[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13]
Nê-hê-mi 1
chọn đoạn khác
1. Lời của Nê-hê-mi, con trai Ha-ca-lia. Năm thứ hai mươi, nhằm tháng Kít-lơ,
xảy khi tôi đương ở tại kinh đô Su-sơ,
2. có một người trong anh em tôi tên là Ha-na-ni với vài người Giu-đa đến tôi
hỏi thăm chúng về dân Giu-đa đã được thoát khỏi, tức những kẻ đã bị bắt làm phu
tù còn sót lại, và hỏi luôn về những việc Giê-ru-sa-lem.
3. Các người ấy nói với tôi rằng: Những kẻ bị bắt làm phu tù còn sót ở lại trong
tỉnh, bị tai nạn và sỉ nhục lắm; còn vách thành của Giê-ru-sa-lem thì hư nát và
các cửa nó đã bị lửa cháy.
4. Khi tôi nghe các lời ấy, bèn ngồi mà khóc, cư tang mấy ngày; tôi cữ ăn và cầu
nguyện Ðức Chúa của các từng trời, mà rằng:
5. Ôi! Giê-hô-va Ðức Chúa của các từng trời, tức Ðức Chúa Trời cực đại và đáng
kinh, hay giữ lời giao ước và lòng nhân từ cùng kẻ nào kính mến Ngài và vâng giữ
các điều răn của Ngài!
6. Tôi xin mắt Chúa hãy đoái đến và lỗ tai Chúa lắng nghe lời cầu nguyện của kẻ
đầy tớ Chúa mà tôi hiện lúc này hằng ngày và đêm cầu nguyện vì dân Y-sơ-ra-ên,
là các tôi tớ Chúa, ở tại trước mặt Chúa và xưng những tội của dân Y-sơ-ra-ên mà
chúng tôi đã phạm với Ngài. Và lại tôi và nhà của tổ phụ tôi cũng có phạm tội.
7. Chúng tôi có làm rất ác tệ nghịch cùng Chúa, không vâng giữ điều răn giới
mạng và luật lệ của Chúa đã phán dạy Môi-se, là kẻ tôi tớ Chúa.
8. Xin Chúa hãy nhớ lại lời Chúa đã phán dạy Môi-se, kẻ tôi tớ Chúa, rằng: Nếu
các ngươi phạm tội, ta sẽ tan rải các ngươi giữa các dân tộc;
9. còn nếu các ngươi trở lại cùng ta, gìn giữ làm theo các điều răn của ta, dầu
khi kẻ bị tan lạc của các ngươi ở cuối tận trời, ta cũng sẽ từ đó chiêu tập
chúng nó về, và dẫn chúng nó đến nơi ta đã chọn đặng cho danh ta ngự tại đó.
10. Vả, chúng là các tôi tớ và dân sự của Chúa, mà Chúa đã cậy quyền năng và tay
mạnh mẽ mà chuộc lại.
11. Chúa ôi! lời cầu nguyện của các tôi tớ Ngài vẫn vui lòng kính sợ danh Ngài;
ngày nay xin Chúa hãy làm cho tôi tớ Chúa được may mắn, và ban cho nó tìm được
sự nhân từ trước mặt người này. Vả, bấy giờ tôi làm quan tửu chánh của vua.
Nê-hê-mi 2
chọn đoạn khác
1. Ðương năm thứ hai mươi đời vua Ạt-ta-xét-xe, tháng Ni-san, rượu sẵn ở trước
mặt người, tôi lấy rượu dâng cho vua; trước tôi không hề có bộ buồn rầu tại
trước mặt người.
2. Vua nói với tôi rằng: Nhơn sao ngươi mặt mày buồn, dầu mà ngươi không có bịnh?
Ðiều đó chỉ là sự buồn rầu trong lòng mà thôi. Bấy giờ tôi lấy làm sợ hãi lắm,
3. bèn nói với vua rằng: Nguyện vua vạn tuế! Lẽ nào mặt tôi không buồn, khi cái
thành, là nơi có mồ mả của tổ phụ tôi, bị phá hoang, và các cửa thành bị lửa
thiêu đốt?
4. Vua hỏi tôi rằng: Ngươi cầu xin cái gì? Tôi bèn cầu nguyện cùng Ðức Chúa Trời
của các từng trời,
5. rồi tâu với vua rằng: Nếu vua thấy điều đó là tốt lành, nếu kẻ tôi tớ vua
được ơn trước mặt vua, xin vua hãy sai tôi về Giu-đa, đến thành có mồ mả của tổ
phụ tôi, để tôi xây cất thành ấy lại.
6. Ðương khi ấy hoàng hậu cũng ngồi bên cạnh vua. Vua bèn hỏi tôi rằng: Ngươi đi
đường lâu chừng bao nhiêu, và khi nào ngươi trở về? Vậy, vua đẹp lòng sai tôi đi,
và tôi định nhựt kỳ cho người.
7. Tôi cũng thưa với vua rằng: Nếu điều này được đẹp lòng vua, xin vua hãy trao
cho tôi những bức thơ truyền các qua tổng trấn bên kia sông cho phép tôi đi
ngang qua cho đến khi tôi tới Giu-đa
8. lại ban chiếu chỉ cho A-sáp, kẻ giữ rừng vua, truyền người cho tôi gỗ làm
khuôn cửa của thành điện giáp với đền và làm vách thành, cùng nhà mà tôi phải
vào ở. Vua bèn ban cho tôi các điều đó, tùy theo tay nhơn lành của Ðức Chúa Trời
tôi giúp đỡ tôi.
9. Vậy, tôi đến cùng các quan tổng trấn bên kia sông, vào trao cho họ những bức
thơ của vua. Vả, vua có sai những quan tướng và quân kỵ đi với tôi.
10. Khi San-ba-lát, người Hô-rôn, và Tô-bi-gia, là kẻ tôi tớ Am-môn, hay điều đó,
thì lấy làm bất bình vì có người đến đặng tìm kiếm sự hưng thạnh của dân Y-sơ-ra-ên.
11. Vậy, tôi đến Giê-ru-sa-lem và ở tại đó ba ngày.
12. Tôi và mấy người cùng theo tôi, bèn chổi dậy ban đêm; tôi chẳng cho ai hay
biết sự gì Ðức Chúa Trời đã khiến lòng tôi toan làm vì Giê-ru-sa-lem; lại ngoài
con thú tôi cỡi thì chẳng có con thú nào khác ở với tôi.
13. Ban đêm tôi ra nơi cửa Trũng, đối ngang suối con chó rừng, và đến cửa phân,
xem xét các vách thành của Giê-ru-sa-lem bị hư nát, và các cửa nó bị lửa thiêu
đốt.
14. Ðoạn, tôi đi qua cửa Giếng, và đến nơi ao của vua; song không có nơi nào
đặng cho con thú tôi cỡi đi ngang qua được.
15. Kế đó, ban đêm tôi bắt đường khe đi lên, xem xét vách thành; rồi tôi thối
lại, vào nơi cửa Trũng mà trở về.
16. Vả, các quan trưởng không hiểu tôi đi đâu, nào rõ tôi làm gì; và đến chừng
ấy, tôi chưa tỏ ra cho người Giu-đa, hoặc cho những thầy tế lễ, hoặc cho kẻ
quyền quí, hoặc cho quan trưởng, hay là cho các người khác lo làm công việc,
được biết gì đến.
17. Tôi bèn nói với chúng rằng: Các ngươi hãy xem tình cảnh khổ nạn của chúng ta
đương đây; Giê-ru-sa-lem bị phá hoang, và các cửa nó bị lửa thiêu đốt. Hãy đến,
xây cất các vách thành Giê-ru-sa-lem lại, hầu cho chúng ta chẳng còn bị sỉ nhục
nữa.
18. Tôi cũng thuật cho chúng làm sao tay nhơn từ của Ðức Chúa Trời tôi đã giúp
đỡ tôi, và các lời vua đã nói cùng tôi. Chúng nói: Hè, ta hãy chổi dậy và xây
sửa lại! Vậy, chúng được vững chắc trong ý nhứt định làm công việc tốt lành này.
19. San-ba-lát, người Hô-rôn, Tô-bi-gia, kẻ tôi tớ Am-môn, và Ghê-sem, người A
rạp, được hay việc đó, bèn nhạo báng và khinh bỉ chúng tôi. Chúng nó nói rằng:
Các ngươi làm chi đó? Các ngươi có ý phản nghịch vua sao?
20. Tôi bèn đáp với chúng nó rằng: Ðức Chúa của các từng trời sẽ ban cho chúng
ta sự hanh thông; vì vậy, chúng ta, là tôi tớ Ngài, sẽ chổi dậy và xây sửa lại;
nhưng các ngươi không có phần, hoặc phép, hoặc kỷ niệm trong Giê-ra-sa-lem. Sửa
các vách thành Giê-ru-sa-lem lại
Nê-hê-mi 3
chọn đoạn khác
1. Ê-li-a-síp, thầy tế lễ thượng phẩm, chổi dậy với các anh em mình, là những
thầy tế, và xây cất cái cửa Chiên. Chúng biệt nó riêng ra thánh và đặt hai cánh
cửa; chúng biệt nó riêng ra thánh cho đến tháp Mê-a và cho đến tháp Ha-na-nê-ên.
2. Kế Ê-li-a-síp, người thành Giê-ri-cô xây cất; kế chúng, Xa-cu, con trai của
Im-ri, xây cất.
3. Con cháu của Sê-na xây cất cửa Cá. Chúng đặt khuôn và tra cánh, chốt với then
nó.
4. Kế chúng, Mê-rê-mốt, con trai của U-si, cháu của Ha-cốt, lo sửa xây. Kế
chúng, Mê-su-lam, con trai Bê-rê-kia, cháu Mê-sê-xa-lê-ên, làm tu bổ. Kế chúng,
Xa-đốc; con trai Ba-a-na, tu bổ.
5. Kế chúng, những người Tê-cô-a tu bổ; song các người tước vị họ chẳng ghé vai
vào công việc của Chúa mình.
6. Giê-gia-đa, con trai của Pha-sê-a và Mê-su-lam, con trai của Bê-sô-đia, sửa
xây cái cửa cũ lại; chúng lợp nó, tra cánh, chốt, và then.
7. Kế chúng, Mê-la-tia, là người Ga-ba-ôn, và Gia-đôn, là người Mê-rô-nốt, cùng
những người Ga-ba-ôn và người Mích-ba, thuộc về địa hạt của quan tổng trấn bên
kia sông, đều tu bổ.
