ thượng phẩm.
6. E-xơ-ra nầy từ Ba-by-lôn đi lên. Người là một văn sĩ thạo luật pháp của
Môi-se, mà Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã truyền cho. Vì tay của Ðức
Giê-hô-va phù trợ người, nên vua ban cho người mọi điều người xin.
7. Nhằm năm thứ bảy đời vua Ạt-ta-xét-xe, có mấy người trong dân Y-sơ-ra-ên,
trong bọn thầy tế lễ, và người Lê-vi, kẻ ca hát, người giữ cửa, và người
Nê-thi-min, đều đi cùng người trở lên Giê-ru-sa-lem.
8. Tháng năm năm thứ bảy đời vua ấy, E-xơ-ra đến thành Giê-ru-sa-lem.
9. Vả, ngày mồng một tháng giêng, người ở Ba-by-lôn khởi hành; rồi ra nhờ tay
nhân lành của Ðức Chúa Trời phù trợ, người đến Giê-ru-sa-lem ngày mồng một tháng
thứ năm.
10. Vì E-xơ-ra đã định chí tra xét luật pháp của Ðức Giê-hô-va, giữ làm theo, và
dạy cho dân Y-sơ-ra-ên biết những luật pháp và giới mạng.
11. Nầy lá bổn sao lại chiếu chỉ mà vua Ạt-ta-xét-xe giao cho E-xơ-ra, thầy tế
lễ và văn sĩ, thạo biết trong những điều răn luật lệ của Ðức Chúa Trời đã truyền
cho Y-sơ-ra-ên.
12. Vua Ạt-ta-xét-xe, vua của các vua, gởi thơ cho E-xơ-ra, thầy tế lễ và văn
sĩ, thạo biết luật pháp của Ðức Chúa Trời trên trời. Nguyện ngươi được trọn bình
an.
13. Ta ra chiếu chỉ định rằng phàm người nào trong nước ta, thuộc về dân
Y-sơ-ra-ên, thầy cả và người Lê-vi, sẵn muốn đi đến Giê-ru-sa-lem, thì hãy đi
chung với người.
14. Ta và bảy mưu thần ta sai ngươi đi tra xét về Giu-đa và về Giê-ru-sa-lem,
chiếu theo luật pháp của Ðức Chúa Trời ngươi có trong tay ngươi.
15. Ngươi sẽ đem theo mình vàng và bạc mà vua và các mưu thần lạc ý dâng cho Ðức
Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, có nơi ở tại Giê-ru-sa-lem,
16. luôn các bạc và vàng mà ngươi có được trong tỉnh Ba-by-lôn, và những lễ vật
lạc ý của dân sự cùng thầy tế lễ dâng cho đền của Ðức Chúa Trời mình tại
Giê-ru-sa-lem.
17. Ngươi hãy dùng bạc nầy cần mẫn mua những bò đực, chiên đực, chiên con, luôn
của lễ chay, và của lễ quán cặp theo, rồi dâng lên trên bàn thờ ở nơi đền của
Ðức Chúa Trời các người, ở tại Giê-ru-sa-lem.
18. Còn bạc và vàng dư lại, hễ muốn dùng việc gì phải, khá theo ý ngươi và anh
em ngươi cho là tốt mà làm thuận ý chỉ của Ðức Chúa Trời các ngươi.
19. Về các khí dụng đã giao cho ngươi để dùng vào cuộc thờ phượng trong đền của
Ðức Chúa Trời ngươi, hãy để nó tại trước mặt Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.
20. Còn các vật gì khác ngươi cần dùng về chi phí đền thờ của Ðức Chúa Trời
ngươi, khá lấy các vật ấy nơi kho tàng vua.
21. Vậy, ta là vua Ạt-ta-xét-xe ra chiếu chỉ truyền cho các quan cai kho ở bên
phía kia sông rằng hễ vật gì E-xơ-ra, thầy tế lễ và văn sĩ, thạo biết luật pháp
của Ðức Chúa Trời trên trời, sẽ cầu cùng các ngươi, các ngươi khá cần mẫn cung
cấp cho,
22. đến một trăm ta lâng bạc, một trăm bao lúa miến, một trăm thùng rượu, một
trăm thùng dầu, và muối không hạn.
23. Phàm điều gì Ðức Chúa Trời trên trời truyền dạy về đền thờ của Ngài, khá làm
cho cần mẫn, e sự tai họa giáng trên nước, trên vua, và trên các vương tử chăng.
24. Lại, ta truyền cho các ngươi biết rằng chẳng được phép thâu thuế hay là tiền
mãi lộ nơi thầy tế lễ, người Lê-vi, kẻ ca hát, người giữ cửa, người Nê-thi-nim,
hay là nơi những tôi tớ đền thờ của Ðức Chúa Trời.
25. Còn ngươi, hỡi E-xơ-ra, tùy theo sự khôn ngoan của Ðức Chúa Trời ngươi, đã
có trong tay ngươi, hãy lập những quan phủ, quan án, là những kẻ thạo biết luật
pháp của Ðức Chúa Trời ngươi để chúng xét đoán cả dân sự ở bên kia sông; còn
người nào chẳng biết luật pháp, các ngươi khá dạy cho nó biết.
26. Nếu có ai không tuân luật pháp của Ðức Chúa Trời ngươi và luật lệ của vua,
thì các ngươi hãy đoán phạt họ liền, hoặc xử tử, hoặc lưu đày, hoặc tịch biên
gia tài, hay là cầm tù.
27. E-xơ-ra bèn nói rằng: Ðáng ngợi khen thay Giê-hô-va Ðức Chúa Trời tổ phụ
chúng tôi, vì đã cảm lòng vua toan trang điểm đền thờ của Ðức Giê-hô-va tại
Giê-ru-sa-lem,
28. và khiến cho tôi được ơn trước mặt vua, cùng trước mặt các mưu thần và các
quan trưởng có quyền của vua! Vậy, tôi hứng chí, vì tay Giê-hô-va Ðức Chúa Trời
tôi phù trợ tôi, và tôi chiêu-tập các trưởng tộc Y-sơ-ra-ên đặng đồng đi lên với
tôi.
E-xơ-ra 8
chọn đoạn khác
1. Nầy những trưởng tộc và gia phổ của các ngươi từ Ba-by-lôn đi lên với ta,
trong đời vua Ạt-ta-xét-xe trị vì.
2. Về con cháu Phi-nê-a có Ghẹt-sôn; về con cháu Y-tha-ma có Ða-ni-ên; về con
cháu Ða-vít có Hát-túc;
3. về con cháu Sê-ca-nia, con cháu Pha-rốt có Xa-cha-ri, và những kẻ ở với
người; theo gia phổ sổ được một trăm năm mươi nam đinh;
4. về con cháu Pha-hát-Mô-áp có Ê-li-ô-ê-nai, co trai của Xê-ra-hi-gai, và với
người được hai trăm nam đinh;
5. về con cháu Se-ca-nia có con trai Gia-ha-xi-ên, và với người được ba trăm nam
đinh;
6. về con cháu A-đin có Ê-bết, con trai Giô-na-than, và với người được năm mươi
nam đinh;
7. về con cháu Ê-lam có Ê-sai, con trai A-tha-lia, và với người được bảy mươi
nam đinh;
8. về con cháu Sê-pha-ti-a có Xê-ba-đia, con trai Mi-ca-ên, và với người được
tám mươi nam đinh;
9. về con cháu Giô-áp có Áp-đia, con trai Giê-hi-ên, và với người được hai trăm
mưới tám nam đinh;
10. về con cháu Sê-lô-mít có con trai Giô-si-phia, và với người được một trăm
sáu mươi nam đinh;
11. về con cháu Bê-bai có Xa-cha-ri, con trai của Bê-bai, và với người được hai
mươi tám nam đinh.