8. Kế chúng, U-xi-ên, con trai Hạt-ha-gia, một kẻ trong bọn thợ vàng, tu bổ; kế
người, Ha-na-nia, là người trong bọn thợ hòa hương, tu bổ; họ sửa xây
Giê-ru-sa-lem cho vững bền đến vách rộng.
9. Kế họ, Rê-pha-gia, con trai của Hu-rơ, làm quản lý phân nửa quận
Giê-ru-sa-lem, tu bổ.
10. Kế họ, Giê-gia-đa con trai Ha-ru-máp, tu bổ nơi đối ngang với nhà người. Kế
người, Hát-túc, con trai của Ha-sáp-nia, tu bổ.
11. Manh-ki-gia, con trai của Pha-hát-Mô-áp, tu bổ một phần khác và cái tháp lò.
12. Kế chúng, Sa-lum, con trai của Ha-lô-he, làm quản lý phân nửa quận
Giê-ru-sa-lem, và các con gái của người, đều tu bổ.
13. Ha-nun và dân cư Xa-nô-a sửa cái cửa Trũng; chúng xây cất nó, tra cánh cửa
chốt, và then; cũng xây một ngàn thước vách ngăn, cho đến cửa phân.
14. Manh-ki-gia, con trai Rê-cáp, quản lý quận Bết-Hát-kê-ren, sửa cái cửa phân;
người xây cất nó, tra cánh cửa, chốt, và then.
15. Sa-lun, con trai của Côn-Hô-xe, quản lý quận Mích-ba, sửa cái cửa Giếng;
người xây cất nó, lợp nó, tra cánh cửa, chốt, và then; cũng xây vách ngăn của ao
Si-lô-ê gấn bên vườn vua, và cho đến cái thang từ thành Ða-vít trở xuống.
16. Kế người, Nê-hê-mi, con trai của A-húc, quản lý phân nửa quận Bết-Xu-rơ, sửa
xây vách cho đến ngang các lăng tẩm Ða-vít, cho đến ao đã đào, và cho đến nhà
của các dõng sĩ.
17. Kế người, Rê-hum, con trai Ba-ni, người Lê-vi, tu bổ. Kế người, Ha-sa-bia,
quản lý phân nửa quận Kê-i-la, tu bổ về phần quận mình.
18. Kế người, có anh em của họ, là Ba-vai, con trai của Hê-na-đát, quản lý phân
nửa quận Kê-i-la, tu bổ.
19. Kế người, Ê-xe, con trai của Giô-suê, quản lý Mích-ba, tu bổ một phần khác,
đối ngang dốc đi lên khi binh khí ở về góc thành.
20. Sau người có Ba-rúc, con trai của Xáp-bai, lấy lòng sốt sắng tu bổ một phần
khác, từ góc thành cho đến cửa vào nhà Ê-li-a-síp, thầy tế lễ thượng phẩm.
21. Sau người có Mê-rê-mốt, con trai U-si, cháu Ha-cốt, sửa một phần khác, từ
cửa vào nhà Ê-li-a-síp cho đến cuối nhà người.
22. Sau người có những thầy tế lễ, là kẻ ở đồng bằng Giô-đanh, tu bổ.
23. Kế chúng, Bên-gia-min và Ha-súp tu bổ phần đối ngang nhà mình. Kế chúng,
A-xa-ria, con trai của ma-a-xê-gia, cháu A-na-nia, tu bổ phía bên nhà mình.
24. Kế người, Bin-nui, con trai của Hê-na-đát, sửa một phần khác, từ nhà
A-xa-ria cho đến nơi cạnh và cho đến góc thành.
25. Pha-lanh, con trai của A-xai, sửa nơi đối ngang góc thành và nơi tháp cao ló
ra của đền vua, đụng giáp cái sân ngục. Kế người đó có Phê-đa-gia, con trai của
Pha-rốt, tu bổ.
26. Vả, người Nê-thi-nim ở tại Ô-phên cho đến nơi đối ngang cửa Nước về phía
đông, và tháp ló ra.
27. Kế người ấy có người Thê-cô-a sửa một phần khác đối ngang tháp lớn ló ra, và
cho vách Ô-phên.
28. Những thầy tế lễ sửa nơi phía trên cửa Ngựa, mỗi người sửa phần đối ngang
nhà của mình.
29. Sau chúng, Xa-đốc, con trai Y-mê, sửa nơi đối ngang nhà mình. Kế sau người
có Sê-ma-gia, con trai Sê-ca-nia, kẻ giữ cửa đông, tu bổ.
30. Kế người, Ha-na-nia, con trai của Sê-lê-mia, và Ha-nun, con thứ sáu của
Xa-láp, sửa một phần khác. Kế chúng, Mê-sa-lum, con trai của Bê-rê-kia, sửa nơi
đối ngang nhà mình.
31. Kế người, Manh-ki-gia, một người trong bọn thợ vàng, sửa cho đến nhà của
người Nê-thi-nim và tay buôn bán, đối ngang cửa Mi-phơ cát, và cho đến nơi dốc
của góc thành.
32. Còn những thợ vàng và tay buôn bán đều sửa phần giữa nơi góc thành và cửa
Chiên.
Nê-hê-mi 4
chọn đoạn khác
1. Khi San-ba-lát hay rằng chúng tôi xây sửa vách thành lại, thì lấy làm giận
dữ, và nhạo báng người Giu-đa.
2. Người nói trước mặt anh em người và đạo quân Sa-ma-ri rằng: Những người
Giu-đa yếu nhược ấy làm gì? Chớ thì người ta sẽ để cho chúng nó làm lụng sao?
Chúng nó há sẽ dâng những của lễ ư? Trong một ngày chúng nó há sẽ làm xong sao?
Ðá mà đã cháy thiêu rồi, chúng nó há có thể do đống bụi đất mà lấy nó làm thành
đá lại được sao?
3. Tô-bi-gia, người Am-môn, ở bên cạnh người, nói rằng: Vả lại, cái vách bằng đá
mà những kẻ ấy xây cất kia, nếu có một con chồn leo lên đó, tất sẽ đánh nó sập
xuống liền.
4. Hỡi Ðức Chúa Trời của chúng tôi ôi! hãy nghe; vì chúng tôi bị khinh dể; xin
hãy đổ lại chúng nó trên đầu của họ, và hãy phó chúng nó làm mồi trong một xứ
bắt người ta làm phu tù kia;
5. chớ che lấp gian ác của chúng nó, đừng xóa tội lỗi chúng nó sạch khỏi trước
mặt Chúa; vì trước mặt các thợ xây cất, chúng nó có chọc Chúa giận.
6. Vậy, chúng tôi xây cất vách thành lại, và toàn vách thành đều dính liền nhau
và lên đến phân nửa bề cao; vì dân sự chuyên thành làm công việc.
7. Xảy khi San-ba-lát, Tô-bi-giam những người A rạp, dân Am-môn, và dân Ách-đốt
hay rằng việc tu bổ vách thành Giê-ru-sa-lem tấn tới, và các nơi hư lũng hầu lấp
lành, thì chúng nó lấy làm giận dữ,
8. bèn tập lập nhau hết thảy đặng đến hãm đánh Giê-ru-sa-lem và làm cho nó bị
rối loạn.
9. Nhưng chúng tôi cầu nguyện cùng Ðức Chúa Trời chúng tôi, và lập kẻ ngày và
đêm canh giữ họ.
10. Người Giu-đa nói: Còn nhiều đồ hư nát, và sức lực của kẻ khiêng dánh đã yếu
mỏn; chúng ta không thế xây cất vách thành được.
11. Các thù nghịch chúng tôi nói rằng: Chúng nó sẽ không hay không thấy điều đó,
cho đến chừng chúng ta đến giữa chúng nó, giết chúng nó đi, và làm cho chúng nó
ngưng công.
12. Song dân Giu-đa ở giữa họ, đến mười lần báo cáo chúng tôi rằng: Thù nghịch
bởi bốn phương chạy đến.
13. Tôi bèn lập những đồn trong các nơi thấp ở phía sau vách thành, và tại những
nơi trống trải; tôi đặt dân sự từng họ hàng tại đó, có cầm gươm, giáo và cung.
14. Tôi xem xét, chổi dậy, và nói với các người tước vị, quan tướng, và dân sự
còn sót lại rằng: Chớ sợ chúng; khá đánh kinh, hãy chiến đấu cho anh em mình,
cho con trai con gái mình, cho vợ và nhà của mình.
15. Khi các thù nghịch chúng tôi hay rằng chúng tôi đã được báo tin, và Ðức Chúa
Trời có bại mưu của chúng nó, thì hết thảy chúng tôi đều trở lại nơi vách thành,
ai nấy về làm công việc mình.
16. Từ ngày đó, phân nửa số đầy tớ tôi làm công việc, còn phân nửa kia cầm cây
giáo, khiên, cung, và giáp; các quan trưởng đều đứng ở sau cả nhà Giu-đa.
17. Những kẻ xây sửa vách thành, những kẻ khiêng gánh, và những kẻ chất lên, một
tay thì làm công việc, còn một tay thì cầm binh khí mình.
18. Những kẻ xây sửa, ai nấy đều có cây gươm mình đeo nơi lưng, rồi xây sửa; còn
kẻ thổi kèn thì ở bên tôi.
19. Tôi nói với các người tước vị, các quan trưởng, và dân sự còn sót lại, mà
rằng: Công việc thì lớn và dài, còn chúng ta làm rải rác ở trên vách, người này
cách xa người kia.
20. Tại nơi nào các ngươi nghe tiếng kèn, thì hãy nhóm lại cùng chúng ta ở đó;
Ðức Chúa Trời của chúng ta sẽ chiến đấu cho chúng ta.
21. Chúng tôi làm công việc là như vậy; phân nửa họ cầm cây giáo từ lúc rạng
đông cho đến khi sao mọc.
22. Trong lúc ấy, tôi cũng nói với dân sự rằng: Mỗi người hãy cùng tôi tớ mình
ngủ đêm chúng phòng giữ, và ban ngày làm công việc.
23. Nào tôi, nào anh em tôi, nào các người đầy tớ tôi, nào những lính canh theo
tôi, chẳng có ai cởi áo mình ra, mỗi người đều đeo binh khí nơi bên hữu mình.
Nê-hê-mi 5
chọn đoạn khác
1. Khi ấy có tiếng kêu la lớn của dân sự và vợ họ về người Giu-đa, là anh em
mình.
2. Có người nói rằng: Chúng tôi, con trai và con gái chúng tôi, đông đảo, và
chúng tôi phải có lúa mì để ăn cho sống.
3. Cũng có người nói rằng: Trong khi đói kém, chúng tôi cầm ruộng, vườn nho và
nhà chúng tôi hầu cho có lúa mì ăn.