12. về con cháu A-gát có Giô-ha-ham, con trai của Ha-ca-tan, và với người được
một trăm mười nam đinh;
13. nhưng kẻ thuộc về con cháu A-đô-ni-cam đến sau hết; tên chúng là
Ê-li-phê-lết, Giê-hi-ên, và Sa-ma-gia, và với họ được sáu mươi nam đinh;
14. về con cháu Biết-vai có U-tai cùng Xáp-bút, và với họ được bảy mươi nam
đinh.
15. Ta nhóm hiệp chúng gần bên sông chảy về A-ha-va, rồi chúng ta hạ trại tại đó
ba ngày. Ðoạn ta xem xét dân sự và thầy tế lễ, song chẳng thấy một người Lê-vi
nào hết.
16. Ta bèn sai gọi các trưởng tộc Ê-li-ê-xe, A-ri-ên, Sê-ma-gia, Ê-na-than,
Gia-ríp, Ên-na-than, Na-than, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam, luôn Giô-gia-ríp và
Ên-na-than, là thầy giáo sư;
17. Ta sai các người ấy đi đến trưởng tộc Y-đô ở tại Ca-si-phia, biểu họ phải
dạy Y-đô và các anh em người, tức người Nê-thi-nim, ở tại Ca-si-phia, phải dẫn
đến cùng chúng ta những kẻ giúp việc nơi đền thờ của Ðức Chúa Trời chúng ta.
18. Vì nhờ tay Ðức Chúa Trời chúng ta phù trợ, các người ấy dẫn đến cùng chúng
ta một người khôn ngoan, thuộc về dòng Mách-li, là hậu tự của Lê-vi, con trai
của Y-sơ-ra-ên, luôn Sê-rê-bia, và các con trai cùng anh em người, số được mười
tám tên;
19. lại được Ha-sa-bia và Ê-sai, thuộc về dòng Mê-ra-ri, cùng các anh em và các
con trai người, số là hai mươi tên;
20. còn trong những người Nê-thi-nim mà Ða-vít và các quan trưởng đã đặt giúp
việc người Lê-vi, thì có được hai trăm hai mươi người, thảy đều gọi đích danh.
21. Tại đó, gần bên sông A-ha-va, ta truyền kiêng cữ ăn, để chúng hạ mình xuống
trước mặt Ðức Chúa Trời chúng ta, và cầu xin Ngài chỉ cho biết đường chánh đáng
chúng ta, con cái chúng ta, và tài sản mình phải đi.
22. Vả lại, ta lấy làm thẹn, chẳng dám xin vua một đạo quân và lính kỵ binh vực
chúng ta khỏi kẻ thù nghịch trong lúc đi đường; vì chúng ta có nói với vua rằng:
Tay của Ðức Chúa Trời chúng tôi phù trợ mọi kẻ nào tìm kiếm Ngài; nhưng quyền
năng và thạnh nộ Ngài kháng cự nhũng kẻ nào lìa bỏ Ngài.
23. Ấy vậy, chúng ta kiêng cữ ăn và cầu xin Ngài điều ấy; Ngài bèn nhậm lời
chúng ta.
24. Trong những thầy tế lễ, ta bèn chọn mười hai người trưởng, là Sê-rê-bia,
Ha-sa-bia và mười người anh em họ;
25. đoạn, ta cân cho chúng các bạc, vàng, và những khí dụng mà vua, các mưu
thần, các quan trưởng vua, cùng cả dân Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó, đã dâng cho đền
của Ðức Chúa Trời chúng ta.
26. Vậy, ta cân giao cho họ sáu trăm năm mươi ta lâng bạc, khí dụng bằng bạc giá
một trăm ta lâng, và một trăm ta ta lâng vàng,
27. hai mươi cái chén bằng vàng giá một ngàn đa-riếc, và hai cái chậu vằng đồng
bóng láng tốt nhứt, cũng quí như vàng.
28. Rồi ta nói với chúng rằng: Chánh các ngươi đã được biệt riêng ra thánh cho
Ðức Giê-hô-va, và các khí dụng nầy cũng là thánh. Bạc và vàng nầy là lễ vật lạc
ý dâng cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi.
29. Khá gìn giữ nó kỹ lưỡng cho đến chừng các ngươi cân lại trước mặt những thầy
tế lễ cả, và người Lê-vi, cùng trước mặt các trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên tại
Giê-ru-sa-lem, trong kho đền thờ của Ðức Giê-hô-va.
30. Vậy, những thầy tế lễ và người Lê-vi, sau khi đã kiểm soát lại sự cân nặng
của bạc, vàng, và những khí dụng rồi, bèn thâu nhận đặn đem đến Giê-ru-sa-lem,
trong đền thờ của Ðức Chúa Trời chúng ta.
31. Ngày mười hai tháng giêng, chúng ta ở sông A-ha-va khởi-hành, đặng đi lên
đến Giê-ru-sa-lem. Tay của Ðức Chúa Trời chúng ta phù trợ chúng ta, giải cứu
chúng ta khỏi tay kẻ thù nghịch, và khỏi kẻ rình phục dọc đường.
32. Ðoạn, chúng ta đến Giê-ru-sa-lem, ở tại đó ba ngày.
33. Ngày thứ tư, chúng ta cân lại bạc, vàng, và những khí dụng trong đền thờ Ðức
Chúa Trời, rồi giao cho Mê-rê-mốt, con trai U-ri, thầy tế lễ (với người có
Ê-lê-a-sa, con trai của Phi-nê-a, Giô-xa-báp, con trai Giê-sua, và Nô-a-đia, con
trai Bin-nui, người Lê-vi),
34. cứ theo số và cân; số cân nặng đều biên chép trong một kỳ ấy.
35. Những người đã bị bắt làm phu tù được trở về, dâng của lễ thiêu cho Ðức Chúa
Trời của Y-sơ-ra-ên bằng mười hai con bò đực vì cả Y-sơ-ra-ên, chín mươi sáu con
chiên đực, bảy mươi bảy con chiên con, và mười hai con dê đực để làm của lễ
chuộc tội: cả thảy đều dâng lên làm của lễ thiêu cho Ðức Giê-hô-va.
36. Chúng giao chiếu chỉ của vua cho các quan trấn, và cho các quan cai của vua
ở phía bên nầy sông họ bèn giúp đỡ dân sự và việc đền thờ của Ðức Chúa Trời.
E-xơ-ra 9
chọn đoạn khác
1. Sau các việc đó, các quan trưởng đến gần nói với ta rằng: Dân Y-sơ-ra-ên,
những thầy tế lễ, và người Lê-vi chẳng có phân rẽ với các dân tộc của xứ nầy; họ
bắt chước theo sự gớm ghiếc của dân Ca-na-an, dân Hê-vít, dân Phê-rê-sít, dân
Giê-bu-sít, dân Am-môn, dân Mô-áp, dân Ê-díp-tô, và dân A-mô-rít.
2. Vì chúng có lấy những con gái họ làm vợ của mình, và làm vợ con trai mình.
Dòng dõi thánh đã pha lộn như vậy với dân tộc của các xứ nầy; thật các trưởng và
quan cai vốn là kẻ đầu phạm tội dường ấy.
3. Khi ta nghe các lời ấy, ta bèn xé áo trong và áo tơi mình, nhổ tóc đầu và
lông râu, rồi ngồi buồn bã.
4. Những người vâng kỉnh các lời phán Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đều hiệp lại
chung quanh ta, sợ hãi về tội trọng của các người đã bị bắt làm phu tù được về
có phạm; còn ta ngồi kinh-hoảng cho đến khi dâng của lễ buổi chiều.
5. Ðến giờ dâng của lễ buổi chiều, ta đứng dậy khỏi nơi khổ nhục mình, áo trong
và áo tơi ta xé rách; ta quì gối xuống, giơ tay ra hướng về Giê-hô-va Ðức Chúa
Trời ta,
6. mà thưa với Ngài rằng: Ồ, Ðức Chúa Trời tôi! tôi hổ thẹn mặt, chẳng dám ngước
mặt lên Ngài, là Ðức Chúa Trời tôi; vì gian ác chúng tôi đã thêm nhiều quá đầu
chúng tôi, và tội chúng tôi cao lớn tận trời.