4. Lại có người khác nói rằng: Chúng tôi có cầm ruộng và vườn nho chúng tôi, mà
vay bạc đặng đóng thuế cho vua.
5. Vả, thân của chúng tôi vốn như của anh em chúng tôi, các con trai chúng tôi
khác nào các con trai họ; này chúng tôi phải bắt các con trai và con gái chúng
tôi làm tôi mọi, và đã có đứa con gái chúng tôi làm tôi mọi rồi; không còn thuộc
nơi quyền tay chúng tôi chuộc nó lại; vì đồng ruộng và vườn nho chúng tôi đã
thuộc về kẻ khác.
6. Khi tôi nghe các lời này và tiếng kêu la của họ, bèn lấy làm giận lắm.
7. Lòng tôi bàn tính về điều đó, cãi lẫy với những người tước vị và các quan
trưởng, mà rằng: Các ngươi buộc tiền lời cho mỗi người anh em mình! Tôi nhóm lại
một hội đông đảo đối nghịch chúng,
8. mà nói rằng: Cứ theo quyền chúng ta có chuộc lại anh em chúng ta, là người
Giu-đa, mà đã bị bán cho các dân tộc, và các ngươi lại muốn bán anh em mình sao?
Chớ thì họ sẽ bị bán cho chúng ta sao? Chúng bèn làm thinh chẳng biết nói chi
nữa.
9. Tôi lại nói: Ðiều anh em làm chẳng được tốt. Anh em há chẳng đáng lẽ ăn ở
cách kính sợ Ðức Chúa Trời, e bị sỉ nhục giữa các dân tộc, là thù nghịch của
chúng ta, sao?
10. Tôi, anh em tôi, và các đầy tớ tôi cũng có cho họ vay mượn bạc và lúa mì
vậy. Nhưng tôi xin anh em hãy bỏ cái ăn lời này.
11. Tôi xin anh em chánh ngày nay, hãy trả lại cho họ đồng ruộng, vườn nho, vườn
ô-li-ve, và nhà cửa của họ, cùng lời một phần trăm về bạc lúa mì, rượu, và dầu,
mà anh em đã bắt họ nộp.
12. Chúng nói rằng: Chúng tôi sẽ trả lại, và không đòi họ chi hết; chúng tôi sẽ
làm như vậy y ông đã nói. Tôi đòi những thầy tế lễ, bắt chúng thề phải làm theo
như lời hứa đó.
13. Tôi cũng giũ vạt áo tôi, mà rằng: Phàm ai không giữ làm theo lời hứa này,
nguyện Ðức Chúa Trời hãy giũ hắn khỏi nhà và khỏi hoa lợi của công lao hắn;
nguyện hắn bị giũ sạch không như vậy! Cả hội chúng đồng nói: A-men! Chúng ngợi
khen Ðức Giê-hô-va. Ðoạn, dân sự đều làm theo lời hứa ấy.
14. Vả lại, từ ngày tôi được lập làm tổng trấn trong xứ Giu-đa, tức từ năm thứ
hai mươi cho đến năm thứ ba mươi hai đời vua Ạt-ta-xét-xe, cộng trong mười hai
năm, tôi hoặc anh em tôi chẳng ăn lương lộc thường cấp cho quan tổng trấn.
15. Nhưng các quan tổng trấn đã đến nhậm trước tôi, bắt dân sự cấp dưỡng, lấy
cho mình lượng thực, và rượu, trừ ra bốn mươi siếc lơ bạc; đến đỗi các đầy tớ họ
cũng lấn lướt trên dân sự nữa. Nhưng tôi không có làm như vậy; vì cớ kính sợ Ðức
Chúa Trời.
16. Lại tôi cũng giữ bền vững trong công việc xây sửa vách này, chẳng có mua
đồng ruộng nào; và các đầy tớ tôi đều hội hiệp lại đó đặng làm công việc.
17. Nơi bàn ăn tôi cũng có một trăm năm mươi người Giu-đa và quan trưởng, ngoại
trừ những kẻ ở giữa các dân tộc chung quanh chúng tôi đi đến.
18. Vả, người ta dọn ăn cho mỗi ngày một con bò, sáu con chiên chọn lựa; người
ta cũng dọn những gà vịt, và mỗi mười ngày đủ các thứ rượu rất nhiều. Dầu như
vậy, tôi cũng không đòi lương lộc của phần tổng trấn, vì công dịch lấy làm nặng
nề cho dân sự này.
19. Hỡi Ðức Chúa Trời tôi ôi! nguyện Chúa nhớ lại tôi về các điều tôi đã làm cho
dân sự này, và làm ơn cho tôi.
Nê-hê-mi 6
chọn đoạn khác
1. Xảy khi San-ba-lát, Tô-bi-gia, Ghê-sem, là người A rạp, và các thù nghịch
chúng tôi khác, hay rằng tôi đã xây sửa vách thành rồi, không còn nơi hư lũng
nào nữa, dầu cho đến lúc ấy tôi chưa tra cánh cửa,
2. thì San-ba-lát và Ghê-sem, sai đến nói với tôi rằng: Hãy đến, ta sẽ gặp nhau
trong một làng nào tại trũng Ô-nô. Nhưng chúng có ý làm hại tôi.
3. Tôi sai sứ giả đến nói cùng chúng rằng: Ta mắc làm công việc lớn, xuống không
đặng. Lẽ nào để công việc dứt trong khi bỏ nó đặng đi xuống với các ngươi?
4. Chúng sai nói với tôi bốn lượt như vậy; song tôi đáp lại với chúng cũng y
nhau.
5. Lần thứ năm, San-ba-lát sai kẻ tôi tớ người, cũng như cách cũ, có cầm thơ
không niêm nơi tay;
6. trong thơ có viết rằng: Trong các dân tộc người ta nghe đồn và Gát-mu nói
rằng: Ông và người Giu-đa toan nhau dấy loạn; tại cớ ấy, nên ông mới xây sửa
vách thành; và cứ theo lời đồn đó, tất ông muốn lên làm vua của chúng.
7. Lại ông có lặp những tiên tri đặng truyền giảng về ông tại trong
Giê-ru-sa-lem rằng: Có một vua trong xứ Giu-đa! Bây giờ người ta chắc sẽ tâu cho
vua nghe cũng các việc ấy; vậy, hãy đến, để chúng ta nghị luận với nhau.
8. Tôi sai nói với người ta rằng: Những điều ngươi nói, chẳng có ai làm chút
nào; nhưng chánh trong lòng ngươi có đặt nó ra.
9. Vì chúng nó muốn nhát cho chúng tôi hết thảy đều sợ hãi; chúng nó rằng: Tay
của chúng nó sẽ bị mỏi mệt, không làm công việc nữa. Vậy bây giờ, hỡi Chúa, hãy
làm cho tay tôi mạnh mẽ.
10. Ðoạn, tôi đi đến nhà của Sê-ma-gia, con trai của Ðê-la-gia, cháu của
Mê-hê-ta-bê-ên (người ấy đã rút ẩn ở đó); người nói rằng: Chúng ta hãy gặp nhau
tại trong nhà của Ðức Chúa Trời, chánh giữa đền thờ, rồi chúng ta sẽ đóng các
cửa đền thờ lại; vì chúng nó sẽ đến giết ông; ấy lúc ban đêm mà chúng nó toan
đến giết ông.
11. Tôi nói: một người như tôi đây sẽ chạy trốn ư? Người nào như tôi đây vào
trong đền thờ mà lại được sống sao? Tôi không vào đâu.
12. Tôi nhìn biết chẳng phải Ðức Chúa Trời có sai người đến, vì người nói lời
tiên tri đó nghịch với tôi. Tô-bi-gia và San-ba-lát đã mướn người vậy.
13. Vì tại đó, người được trả tiền công đặng khiến tôi sợ hãi, dụ tôi phạm tội,
hầu cho chúng nó có cớ đồn tiếng xấu xa, và làm sỉ nhục tôi.
14. Ðức Chúa Trời tôi ôi! Xin hãy nhớ Tô-bi-gia và San-ba-lát, tùy theo các công
việc này mà hai người đã làm; xin cũng nhớ đến Nô-a-đia, nữ tiên tri, và các
tiên tri khác đã muốn làm cho tôi sợ hãi!
15. Vậy, ngày hai mươi tháng Ê-lun, vách thành sửa xong, hết năm mươi hai ngày.
16. Khi những thù nghịch chúng tôi hay được điều đó, thì các dân tộc chung quanh
chúng tôi đều sợ hãi và lấy làm ngã lòng; vì chúng nó nhìn biết rằng công việc
này thành được bởi Ðức Chúa Trời của chúng tôi.
17. Cũng trong những ngày ấy, có các người tước vị của xứ Giu-đa gởi lắm thơ từ
cho Tô-bi-gia và Tô-bi-gia đáp thơ gởi lại cho chúng.
18. Vì tại Giu-đa có nhiều kẻ đã thề kết hiệp với người, bởi người là rể của
Sê-ca-nia, con trai của A-ra; và Giô-ha-nan, con trai người, đã cưới con gái của
Mê-su-lam, là con trai của Bê-rê-kia.
19. Chúng cũng nói trước mặt tôi những việc tốt lành của người và chúng học lại
cho người các lời của tôi. Còn Tô-bi-gia gởi thơ để làm cho tôi sợ hãi.
Nê-hê-mi 7
chọn đoạn khác
1. Khi vách thành đã xây xong, và tôi đã tra các cánh cửa, lập những người giữ
cửa, kẻ ca hát, và người Lê-vi trong chức việc của họ,
2. thì tôi giao phó việc cai trị Giê-ru-sa-lem cho Ha-na-ni, em tôi, và cho
Ha-na-nia, quan tể cung; vì là một người trung tín và kính sợ Ðức Chúa Trời hơn
nhiều kẻ khác.
3. Tôi dặn chúng rằng: Chớ mở các cửa Giê-ru-sa-lem trước khi mặt trời nắng
nóng; người ta phải đóng cánh cửa, và gài then lại trong lúc kẻ giữ cửa còn ở
tại đó; lại phải đặt người trong dân Giê-ru-sa-lem theo phiên mà canh giữ, mỗi
người đứng canh nơi đối ngang nhà mình.
4. Vả, thành thì rộng rãi lớn lao, còn dân sự ở trong nó lại ít, và nhà mới thì
chưa có cất.