7. Từ ngày tổ phụ chúng tôi cho đến ngày nay, chúng tôi đã cực-cùng phạm tội; vì
cớ tội ác mình, nên chúng tôi, các vua chúng tôi, và những thầy tế lễ chúng tôi,
đều bị phó vào tay các vua những xứ, bị gươm, bị bắt làm phu tù, bị cướp giựt,
và bị sỉ nhục, y như điều đó đã có ngày nay.
8. Song bây giờ, Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của chúng tôi tạm làm ơn cho chúng tôi,
để một phần dư lại của chúng tôi thoát khỏi, và ban cho chúng tôi một cái đinh ở
trong chỗ thánh nầy; hầu cho Ðức Chúa Trời chúng tôi soi sáng con mắt chúng tôi
và khiến cho chúng tôi ở giữa sự nô lệ mình được dấy lên một chút.
9. Vì chúng tôi vốn là kẻ nô lệ; nhưng Ðức Chúa Trời của chúng tôi không từ bỏ
chúng tôi trong sự nô lệ chúng tôi. Ngài đã khiến cho chúng tôi được ơn trước
mặt các vua Phe-rơ-sơ, hầu ban cho chúng tôi sự dấy lên đặng cất đền của Ðức
Chúa trời chúng tôi và xây lên lại những nơi hư nát của nó, cùng ban cho chúng
tôi một nơi ở tại trong xứ Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem.
10. Bây giờ, hỡi Ðức Chúa Trời chúng tôi ôi! sau những điều đó, chúng tôi sẽ nói
làm sao? Vì chúng tôi đã lìa bỏ điều răn.
11. Ngài đã cậy các tiên tri, là tôi tớ Ngài, mà phán dạy chúng tôi, rằng: Xứ mà
các ngươi sẽ vào đặng nhận lấy đó, là một xứ bị ô uế tại sự ô uế của các dân tộc
nó, và tại sự gớm ghiếc của chúng nó đã làm cho xứ ấy đầy dẫy từ đầu nầy chí đầu
kia.
12. Vì vậy, cho nên chớ gả con gái các ngươi cho con trai chúng nó, và đừng cưới
con gái họ cho con trai của các ngươi; chớ hề tìm kiếm sự thạnh lợi hoặc sự bình
an của chúng nó, để các ngươi trở nên mạnh dạn, ăn hoa lợi của xứ, và để nó lại
cho các con trai mình làm cơ nghiệp đời đời.
13. Vả, sau những tai họa đã giáng trên chúng tôi, tại các sự hành-ác và tội
trọng của chúng tôi, mà lại, hỡi Ðức Chúa Trời chúng tôi ôi! thật Chúa chẳng có
phạt chúng tôi cho đáng như tội chúng tôi, và đã ban cho chúng tôi được phần sót
lại dường nầy;
14. vậy có lẽ nào chúng tôi lại phạm các điều răn của Chúa nữa, kết bạn với các
dân tộc vẫn làm những sự gớm ghiếc nầy sao? Vậy thì cơn thạnh nộ Chúa há sẽ
chẳng nổi lên cùng chúng tôi, tiêu diệt chúng tôi, đến đỗi chẳng còn phần sót
lại, cũng không ai thoát khỏi hay sao?
15. Hỡi Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Chúa vốn là công bình; còn
chúng tôi, chỉ một số ít người được thoát khỏi, như đã thấy ngày nay: nầy chúng
tôi ở trước mặt Chúa, mắc tội lỗi nhiều; nhân đó, chẳng ai có thế đứng nổi trước
mặt Ngài.
E-xơ-ra 10
chọn đoạn khác
1. Trong lúc E-xơ-ra cầu nguyện như vậy, vừa khóc vừa xưng tội và sấp mình xuống
trước đền của Ðức Chúa Trời, thì có một đám dân Y-sơ-ra-ên, người nam và nữ rất
đông, nhóm hiệp xung quanh người; chúng cũng khóc nứt nở.