5. Ðức Chúa Trời tôi có cảm động lòng tôi chiêu tập những người tước vị, các
quan trưởng, và dân sự, đặng đem chúng vào sổ từng gia phổ. Tôi có tìm đặng một
cuốn bộ gia phổ của những người đã trở lên lần đầu, và trong đó tôi thấy có ghi
rằng:
6. Này là các người tỉnh Giu-đa từ nơi làm phu tù được trở lên, tức những kẻ
thuộc trong bọn bị Nê-bu-ca-nết-sa bắt dẫn từ; chúng trở lại Giê-ru-sa-lem và xứ
Giu-đa, ai nấy đều về bổn thành mình;
7. chúng trở về với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia,
Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-bê-rết, Biết-vai, Bê-hum, và Ba-a-na.
Nầy là số tu bộ những người nam của dân Y-sơ-ra-ên;
8. Về con cháu Pha-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai người;
9. về con cháu Sê-pha-tia, ba trăm bảy mươi hai người.
10. Về con cháu A-ra, sáu trăm năm mươi hai người.
11. Về co cháu Pha-hát-Mô-áp, con cháu của Giê-sua và Giô-áp, có hai ngàn tám
trăm mười tám người.
12. Về co cháu Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người.
13. Về con cháu Xát-tu, tám trăm bốn mươi lăm người.
14. Về con cháu Xác-cai, bảy trăm sáu mươi người.
15. Về con cháu Bin-nui, sáu trăm bốn mươi tám người.
16. Về con cháu Bê-bai, sáu trăm hai mươi tám người.
17. Về con cháu A-gát, hai ngàn ba trăm hai mươi hai người.
18. Về con cháu A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi bảy người.
19. Về con cháu Biết-vai, hai ngàn sáu mươi bảy người.
20. Về con cháu A-đin, sáu trăm năm mươi lăm người.
21. Con cháu A-te, về dòng dõi Ê-xê-chia, có chín mươi tám người.
22. Về con cháu Ha-sum, ba trăm hai mươi tám người.
23. Về con cháu Bết-sai, ba trăm hai mươi bốn người.
24. Về con cháu Ha-ríp, một trăm mười hai người.
25. Về con cháu Ga-ba-ôn, chín mươi lăm người.
26. Về những người Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, một trăm tám mươi tám người.
27. Về những người A-na-tốt, một trăm hai mươi tám người.
28. Về những người Bết-A-ma-vết, bốn mươi hai người.
29. Về những người Ki-ri-át-Giê-ê-rốt, bảy trăm bốn mươi ba người.
30. Về những người Ra-ma và Ghê-ba, sáu trăm hai mươi mốt người.
31. Về những người Mích-ma, một trăm hai mươi hai người,
32. Về những người Bê-tên và A-hi, một trăm hai mươi ba người.
33. Về những người Nê-bô khác, năm mươi hai người.
34. Về con cháu Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người.
35. Về con cháu Ha-rim, ba trăm hai mươi người.
36. Về con cháu Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm người.
37. Về con cháu của Lô-đơ, của Ha-sít, và của Ô-nô, bảy trăm hai mươi mốt người.
38. Về con cháu Sê-na, ba ngàn chín trăm ba mươi người.
39. Những thầy tế lễ: Về con cháu Giê-đa-gia, nhà Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba
người.
40. Về con cháu Y-mê, một ngàn năm mươi hai người.
41. Về con cháu Pha-ru-sơ, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy người.
42. Về con cháu Ha-rim, một ngàn mười bảy người.
43. Người Lê-vi: Con cháu của Giê-sua và của Cát-mi-ên, về dòng dõi Hô-đê-va,
bảy mươi bốn người.
44. Người ca hát: Về con cháu A-sáp, một trăm bốn mươi tám người.
45. Kẻ giữ cửa: Về con cháu Sa-lum, con cháu A-te, con cháu Tanh-môn, con cháu
A-cúp, con cháu Ha-ti-la, và con cháu Sô-bai, một trăm ba mươi tám người.
46. Người Nê-thi-nim: Con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt,
47. con cháu Kê-rốt, con cháu Sia, con cháu Pha-đôn,
48. con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu Sanh-mai,
49. con cháu Ha-nan, con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-ha;
50. con cháu Rê-a-gia, con cháu Rê-xin, con cháu Nê-cô-đa,
51. con cháu Ga-xam, con cháu U-xa, con cháu Pha-sê-a,
52. con cháu Bê-sai, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phi-sê-nim,
53. con cháu Bác-búc, con cháu Ha-cu-pha, con cháu Ha-rua,
54. con cháu Bát-tít, con cháu Mê-hi-đa, con cháu Hạt-sa,
55. con cháu Bạt-cô, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tha-mác,
56. con cháu Nê-xia, con cháu Ha-ti-pha.
57. Dòng dõi các đầy tớ của Sa-lô-môn: Con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con
cháu Phê-ri-đa,
58. con cháu Gia-a-la, con cháu Ðạt-côn, con cháu Ghi-đên,
59. con cháu Sê-pha-tia, con cháu Hát-tinh, con cháu Phô-kế-rết Hát-xê-ba-im,
con cháu A-mon.
60. Tổng cộng các người Nê-thi-nim và con cháu các đầy tớ của Sa-lô-môn, là ba
trăm chín mươi hai người.
61. Nầy là những người ở Tên-Mê-la, Tên-Hạt-sa, Kê-rúp, A-đôn, và từ Y-mê mà đi
lên; nhưng chúng nó không thể chỉ ra nhà của tổ phụ mình và gốc gác của họ, hoặc
thuộc về Y-sơ-ra-ên hay chăng:
62. con cháu Ðê-la-gia, con cháu Tô-bi-gia, và con cháu Nê-cô-đa, đều sáu trăm
bốn mươi hai người.
63. Về những thầy tế lễ: Con cháu Ha-ba-gia, con cháu Ha-cốt, con cháu
Bạt-xi-lai, là người lấy vợ trong vòng con gái của Bạt-xi-lai, người Ga-la-át,
và được gọi bằng tên của họ.
64. Các người ấy tìm kiếm gia phổ mình, nhưng không thấy, bèn bị trừ ra chức tế
lễ, kể cho là ô uế.
65. Quan tổng trấn cấm chúng ăn những vật chí thánh cho đến chừng có một thầy tế
lễ dấy lên dùng U-rim và Thu-nim mà cầu hỏi Ðức Chúa Trời.
66. Cả hội chúng hiệp lại được bốn vạn hai ngàn ba trăm sáu mươi người,
67. không kể những tôi trai tớ gái của dân, số được bảy ngàn ba trăm ba mơi bảy
người; cũng có hai trăm bốn mươi lăm kẻ hát, nam và nữ.
68. Chúng có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la,
69. bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.
70. Có mấy trưởng tộc đem của cung tiến đặng giúp làm công việc. Quan tổng trấn
dâng cho kho một ngàn đa-riếc vàng, năm mươi cái chậu, và năm trăm ba mươi cái
áo thầy tế lễ.
71. Có mấy trưởng tộc dâng vào kho tạo tác hai vạn đa-riếc vàng, và hai ngàn hai
trăm min bạc.
72. Còn vật dân sự khác dâng, được hai vạn đa-riếc vàng, hai ngàn min bạc, và
sáu mươi bảy cái áo thầy tế lễ.
73. Ấy vậy, những thầy tế lễ, người Lê-vi, kẻ giữ cửa, kẻ ca hát, mấy người
trong dân, và người Nê-thi-nim, cùng cả Y-sơ-ra-ên, đều ở trong các thành của
mình. Khi tháng bảy đến, thì dân Y-sơ-ra-ên đều ở trong các thành của mình.
Nê-hê-mi 8
chọn đoạn khác
1. Bấy giờ, dân sự đều nhóm hiệp như thể một người, tại phố ở trước cửa Nước.
Chúng nói với E-xơ-ra là thầy thông giáo, xin người đem quyển sách luật pháp của
Môi-se mà Ðức Giê-hô-va đã truyền dạy cho Y-sơ-ra-ên.
2. Ngày mồng một tháng bảy, thầy tế lễ E-xơ-ra đem luật pháp đến trước mặt hội
chúng, người nam và nữ, cùng những người có thông sáng nghe hiểu được.
3. Người đứng tại phố ở trước cửa Nước, đọc trong quyển ấy từ rạng đông cho đến
trưa, có mặt các người nam và nữ, cùng những kẻ có thể hiểu được. Cả dân sự lắng
tai nghe đọc sách luật pháp.
4. Thầy thông giáo E-xơ-ra đứng trên một cái sạp bằng gỗ mà người ta làm nhơn
dịp ấy; Ma-ti-thia, Sê-ma, A-na-gia, U-ri, Hinh-kia, và Ma-a-xê-gia, đứng gần
người ở bên hữu; còn bên tả người thì có Phê-đa-gia, Mi-sa-ên, Manh-ki-gia,
Ha-sum, Hách-ba-đa-na, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam.
5. E-xơ-ra dở sách ra trước mặt cả dân sự, vì người đứng cao hơn chúng; khi
người dở sách ra, thì dân sự đều đứng dậy.
6. E-xơ-ra ngợi khen Giê-hô-va Ðức Chúa Trời cao cả; cả dân sự bèn giơ tay lên,
mà đáp lại rằng: A-men, A-men! rồi chúng cúi đầu, sấp mặt xuống đất mà thờ lạy
Ðức Giê-hô-va.
7. Giê-sua, Ba-ni, Sê-rê-bia, Giô-xa-bát, Ha-nan, Bê-la-gia, và người Lê-vi, đều
giải cho dân sự hiểu luật pháp; và dân sự đứng tại chỗ mình.
8. Họ đọc rõ ràng trong sách luật pháp của Ðức Chúa Trời, rồi giải nghĩa nó ra,
làm cho người ta hiểu lời họ đọc.
9. Nê-hê-mi, quan tổng trấn, E-xơ-ra, thầy tế lễ và thầy thông giáo, cùng người
Lê-vi mà dạy dỗ dân sự, bèn nói với cả Y-sơ-ra-ên rằng: Ngày nay là thánh cho
Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của các ngươi; chớ để tang, cũng đừng khóc lóc. Vì cả
dân sự đều khóc khi nghe đọc các luật pháp.
10. Nê-hê-mi nói với chúng rằng: Hãy đi ăn vật gì béo, uống đồ gì ngọt, và hãy
gởi phần cho những người không có sắm sửa gì hết; vì ngày nay là thánh, biệt
riêng ra cho Chúa của chúng ta. Chớ buồn thảm, vì sự vui vẻ của Ðức Giê-hô-va là
sức lực của các ngươi.
11. Vậy, người Lê-vi làm cho cả dân sự đều được yên ổn, mà rằng: Khá nín đi, vì
ngày nay là thánh, đừng sầu thảm chi.
12. Cả dân sự bèn đi đặng ăn và uống, gởi cho những phần, cùng vui vẻ lắm; vì
chúng có hiểu các lời người ta đã truyền dạy cho mình.
13. Qua ngày thứ hai, các trưởng tộc của cả dân sự, những thầy tế lễ, và người
Lê-vi, đều nhóm lại bên E-xơ-ra, là người thông giáo, đặng chú ý nghe các lời
của luật pháp.
14. Chúng thấy có chép trong luật pháp rằng Ðức Giê-hô-va cậy Môi-se phán rằng
dân Y-sơ-ra-ên phải ở trong nhà lều đương lúc lễ tháng bảy;
15. và chúng phải hô truyền trong các thành và tại Giê-ru-sa-lem nghe, rằng: Hãy
đi kiếm trong núi những nhánh ô-li-ve và ô-li-ve rừng, những nhánh cây sim,
những tầu lá kè, và những nhánh cây rậm, đặng làm những nhà lều, y như đã chép.
16. Dân sự bèn đi ra đem các lá ấy về, mỗi người đều làm nhà lều trên nóc nhà
mình, ngoài sân mình, trong hành lang của đền Ðức Chúa Trời, nơi phố của cửa
Nước, và nơi phố của cửa Ép-ra-im.
17. Cả hội chúng của những kẻ bị bắt làm phu tù được trở về bèn cất những nhà
lều, và ở trong đó. Từ đời Giô-suê, con trai của Nun, cho đến ngày ấy, dân
Y-sơ-ra-ên chẳng có làm gì giống như vậy. Bèn có sự rất vui mừng.
18. Mỗi ngày, từ ngày đầu cho đến ngày chót, người đọc trong sách luật pháp của
Ðức Chúa Trời. Chúng ăn lễ bảy ngày; còn qua ngày thứ tám, có một lễ trọng thể,
tùy theo luật lệ.
Nê-hê-mi 9
chọn đoạn khác
1. Ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân Y-sơ-ra-ên nhóm lại, cữ ăn, mặc bao và phủ
bụi đất.
2. Dòng Y-sơ-ra-ên chia rẽ các người ngoại, đứng dậy xưng tội lỗi mình và sự
gian ác của tổ phụ mình.
3. Chúng đứng dậy tại chỗ mình, đọc trong sách luật pháp của Giê-hô-va Ðức Chúa
Trời mình, lâu đến phần tư ngày: trong một phần tư khác, chúng xưng tội và thờ
lạy Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của họ.
4. Bấy giờ, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và
Kê-na-ni, đứng dậy tại trên sạp người Lê-vi, và kêu cầu lớn tiếng cùng Giê-hô-va
Ðức Chúa Trời mình.
5. Khi ấy những người Lê-vi, là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia,
Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Phê-ta-hia nói rằng: Hãy đứng dậy, ngợi khen
Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của các ngươi, là Ðấng hằng có đời đời kiếp kiếp! Ðáng
ngợi khen danh vinh hiển của Ngài, vẫn trổi cao hơn các sự chúc tụng và các lời
khen ngợi.
6. Ôi! chỉ một mình Chúa là Ðức Giê-hô-va có một không hai; Chúa đã dựng nên các
từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của nó, trái đất và các
vật ở trên nó, biển và muôn vật ở dưới nó Chúa bảo tồn những vật ấy, và cơ binh
của các từng trời đều thờ lạy Chúa.
7. Chúa ôi! Chúa là Giê-hô-va Ðức Chúa Trời mà đã chọn Áp-ram, đem người ra khỏi
U-sơ của dân Canh-đê, và ban cho người tên Áp-ra-ham.
8. Chúa thấy lòng người trung thành tại trước mặt Chúa, và Chúa lập giao ước với
người, đặng ban cho dòng dõi người xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân
A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-rê-ga-sít; Chúa có làm ứng
nghiệm lời của Chúa, vì Chúa là công bình.
9. Chúa có thấy sự khốn khổ của tổ phụ chúng tôi tại Ê-díp-tô, có nghe tiếng kêu
la của chúng tại bên Biển đỏ,
10. làm những dấu kỳ phép lạ nơi Pha-ra-ôn, nơi đầy tớ người và nơi toàn dân sự
của nước người; vì Chúa biết rằng họ có đối đãi tổ phụ chúng tôi cách kiêu căng,
và Chúa có làm nổi danh Chúa như thể ngày nay.
11. Chúa có phân rẽ biển trước mặt chúng nó, để chúng nó đi ngang qua giữa biển
trên đất khô; còn những kẻ đuổi theo, Chúa bèn ném họ dưới vực sâu, như ném đá
trong nước lớn.
12. Ban ngày, Chúa dẫn dắt chúng bằng một trụ mây, và ban đêm bằng một trụ lửa,
để chiếu sáng cho chúng trong con đường phải đi theo.
13. Chúa cũng giáng lâm tại trên núi Si-nai, phán với chúng từ trên trời, ban
cho chúng những luật lệ ngay thẳng, pháp độ chơn thật, và những qui tắc cùng
điều răn tốt lành.
14. Chúa khiến cho chúng biết ngày sa-bát thánh của Chúa, cậy Môi-se, tôi tớ của
Chúa, truyền cho chúng những điều răn, qui tắc, và luật pháp.
15. Từ các từng trời, Chúa ban cho chúng bánh đặng ăn đói, khiến hòn đá chảy ra
nước cho chúng uống khát, phán biểu chúng vào nhận lấy xứ mà Chúa đã thề ban cho
chúng.
16. Nhưng tổ phụ chúng tôi cư xử cách kiêu hãnh cứng cổ mình, không nghe các
điều răn của Chúa,
17. chẳng khứng vâng theo và không nhớ đến các phép lạ mà Chúa đã làm giữa
chúng; nhưng chúng cứng cổ mình, và trong sự bội nghịch mình cắt một kẻ làm đầu
đặng trở về nơi nô lệ của họ. Nhưng Chúa vốn một Ðức Chúa Trời sẵn tha thứ, hay
làm ơn, và thương xót, chậm nóng giận, và dư đầy nhân từ, Chúa không có lìa bỏ
chúng.
18. Dẫu khi chúng làm một con bò con đực, mà rằng: Nấy là thần đã dẫn các ngươi
lên khỏi Ê-díp-tô, và chọc cho Chúa giận nhiều,
19. thì Chúa vì sự thương xót của Chúa, không lìa bỏ chúng trong đồng vắng; trụ
mây dẫn đường ban ngày, không lìa khỏi trên chúng, hoặc trụ lửa lúc ban đêm
chiếu sáng và chỉ cho chúng con đường chúng phải đi.
20. Chúa cũng ban cho chúng Thần linh lương thiện của Chúa, để dạy dỗ cho chúng,
không từ chối cho miệng chúng ăn ma-na, và ban cho chúng nước đặng uống khát.
21. Phải, Chúa nuôi dưỡng chúng bốn mươi năm trong đồng vắng: chúng chẳng thiếu
thốn chi cả; quần áo chúng không cũ rách, và chơn chúng chẳng phù lên.
22. Vả lại, Chúa ban cho chúng những nước và dân tộc, và phân phát nước ấy cho
chúng; chúng nhận được nước của Si-hôn, tức nước của vua Hết-bôn, và nước của
Óc, vua Ba-san.
23. Chúa cũng thêm nhiều con cháu chúng đông như sao trên trời, đưa chúng vào xứ
mà Chúa đã phán cùng tổ phụ chúng rằng chúng sẽ vào đó đặng nhận lấy xứ ấy.
24. ậy, con cháu chúng bèn vào nhận lấy xứ, và Chúa bắt phục trước mặt họ các
dân của xứ, là dân Ca-na-an, phó dân ấy và những vua chúng nó cùng các dân tộc
của xứ vào tay họ, đặng họ đãi các dân ấy theo ý mình muốn.
25. Họ chiếm lấy những thành bền vững, và ruộng đất mầu mỡ, được những nhà đầy
các vật tốt lành, nhưng giếng đào, vườn nho, vườn ô-li-ve, và cây trái rất
nhiều; chúng ăn, bèn được no nê, và mập béo, vui lòng trong sự nhân từ lớn lao
của Chúa.
26. Dầu vậy, chúng chẳng vâng theo, bèn phản nghịch với Chúa, ném bỏ luật pháp
Chúa sau lưng, giết các đấng tiên tri của Chúa, là người làm chứng nghịch cùng
họ đặng đem họ trở lại cùng Chúa; song chúng lại chọc giận Chúa nhiều thay.
27. Vì vậy, Chúa phó họ vào tay cừu địch của họ; chúng nó hà hiếp họ. Trong thời
hoạn nạn chúng kêu cầu cùng Chúa, thì từ các từng trời Chúa có nghe đến; theo
lòng nhân từ lớn lao của Chúa, Chúa bèn ban cho những đấng giải cứu để cứu chúng
khỏi tay kẻ cừu địch mình.
28. Nhưng khi chúng được an tịnh, bèn khởi làm lại điều ác trước mặt Chúa; vì
vậy, Chúa bỏ chúng vào tay kẻ thù nghịch để quản hạt chúng; song khi chúng trở
lại, kêu cầu cùng Chúa, thì Chúa từ trên trời nghe đến, và vì lòng thương xót
Chúa, nên giải cứu chúng nhiều lần.
29. Chúa cũng làm chứng nghịch cùng chúng, để dẫn dắt chúng trở lại luật pháp
của Ngài. Dầu vậy, chúng cư xử cách kiêu ngạo không nghe các điều răn Chúa, phạm
đến luật lệ của Chúa, là luật lệ nếu người nào vâng làm theo, tất sẽ được sống;
chúng ở chấp nhất, cứng cổ mình, và không khứng nghe theo.
30. Chúa dung thứ chúng nhiều năm và cậy Thần linh và các tiên tri của Chúa mà
làm chứng nghịch cùng chúng; nhưng chúng không lắng tai nghe, nên Chúa phó chúng
vào tay dân tộc của các xứ.
31. Song, vì lòng thương xót lớn lao của Chúa, Chúa không có tận diệt chúng,
cũng không lìa bỏ chúng; vì Chúa vốn là Ðức Chúa Trời hay thương xót và nhơn từ.
32. Vậy bây giờ, hỡi Ðức Chúa Trời của chúng tôi ơi! là Ðức Chúa Trời rất lớn
rất quyền năng và đáng sợ, xin chớ coi nhỏ mọn trước mặt Chúa các việc đau đớn
cực nhọc đã giáng trên chúng tôi, trên các vua và các quan trưởng, trên những
thầy tế lễ và các tiên tri, trên tổ phụ chúng tôi, và trên hết thảy dân sự của
Chúa, từ đời các vua A-si-ri cho đến ngày nay.