2. Sê-ca-nia, con trai Giê-hi-ên, cháu của Ê-lam, bèn nói cùng E-xơ-ra rằng:
Chúng ta phạm tội với Ðức Chúa Trời chúng ta mà cưới những người nữ ngoại thuộc
các dân tộc của xứ; nhưng dầu đã làm vậy, hãy còn hi vọng cho dân Y-sơ-ra-ên.
3. Vậy bây giờ, ta hãy lập giao ước với Ðức Chúa Trời chúng ta, đuổi hết thảy
những người nữ kia và các con cái của họ đã sanh ra, y như lời chỉ giáo của chúa
tôi và của các người có lòng kính sợ điều răn của Ðức Chúa Trời chúng ta; khá
làm điều ấy theo luật pháp.
4. Ông hãy đứng dậy, vì việc ầy can hệ đến ông, và chúng tôi sẽ giúp đỡ; khá can
đảm mà làm.
5. E-xơ-ra bèn đứng dậy, khiến những thầy tế lễ cả, người Lê-vi, và cả
Y-sơ-ra-ên thề rằng mình sẽ làm theo lời ấy. Chúng liền thề.
6. Khi E-xơ-ra đã chổi dậy khỏi trước đền Ðức Chúa Trời, bèn đi vào phòng của
Giô-ha-nan, con trai Ê-li-a-síp; người vào đó không ăn bánh và cũng không uống
nước, bởi người lấy làm buồn thảm vì cớ tội lỗi của dân đã bị bắt làm phu tù
được trở về.
7. Người ta bèn rao truyền khắp xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, biểu các dân đã bị
bắt làm phu tù được trở về nhóm hiệp tại Giê-ru-sa-lem.
8. Trong ba ngày, ai không vâng theo lịnh của các quan trưởng và trưởng lão mà
đến, thì các tài sản người ấy sẽ bị tịch-phong, và chính người bị truất khỏi hội
chúng của dân đã bị bắt làm phu tù được trở về.
9. Trong ba ngày, các người của Giu-đa và Bên-gia-min đều nhóm lại tại
Giê-ru-sa-lem, nhằm ngày hai mươi tháng chín; cả dân sự đều ngồi tại phố ở đằng
trước đền của Ðức Chúa Trời, rúng sợ về việc ấy và về cơn mưa lớn.
10. Ðoạn, E-xơ-ra, thầy tế lễ, đứng dậy, và nói rằng: Các ngươi đã phạm tội,
cưới vợ ngoại bang, và thêm nhiều lên tội lỗi của Y-sơ-ra-ên.
11. Nhưng bây giờ, khá xưng tội lỗi mình cho Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của tổ phụ
các ngươi, và làm đều đẹp ý Ngài: hãy phân cách khỏi các dân tộc của xứ và khỏi
những người vợ ngoại bang.
12. Cả hội chúng bèn đáp lớn tiếng rằng: Phải, điều ông đã nói, chúng tôi phải
làm theo;
13. song dân sự đông; và là nhầm mùa mưa, chúng tôi không có thể nào đứng ngoài;
lại điều nầy chẳng phải là việc của một hoặc hai ngày, vì trong việc nầy chúng
tôi đã phạm tội nhiều lắm.
14. Vậy, xin các quan trưởng chúng tôi hãy đứng ở đó đặng biện lý cho cả hội
chúng; phàm ai trong các thành chúng tôi đã cưới lấy vợ ngoại bang, phải đến
theo kỳ nhứt định, với các trưởng lão và quan xét của bổn thành, đặng sắp đặt
việc này cho đến chừng đã nguôi cơn giận dữ của Ðức Chúa Trời chúng tôi.
15. Chỉ Giô-na-than, con trai của A-sa-ên, và Gia-xi-gia, con trai Tiếc-va, phản
cải lời định nầy; và Mê-su-lam cùng Sáp-bê-tai, người Lê-vi, đều giúp cho họ.
16. Vậy, những người đã bị bắt làm phu tù được trở về làm theo điều đã nhứ-định.
Người ta chọn E-xơ-ra, thầy tế lễ, và mấy trưởng tộc, tùy theo tông tộc mình,
hết thảy đều gọi đích danh. Ngày mồng một tháng mười, chúng ngồi đặng tra xét
việc nầy.