33. Trong mọi việc đã xảy đến cho chúng tôi, Chúa vẫn là công bình; vì Chúa thi
hành cách chơn thật, còn chúng tôi lại làm cách hung ác.
34. Các vua chúng tôi, các quan trưởng, những thầy tế lễ, và tổ phụ chúng tôi,
không có gìn giữ luật pháp của Chúa, cũng chẳng nghe theo các điều răn và chứng
cớ mà Chúa phán dạy nghịch cùng chúng.
35. Tại trong xứ của chúng, giữa đều ơn lành dư dật mà Chúa đã ban cho chúng,
tại trong đất rộng rãi và màu mỡ mà Chúa đã đặt trước mặt chúng, chúng không
phục sự Chúa, chẳng trở bỏ các công việc ác của họ.
36. Kìa, ngày nay chúng tôi làm tôi mọi; này chúng tôi làm tôi trong xứ để ăn
bông trái và thổ sản tốt tươi của nó.
37. Xứ sanh ra nhiều thổ sản cho các vua mà Chúa đã lập trên chúng tôi tại cớ
tội lỗi của chúng tôi: các vua ấy cũng tự ý mình lấn lướt trên thân thể chúng
tôi và các súc vật của chúng tôi, và chúng tôi đương bị hoạn nạn lớn.
38. Dầu các sự này, chúng tôi lập giao ước chắc chắn, và chúng tôi ghi chép nó
các quan trưởng, người Lê-vi, và những thầy tế lễ của chúng tôi đóng ấn cho.
Nê-hê-mi 10
chọn đoạn khác
1. Nầy là tên của các người có đóng dấu mình trong giao ước ấy: Nê-hê-mi, làm
quan tổng trấn, là con trai của Ha-ca-lia, và Sê-đê-kia,
2. Sê-ra-gia, A-xa-ria, Giê-rê-mi,
3. Pha-su-rơ, A-ma-ria, Manh-ki-gia,
4. Hát-tút, Sê-ba-nia, Ma-lúc,
5. Ha-rim, Mê-rê-mốt, Áp-đia,
6. Ða-ni-ên, Ghi-nê-thôn, Ba-rúc,
7. Mê-su-lam, A-bi-gia, Mi-gia-min,
8. Ma-a-xia, Binh-gai, Sê-ma-gia; ấy là những thầy tế lễ.
9. Những người Lê-vi là: Giê-sua, con trai của A-xa-nia; Bin-nui, con trai của
Hê-na-đát; Cát-mi-ên,
10. và các anh em của họ, Sê-ba-nia, Hô-di-gia, Kê-li-ta, Bê-la-gia, Ha-nan,
11. Mi-chê, Rê-hốp, Ha-sa-bia,
12. Xác-cua, Sê-rê-bia, Sê-ba-nia,
13. Hô-đia, Ba-ni, và Bê-ni-nu.
14. Các quan trưởng của dân sự là: Pha-rốt, Pha-ba-Mô-áp, Ê-lam, Xát-tu, Ba-ni,
15. Bu-ni, A-gát, Bê-bai,
16. A-đô-ni-gia, Biết-vai, A-đin,
17. A-te, Ê-xê-chia, A-xu-rơ,
18. Hô-đia, Ha-sum, Bết-sai,
19. Ha-ríp, A-na-tốt, Ni-bai,
20. Mác-bi-ách, Mê-su-lam, Hê-xia,
21. Mê-sê-xa-bê-ên, Xa-đốc, Gia-đua,
22. Phê-la-tia, Ha-nan, A-na-gia,
23. Ô-sê, Ha-na-nia, Ha-súp,
24. Ha-lô-hết, Bi-la, Sô-béc,
25. Rê-hum, Ha-sáp-na, Ma-a-xê-gia,
26. A-hi-gia, Ha-nan, A-nan,
27. Ma-lúc, Ha-rim, và Ba-a-na.
28. Dân sự còn sót lại, những thầy tế lễ, người Lê-vi, kẻ canh giữ cửa, kẻ ca
hát, người Nê-thi-nim, các người đã chia rẽ cùng các dân tộc của xứ đặng theo
luật pháp của Ðức Chúa Trời, và vợ, con trai, con gái của họ, tức các người có
sự tri thức và sự thông sáng,
29. đều hiệp theo các anh em và các tước vị của mình, mà thề hứa đi theo luật
pháp của Ðức Chúa Trời đã cậy Môi-se, tôi tớ Ngài ban cho, và gìn giữ làm theo
các điều răn của Ðức Giê-hô-va, là Chúa chúng tôi, cùng lệ luật và phép tắc của
Ngài.
30. Chúng tôi hứa không gả các con gái chúng tôi cho dân tộc của xứ, và chẳng
cưới con gái chúng nó cho con trai chúng tôi;
31. lại hứa rằng nếu trong ngày sa bát hay ngày thánh nào, dân của xứ đem hoặc
những hóa vật, hoặc các thứ lương thực đặng bán cho, thì chúng tôi sẽ chẳng mua;
và qua năm thứ bảy, chúng tôi sẽ để cho đất hoang, và chẳng đòi nợ nào hết.
32. Chúng tôi cũng định lấy lệ buộc chúng tôi mỗi năm dâng một phần ba siếc-lơ
dùng về các công việc của đền Ðức Chúa Trời chúng tôi,
33. về bánh trần thiết, về của lễ chay thường dâng, về của lễ thiêu hằng hiến,
về của lễ dâng trong ngày sa-bát, trong ngày mồng một, và trong các ngày lễ
trọng thể, lại dùng về các vật thánh, về của lễ chuộc tội cho dân Y-sơ-ra-ên, và
về các công việc làm trong đền Ðức Chúa Trời của chúng tôi.
34. Chúng tôi, là những thầy tế lễ, người Lê-vi, và dân sự khác, bắt thăm về
việc dâng củi lửa, đặng mỗi năm, theo kỳ nhất định, tùy nhà tổ phụ mình, mà đem
những củi đến đền của Ðức Chúa Trời chúng tôi, hầu cho đốt trên bàn thờ của
Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của chúng tôi, y như đã chép trong luật pháp vậy.
35. Chúng tôi cũng định mỗi năm đem vật đầu mùa của đất chúng tôi, và các thứ
trái đầu mùa của các cây chúng tôi đến đền của Ðức Giê-hô-va;
36. lại chiếu theo luật pháp, đem luôn con đầu lòng trong vòng các con trai
chúng tôi, và con đầu lòng của súc vật chúng tôi, hoặc chiên hay bò, đến đền thờ
Ðức Chúa Trời chúng tôi mà giao cho những thầy tế lễ hầu việc trong đền của Ðức
Chúa Trời chúng tôi.
37. Chúng tôi cũng hứa đem của đầu mùa về bột nhồi của chúng tôi, về của lễ giơ
lên, bông trái của các thứ cây, rượu mới, và dầu, mà giao cho những thầy tế lễ,
trong các kho tàng của đền Ðức Chúa Trời chúng tôi; còn một phần mười huê lợi
đất của chúng tôi thì đem nộp cho người Lê-vi; vì người Lê-vi thâu lấy một phần
mười trong thổ sản của ruộng đất về các thành chúng tôi.
38. Thầy tế lễ, con cháu của A-rôn, sẽ đi với người Lê-vi, khi họ thâu lấy thuế
một phần mười; rồi họ sẽ đem một phần mười của trong thuế một phần mười ấy đến
đền của Ðức Chúa Trời chúng tôi, để tại nơi phòng của kho tàng.
39. Vì dân Y-sơ-ra-ên và người Lê-vi sẽ đem các của lễ giơ lên bằng lúa mì,
rượu, và dầu mới vào trong những phòng ấy, là nơi có các khí dụng của đền thánh,
những thầy tế lễ hầu việc, kẻ canh cửa và những người ca hát. Vậy, chúng tôi sẽ
chẳng lìa bỏ đền của Ðức Chúa Trời chúng tôi đâu.
Nê-hê-mi 11
chọn đoạn khác
1. Các quan trưởng của dân sự đều ở tại Giê-ru-sa-lem còn dân sự khác thì bắt
thăm để cho một trong mười người của chúng đến ở tại Giê-ru-sa-lem, là thành
thánh, và chín người kia thì ở trong các thành khác.
2. Dân sự chúc phước cho các người nam nào tình nguyện ở tại Giê-ru-sa-lem.
3. Vả, đây là những quan trưởng hàng tỉnh ở tại Giê-ru-sa-lem; nhưng trong các
thành Giu-đa, ai nấy đều ở trong đất mình tại trong bổn thành của mình: ấy là
dân Y-sơ-ra-ên, những thầy tế lễ, người Lê-vi, người Nê-thi-nim, và con cháu của
các tôi tớ Sa-lô-môn.
4. Có mấy người Giu-đa và người Bên-gia-min ở tại Giê-ru-sa-lem. Về người Giu-đa
có A-tha-gia, con trai của U-xia, cháu của Xa-cha-ri, chắt của A-ma-ria, chít
của Sê-pha-tia; Sê-pha-tia là con trai của Ma-ha-la-lên, thuộc về dòng dõi
Phê-rết;
5. lại có Ma-a-sê-gia, con trai của Ba-rúc, cháu của Côn-Hô-xê, chắt của
Ha-xa-gia, chít của A-đa-gia; A-đa-gia là con trai của Giô-gia-ríp, cháu của
Xa-cha-ri về dòng dõi Si-lô-ni.
6. Các con cháu của Phê-rết ở tại Giê-ru-sa-lem là bốn trăm sáu mươi tám người
mạnh dạn.
7. Về người Bên-gia-min có Sa-lu, con trai của Mê-su-lam, cháu của Giô-ết, chắt
của Phê-đa-gia, chít của Cô-la-gia; Cô-la-gia là con trai của Ma-a-sê-gia, cháu
của Y-thi-ên, chắt của Ê-sai;
8. và sau người có Gáp-bai, và Sa-lai cùng chín trăm hai mươi tám người.
9. Giô-ên, con trai của Xiếc-ri, làm quan trưởng của chúng; còn Giu-đa, con trai
của Ha-sê-nua, làm phó quản thành.
10. Trong những thầy tế lễ có Giê-đa-gia, con trai của Giô-gia-ríp, Gia-kin,
11. và Sê-ra-gia, con trai của Hinh-kia, cháu của Mê-su-lam, chít của
Mê-ra-giốt; Mê-ra-giốt là con trai của A-hi-túp, là quản lý đền của Ðức Chúa
Trời,
12. cùng các anh em họ làm công việc của đền, là tám trăm hai mươi hai người.
Lại có A-đa-gia, con trai của Giê-rô-ham, cháu của Phê-la-lia, chắt của Am-si,
chít của Xa-cha-ri; Xa-cha-ri là con trai của Pha-su-rơ, cháu của Manh-ki-gia,
13. cùng các anh em họ, đều là trưởng tộc, số là hai trăm bốn mươi hai người.
Cũng có A-ma-sai, con trai của A-xa-rên, cháu của Ạc-xai, chắt của Mê-si-lê-mốt,
chít của Y-mê,
14. và các anh em họ, đều là người mạnh dạn và can đảm, số được một trăm hai
mươi tám người. Xáp-đi-ên, con trai của Ghê-đô-lim, làm quan trưởng của chúng.
15. Trong người Lê-vi có Sê-ma-gia, con trai của Ha-súp, cháu của A-ri-kham,
chắt của Ha-sa-bia, chít của Bun-ni;
16. trong các trưởng tộc người Lê-vi có Sa-bê-thai và Giô-xa-bát được cắt coi
sóc công việc ngoài của đền Ðức Chúa Trời;
17. còn Mát-ta-nia, con trai của Mi-chê, làm đầu về việc hát lời khen ngợi trong
lúc cầu nguyện, cùng Bác-bi-ki, là người thứ nhì trong anh em mình, và Áp-đa con
trai của Sa-mua, cháu của Xáp-đi, chắt của Giê-đu-thun.
18. Hết thảy người Lê-vi ở trong thành thánh, được hai trăm tám mươi bốn người.
19. Những kẻ canh giữ cửa, là A-cúp, Tanh-môn, và các anh em họ, được một trăm
bảy mươi hai người.
20. Các người Y-sơ-ra-ên khác, những thầy tế lễ, và người Lê-vi, đều ở trong các
thành của xứ Giu-đa, mỗi người trong cơ nghiệp mình.
21. Người Nê-thi-nim đều ở tại Ô-phên; Xi-ha và Ghít-ba làm quan trưởng của
người Nê-thi-nim.
22. U-xi, con trai của Ba-ni, cháu của Ha-sa-bia, chắt của Mát-ta-nia, chít của
Mi-chê về dòng dõi A-háp, là kẻ ca hát, được đặt cai tri người Lê-vi tại
Giê-ru-sa-lem, lo làm công việc của đền Ðức Chúa Trời.
23. Vì có lịnh vua truyền về việc của chúng, và có một phần lương định cấp cho
những kẻ ca hát, ngày nào cần dùng theo ngày nấy.
24. Phê-tha-hia, con trai của Mê-sê-xa-bê-ên, về dòng Xê-ra, là con của Giu-đa,
giúp vua cai trị mọi việc dân.
25. Còn về các hương thôn và đồng ruộng của nó, có mấy người Giu-đa ở tại
Ki-ri-át-A-ra-ba, và trong các làng nó, tại Ði-bôn và các làng nó, tại
Giê-cáp-xê-ên và các làng nó,
26. tại Giê-sua, Mô-la-đa, Bết-phê-lê,
27. Hát-sa-Su-anh, Bê-e-sê-ba và trong các làng nó,
28. tại Xiếc-lạc, Mê-cô-na và trong các làng nó,
29. tại Ên-rim-môn, Xô-ra Giạt-mút,
30. tại Xa-nô-a, A-đu-lam và các làng nó; tại trong La-ki và các đồng ruộng nó,
trong A-sê-ca và các làng nó. Vậy chúng ở từ Bê-e-sê-ba cho đến trũng Hin-nôm.
31. Người Bên-gia-min cũng ở từ Ghê-ba cho đến Mích-ma, A-gia, Bê-tên và các
làng nó;
32. và ở tại A-na-tốt, Nốp, A-ta-nia,
33. Hát-so, Ra-ma, Ghi-tha-im,
34. Ha-đít, Sê-bô-im, Nê-ba-lát,
35. Lô-đơ, và Ô-nơ, tức là trũng của các thợ.
36. Từ trong các người Lê-vi có mấy ban ở Giu-đa hiệp với Bên-gia-min.
Nê-hê-mi 12
chọn đoạn khác
1. Ðây là những thầy tế lễ và người Lê-vi, theo Xô-rô-ba-bên, con trai của
Sa-la-thi-ên, và Giê-sua, mà đi lên: Sê-ra-gia, Giê-rê-mi, E-sơ-ra,
2. A-ma-ria, Ma-lúc, Ha-túc,
3. Sê-ca-nia, Rê-hum, Mê-rê-mốt,
4. Y-đô, Ghi-nê-thôi, A-bi-gia,
5. Mi-gia-min, Ma-a-đia, Binh-ga,
6. Sê-ma-gia, Giô-gia-ríp, Giê-đa-gia,
7. Sa-lu, A-móc, Hinh-kia, và Giê-đa-gia. Ðó là quan trưởng của những thầy tế lễ
và anh em của họ trong đời Giê-sua.
8. Những người Lê-vi là: Giê-sua, Bin-nui, Cát-mê-ên, Sê-rê-bia, Giu-đa, và
Mát-tai-nia, là người với anh em mình coi sóc việc hát khen ngợi.
9. Lại có Bác-bu-kia, U-ni, cùng các anh em mình; họ thay đổi phiên nhau trong
công việc mình.
10. Giê-sua sanh Giô-gia-kim; Giô-gia-kim sanh Ê-li-a-síp; Ê-li-a-síp sanh
Giô-gia-đa;
11. Giô-gia-đa sanh Giô-na-than, Giô-na-than sanh Gia-đua.
12. Nầy là trưởng tộc của những thầy tế lễ, trong đời Giô-gia-kim: về họ
Giê-rê-mi, Ha-na-nia;
13. về họ E-xơ-ra, Mê-su-lam; về họ A-ma-ria, Giô-ha-nan;
14. về họ Mê-lu-ki, Giô-na-than;
15. về họ Sê-ba-nia, Giô-sép; về họ Ha-rim, Át-na; về họ Mê-ra-giốt; Hên-cai;
16. ve họ Y-đô, Xa-cha-ri; về họ Ghi-nê-thôn, mê-su-lam;
17. về họ A-bi-gia, Xiếc-ri; về họ Min-gia-min và Mô-đa-đia, Phinh-tai;
18. về họ Binh-ga, Sa-mua; về họ Sê-ma-gia, Giô-na-than;
19. về họ Giô-gia-ríp, Mát-tê-nai; về họ Giê-đa-gia, U-xi;
20. về họ Sa-lai, Ca-lai; về họ A-móc, Ê-be;
21. về họ Hinh-kia Ha-sa-bia; về họ Giê-đa-gia, Nê-tha-nê-ên.
22. Về người Lê-vi, các trưởng tộc của họ đã biên tên vào sổ trong đời của
Ê-li-a-síp, Giô-gia-đa, Giô-ha-nan, và Gia-đua; còn những thầy tế lễ, thì biên
tên vào sổ trong đời Ða-ri-út, nước Phe-rơ-sơ.
23. Các trưởng tộc của người Lê-vi có ghi tên vào sách sử ký cho đến đời
Giô-ha-nan, con trai của Ê-li-a-síp.
24. Các trưởng tộc của người Lê-vi: Ha-sa-bia, Sê-rê-bia, và Giê-sua, con trai
của Cát-mi-ên, và các anh em người ứng đối nhau, từng ban từng thứ, đặng ngợi
khen và cảm tạ, tùy theo lịnh của Ða-vít, người của Ðức Chúa Trời.
25. Mát-ta-nia, Bác-bu-kia, Ô-ba-đia, Mê-su-lam, Tanh-môn và A-cúp, là kẻ canh
giữ cửa, giữ các kho bên cửa thành.
26. Các người này ở về đời Giô-gia-kim, con trai của Giê-sua, cháu Giô-xa-đác,
về đời Nê-hê-mi, quan tổng trấn, và về đời E-xơ-ra, làm thầy tế lễ và văn sĩ.
27. Khi khánh thành các vách thành Giê-ru-sa-lem, thì người ta sai gọi các người
Lê-vi ở khắp mọi nơi, đặng đem chùng về Giê-ru-sa-lem, để dự lễ khánh thành cách
vui vẻ, có tiếng khen ngợi và ca hát theo chập chỏa, đờn cầm, và đờn sắt.
28. Các người ca hát đều hiệp lại, từ đồng bằng xung quanh Giê-ru-sa-lem, các
làng người Nê-tô-pha-tít;
29. lại từ Bết-ghinh-ganh, từ đồng bằng Ghê-ba và Ách-ma-vết; vì những người ca
hát đã xây cho mình các làng ở chung quanh thành Giê-ru-sa-lem.
30. Những thầy tế lễ và người Lê-vi dọn mình cho thánh sạch, cũng dọn cho thánh
sạch dân sự, các cửa và vách thành.
31. Bấy giờ, tôi biểu các quan trưởng Giu-đa lên trên vách thành, rồi phân làm
hai tốp lớn kéo nhau đi để cảm tạ; một tốp đi về phía hữu trên vách thành, tới
cửa Phân.
32. Sau chúng có Hô-sa-gia, và phân nửa số các quan trưởng Giu-đa,
33. cùng A-xa-ria, E-xơ-ra, Mê-su-lam, Giu-đa, Bên-gia-min,
34. Sê-ma-gia, Giê-rê-mi,
35. và mấy con trai của những thầy tế lễ cầm kèn: Xa-cha-ri, con trai của
Giô-na-than, cháu của Sê-ma-gia, cháu của Mát-ta-nia, chít của Mi-chê; Mi-chê là
con trai của Xác-cua, cháu của A-sáp,
36. cùng các anh em người, là Sê-ma-gia, A-xa-rên, Mi-ta-lai, Ghi-la-lai, Ma-ai,
Nê-tha-nê-ên, Giu-đa, và Ha-na-ni, cầm những nhạc khí của Ða-vít, người của Ðức
Chúa Trời; và E-xơ-ra, người văn sĩ, đi ở đằng trước chúng.
37. Từ cửa Suối, ở ngay mặt, chúng đi thẳng lên các nấc thành Ða-vít, tại nơi
đốc vách thành ở trên đền Ða-vít, và đến cửa Nước về phía đông.
38. Còn tốp cảm tạ thứ nhì đi trên vách thành đối ngang lại với tốp thứ nhất,
còn tôi đi ở sau họ với phân nửa dân sự, từ tháp các Lò cho đến vách rộng,
39. đi qua trên cửa Ép-ra-im, gần bên cửa Cũ, cửa Cá, tháp Ha-na-nê-ên, và tháp
Mê-a, đến cửa Chiên. Chúng dừng lại tại cửa Ngục.