17. Ðến ngày mồng một tháng giêng, chúng đã tra xét xong những người có vợ ngoại
bang.
18. Trong dòng thầy tế lễ cũng có thấy những người đã cưới vợ ngoại bang. Trong
con cháu Giê-sua, chít của Giô-xa-đác, và trong vòng các anh em người có
Ma-a-xê-gia, Ê-li-ê-xe, Gia-ríp, và Ghê-đa-lia.
19. Chúng hứa đuổi vợ mình, và dâng một con chiên đực làm của lễ chuộc lỗi mình.
20. Trong con cháu Y-mê có Ha-na-ni và Xê-ba-bia.
21. Trong con cháu Ha-rim có Ma-a-xê-gia, Ê-li, Sê-ma-gia, Giê-hi-ên, và U-xia.
22. Trong con cháu Pha-su-rơ có Ê-li-ô-ê-nai, Ma-a-xê-gia, Ích-ma-ên,
Na-tha-na-ên, Giô-xa-bát, và Ê-lê-a-sa.
23. Trong người Lê-vi có Giô-xa-bát, Si-mê-i, Kê-la-gia (cũng gọi là Kê-li-ta),
Phê-ta-hia, Giu-đa, và Ê-li-ê-xe.
24. Trong các người ca hát có Ê-li-a-síp; trong những người giữ cửa có Sa-lum,
Tê-lem, và U-ri.
25. Trong dân Y-sơ-ra-ên: trong con cháu Pha-rốt có Ra-mia, Y-xia, Manh-ki-gia,
Mi-gia-min, Ê-lê-a-sa, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê-a-sa, Manh-ki-gia, và
Bê-na-gia.
26. Trong con cháu Ê-lam có Mát-ta-nia, Xa-cha-ri, Giê-hi-ên, Áp-đi, Giê-rê-mốt,
và Ê-li.
27. Trong con cháu Xát-tu có Ê-li-a-síp, Mát-ta-nia, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và
A-xi-xa.
28. Trong con cháu Bê-bai có Giô-ha-nan, Ha-na-nia, Xáp-bai, và Át-lai.
29. Trong con cháu Ba-ni có Mê-su-lam, Ma-lúc, A-đa-gia, Gia-sút, Sê-anh, và
Ra-mốt.
30. Trong con cháu Pha-hát-Mô-áp có Át-na, Kê-lanh, Bê-na-gia, Ma-a-xê-gia,
Mát-ta-nia, Bết-sa-lê-ên, Bin-nui, và Ma-na-se.
31. Trong con cháu Ha-rim có Ê-li-ê-se, Di-si-gia, Manh-ki-gia, Sê-ma-gia,
Si-mê-ôn,
32. Bên-gia-min, Ma-lúc, và Sê-ma-ri-a.
33. Trong con cháu Ha-sum có Mát-nai, Mát-ta-ta, Xa-bát, Ê-li-phê-lết,
Giê-rê-mai, Ma-na-se, và Si-mê-i.
34. Trong con cháu Ba-ni có Ma-ê-đai, Am-ram, U-ên,
35. Bên-na-gia, Bê-đia, Kê-lu-hu,
36. Va-nia, Mê-rê-mốt, Ê-li-a-síp,
37. Mát-ta-nia, Mát-tê-nai, Gia-a-sai,
38. Ba-ni, Bin-nui, Si-mê-i,
39. Sê-lê-mia, Na-than, A-đa-gia,
40. Mác-nát-bai, Sa-rai, Sa-rai,
41. A-xa-rên, Sê-lê-mia, Sê-ma-ria,
42. Sa-lum, A-ma-ria, và Giô-sép.
43. Trong con cháu Nê-bô có Giê-i-ên, Ma-ti-thia, Xa-bát, Xê-bi-na, Giát-đai,
Giô-ên và Bê-na-gia.
44. Hết thảy người ấy đã cưới vợ ngoại bang; và cũng có nhiều người trong bọn ấy
có vợ đã sanh đẻ con.