40. Ðoạn, hai tốp cảm tạ dừng lại trong đền Ðức Chúa Trời, tôi và phân nửa quan
trưởng theo tôi cũng làm vậy,
41. và những thầy tế lễ cầm kèn, là Ê-lê-a-kim, Ma-a-sê-nai, Min-gia-min,
Mi-chê, Ê-li-ô-ê-nai, Xa-cha-ri, và Ha-na-nia;
42. lại có Ma-a-sê-gia, Sê-ma-gia, Ê-lê-a-xa, U-xi, Giô-ha-nan, Manh-ki-gia,
Ê-lam, và Ê-xe. Những kẻ ca hát tiếng lớn, có Dít-ra-bia dẫn dắt.
43. Trong ngày đó, chúng dâng những của lễ trọng thể và vui vẻ; vì Ðức Chúa Trời
đã khiến cho chúng vui mừng khắp khởi; các người đờn bà và con trẻ cũng vui mừng
nữa; sự vui mừng của thành Giê-ru-sa-lem vang ra rất xa.
44. Trong ngày đó, người ta lập kẻ coi sóc các phóng kho tàng về của lễ dâng giơ
lên, về của đầu mùa, về thuế một phần mười, đặng thâu vào nó, tùy theo đồng của
các thành, phần của những thầy tế lễ và người Lê-vi, mà luật pháp đã chỉ định;
vì Giu-đa vui mừng nhơn những thầy tế lễ và người Lê-vi đứng hầu việc.
45. Chúng luôn với những kẻ ca hát và kẻ giữ cửa đều giữ trách nhiệm của Ðức
Chúa Trời, và việc dọn mình thánh sạch, tùy theo mạng lịnh của Ða-vít và
Sa-lô-môn, con trai người.
46. Vì ngày xưa, về đời Ða-vít và A-sáp, có những quan trưởng coi sóc những kẻ
ca hát, và có bài hát khen ngợi cảm tạ Ðức Chúa Trời.
47. Trong đời Xô-rô-ba-bên và Nê-hê-mi, cả Y-sơ-ra-ên đều cấp phần cho kẻ ca hát
và người canh giữ cửa, ngày nào cần dùng theo ngày nấy; cũng để riêng phần của
người Lê-vi, và người Lê-vi để riêng phần của con cháu A-rôn.
Nê-hê-mi 13
chọn đoạn khác
1. Trong ngày đó, người ta đọc sách Môi-se có dân sự nghe; trong đó có chép rằng
người Am-môn và người Mô-áp đời đời không được vào hội của Ðức Chúa Trời,
2. bởi vì chúng nó không đem bánh và nước đến đón dân Y-sơ-ra-ên, song dùng bạc
thỉnh Ba-la-am đến rủa sả dân Y-sơ-ra-ên (nhưng Ðức Chúa Trời chúng tôi đổi sự
rủa sả ra sự phước hạnh).
3. Xảy khi chúng đã nghe luật pháp rồi, bèn phân rẽ khỏi Y-sơ-ra-ên các dân
ngoại bang.
4. Vả, trước việc đó, thầy tế lễ Ê-li-a-síp, mà đã được lập coi sóc các phòng
của đền Ðức Chúa Trời chúng tôi,
5. và là bà con với Tô-bi-gia, có sắm sửa cho người ấy một cái phòng lớn, là nơi
trước người ta dùng để những của lễ chay, hương liệu, khí dụng, thuế một phần
mười về lúa mì, rượu mới, và dầu, tức những vật theo lệ đã định cho người Lê-vi,
kẻ ca hát, và người canh giữ cửa, luôn với của lễ dâng giơ lên của thầy tế lễ.
6. Khi các điều đó xảy đến thì không có tôi ở tại Giê-ru-sa-lem; vì nhằm năm thứ
ba mươi hai đời Ạt-ta-xét-xe, vua Ba-by-lôn, tôi mắc phải trở về cùng vua; cuối
một ít lâu, tôi có xin phép vua đặng đi.
7. Tôi đến Giê-ru-sa-lem, bèn hiểu điều ác mà Ê-li-a-síp vì Tô-bi-gia đã làm ra,
vì có sắm sửa cho người một cái phòng trong hành lang của đền Ðức Chúa Trời.
8. Tôi thấy điều đó lấy làm cực tệ, nên quăng ra khỏi phòng ấy các vật dụng của
nhà Tô-bi-gia.
9. Ðoạn, tôi biểu người ta dọn cái phòng ấy cho sạch sẽ; kẻ ấy tôi đem vào lại
các khí dụng của đền Ðức Chúa Trời, của lễ chay và hương liệu.
10. Tôi cũng hay rằng người ta không có cấp các phần của người Lê-vi cho họ; vì
vậy, những kẻ ca hát và người Lê-vi hầu việc, ai nấy đều đã trốn về đồng ruộng
mình.
11. Tôi bèn quở trách các quan trưởng, mà rằng: Cớ sao đền của Ðức Chúa Trời bị
bỏ như vậy? Ðoạn, tôi hiệp lại chúng mà đặt họ trong chức cũ mình.
12. Bấy giờ, cả Giu-đa đều đem đến trong kho thuế một phần mười về lúa mì, rượu
mới, và dầu.
13. Tôi đặt Sê-lê-mia, thầy tế lễ Xa-đốc, ký lục, và Phê-đa-gia trong các người
Lê-vi, coi các kho tàng; còn Ha-nan, con trai của Xác-cua, cháu Mát-ta-nia, làm
phó; các người ấy được kể là trung thành, và bổn phận chúng là phân phát vật cho
anh em mình.
14. Ðức Chúa Trời tôi ôi! vì cớ điều này, xin nhớ đến tôi, và chớ bôi xóa các
việc tốt lành mà tôi đã làm vì đền của Ðức Chúa Trời tôi và về điều phải gìn giữ
tại đó.
15. Về lúc đó, tôi thấy trong Giu-đa, mấy người ép nho nơi máy ép rượu nhằm ngày
sa-bát, đem bó lúa mình vào, chở nó trên lừa, và cũng chở rượu, trái nho, trái
vả, và các vật nặng, mà đem về Giê-ru-sa-lem trong ngày sa-bát. Ngày chúng nó
bán vật thực ấy, tôi có làm chứng nghịch cùng chúng nó.
16. Cũng có người Ty-rơ ở tại đó, đem cá và các thứ hàng hóa đến bán cho người
Giu-đa và tại thành Giê-ru-sa-lem trong ngày sa-bát.
17. Bấy giờ tôi quở trách các người tước vị Giu-đa, mà rằng: Việc xấu xa các
ngươi làm đây là chi, mà làm cho ô uế ngày sa-bát?
18. Tổ phụ các ngươi há chẳng đã làm như vậy sao? Nên nỗi Ðức Chúa Trời há chẳng
có dẫn tai họa kia đến trên chúng ta và trên thành này ư? Còn các ngươi làm ô uế
ngày sa-bát mà tăng thêm cơn thạnh nộ cho Y-sơ-ra-ên!
19. Ấy vậy, khi các cửa Giê-ru-sa-lem khởi khuất trong bóng tối trước ngày
sa-bát, tôi bèn truyền người ta đóng cửa lại và dặn biểu chúng nó chỉ mở nó ra
sau ngày sa-bát; lại cắt đặt mấy kẻ trong đầy tớ tôi giữ cửa để không ai gánh
chở đồ vào thành trong ngày sa-bát.
20. Vậy, kẻ buôn người bán các thứ hàng hóa một hai lần ban đêm phải ngủ ở ngoài
thành Giê-ru-sa-lem.
21. Ðoạn, tôi quở trách chúng nó mà rằng: Cớ sao các ngươi ban đêm ngủ tại trước
vách thành như vậy? Nếu các ngươi còn làm nữa, tất cả sẽ tra tay trên các ngươi.
Từ lúc đó về sau, chúng nó không có đến nhằm ngày sa-bát nữa.
22. Tôi dạy biểu người Lê-vi và đến canh giữ các cửa, đặng biệt ngày sa-bát ra
thánh. Hỡi Ðức Chúa Trời tôi ôi! xin hãy vì tôi nhớ đến điều đó, và xin thương
xót tôi tùy sự nhân từ lớn lao của Ngài.
23. Cũng trong lúc đó, tôi thấy những người Giu-đa lấy đờn bà Ách-đốt, Am-môn,
và Mô-áp, làm vợ;
24. con cái của chúng nó nói phần nửa tiếng Ách-đốt, không biết nói tiếng
Giu-đa, nhưng nói tùy theo tiếng của dân này hay là dân kia.
25. Tôi quở trách chúng nó, rủa sả chúng nó, đánh đập một vài người trong chúng
nó, nhổ tóc chúng nó biểu chúng nó chỉ Ðức Chúa Trời thề, mà rằng: Các ngươi sẽ
không gả con gái mình cho con trai họ, hay là cưới con gái họ cho con trai mình,
hoặc là cưới cho chánh mình các ngươi!
26. Sa-lô-môn, vua Y-sơ-ra-ên há chẳng có phạm tội trong điều đó sao? Vả, trong
nhiều dân tộc không có một vua nào giống như người; người được Ðức Chúa Trời đặt
người làm vua trên cả Y-sơ-ra-ên: dẫu vậy, người cũng bị đờn bà ngoại bang xui
cho phạm tội!
27. Chúng ta há sẽ nghe theo các ngươi mà làm những điều ác lớn này, lấy người
đờn bà ngoại bang mà vi phạm cùng Ðức Chúa Trời chúng ta sao?
28. Có một trong các con trai của Giô-gia-đa, cháu Ê-li-a-síp, thầy tế lễ thượng
phẩm, là rể của San-ba-lát, người Hô-rôn; vì cớ ấy tôi đuổi hắn khỏi tôi.
29. Hỡi Ðức Chúa Trời tôi ôi! xin nhớ lại chúng nó, vì chúng nó đã làm ô uế chức
tế lễ và sự giao ước của chức tế lễ và của người Lê-vi.
30. Như vậy, tôi dọn sạch chúng cho khỏi các kẻ ngoại bang, và định ban thứ cho
những thầy tế lễ và người Lê-vi, mỗi người trong chức việc mình;
31. cũng khiến dân sự dâng củi theo kỳ nhất định và các thổ sản đầu mùa. Ðức
Chúa Trời tôi ôi, xin hãy nhớ đến tôi mà làm ơn cho tôi!