[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22] [23] [24] [25] [26] [27] [28] [29] [30] [31] [32] [33] [34] [35] [36] [37] [38] [39] [40] [41] [42]
Gióp 1
chọn
đoạn khác
1. Tại trong xứ Út-xơ có một người tên là Gióp; người ấy vốn trọn vẹn và ngay
thẳng; kính sợ Đức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác.
2. Người sanh được bảy con trai và ba con gái;
3. có bảy ngàn chiên, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi ḅ, năm trăm lừa cái, và tôi
tớ rất nhiều; người ấy lớn hơn hết trong cả dân Đông phương.
4. Các con trai người hay đi dự tiệc, đăi thay phiên nhau trong nhà của mỗi
người; và sai mời ba chị em gái ḿnh ăn uống chung với ḿnh.
5. Xảy khi các ngày yến tiệc xong rồi, Gióp sai người đi dọn các con cái ḿnh
cho thanh sạch, thức dậy sớm, dâng của lễ thiêu tùy số nó; v́ người nói rằng: Dễ
thường các con ta có phạm tội, và trong ḷng từ chối Đức Chúa Trời chăng. Gióp
hằng làm như vậy.
6. Vả, một ngày kia các con trai của Đức Chúa Trời đến ra mắt Đức Giê-hô-va, và
Sa-tan cũng đến trong ṿng chúng.
7. Đức Giê-hô-va phán hỏi Sa-tan rằng: Ngươi ở đâu đến? Sa-tan thưa với Đức
Giê-hô-va rằng: Tôi trải qua đây đó trên đất và dạo chơi tại nơi nó.
8. Đức Giê-hô-va lại hỏi Sa-tan rằng: Ngươi có nh́n thấy Gióp, tôi tớ của ta
chăng; nơi thế gian chẳng có người nào giống như nó, vốn trọn vẹn và ngay thẳng,
kính sợ Đức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác?
9. Sa-tan thưa với Đức Giê-hô-va rằng: Gióp há kính sợ Đức Chúa Trời luống công
sao?
10. Chúa há chẳng dựng hàng rào binh vực ở bốn phía người, nhà người, và mọi vật
thuộc về người sao? Chúa đă ban phước cho công việc của tay người và làm cho của
cải người thêm nhiều trên đất.
11. Nhưng bây giờ hăy giơ tay Chúa ra Chúa ra, đụng đến hại các vật người có, ắt
là người sẽ phỉ báng Chúa trước mặt.
12. Đức Giê-hô-va phán với Sa-tan rằng: Nầy, các vật người có đều phó trong tay
người; nhưng chớ tra tay vào ḿnh nó. Sa-tan bèn lui ra khỏi mặt Đức Giê-hô-va.
13. Xảy một ngày kia, khi các con trai và con gái người đương ăn và uống rượu
trong nhà anh cả chúng nó,
14. một sứ giả đến báo tin cho Gióp rằng: Ḅ đương cày, lừa đương ăn bên cạnh,
15. th́ dân Sê-ba xông vào chúng nó, đoạt cướp đi, và lấy lưỡi gươm giết các tôi
tớ; chỉ một ḿnh tôi thoát khỏi đặng báo tin cho ông.
16. Người nầy c̣n đương nói, th́ một người khác đến, báo rằng: Lửa của Đức Chúa
Trời từ trên trời giáng xuống thiêu đốt các con chiên và tôi tớ, làm tiêu hủy
chúng nó đi; chỉ một ḿnh tôi thoát khỏi đặng báo tin cho ông.
17. Người nầy c̣n đương nói, th́ một kẻ khác chạy đến, báo rằng: Dân Canh-đê
phân làm ba đạo, xông vào lạc đà, cướp đoạt đi, và lấy lưỡi gươm giết các tôi
tớ; chỉ một ḿnh tôi thoát khỏi đặng báo tin cho ông.
18. Người nầy c̣n đương nói, th́ một kẻ khác chạy đến, báo rằng: Các con trai và
con gái ông đương ăn uống tại nơi nhà anh cả của họ,
19. ḱa một ngọn gió lớn từ phía bên kia sa mạc thổi đến, làm cho bốn góc nhà
rung rinh, nhà sập xuống đè chết các người trẻ tuổi; chỉ một ḿnh tôi thoát khỏi
đặng báo tin cho ông.
20. Gióp bèn chổi dậy, xé áo ḿnh, và cạo đầu, đoạn xấp ḿnh xuống đất mà thờ
lạy,
21. và nói rằng: Tôi trần truồng lọt khỏi ḷng mẹ, và tôi cũng sẽ trần truồng mà
về; Đức Giê-hô-va đă ban cho, Đức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Đức
Giê-hô-va!
22. Trong mọi sự ấy, Gióp không phạm tội, và chẳng nói phạm thượng cùng Đức Chúa
Trời.
Gióp 2
chọn đoạn khác
1. Xảy ra một ngày kia, các con trai của Đức Chúa Trời đến ra mắt Đức Giê-hô-va,
Sa-tan cũng có đến trong ṿng chúng đặng ra mắt Đức Giê-hô-va.
2. Đức Giê-hô-va bèn phán hỏi Sa-tan rằng: Ngươi ở đâu đến? Sa-tan thưa cùng Đức
Giê-hô-va rằng: Tôi trải qua đây đó trên đất và dạo chơi tại nơi nó.
3. Đức Giê-hô-va lại phán hỏi Sa-tan rằng: Ngươi có nh́n thấy Gióp, tôi tớ ta
chăng? Trên đất chẳng có ai giống như người, vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ
Đức Chúa Trời, và lánh khỏi đều ác; lại người bền đỗ trong sự hoàn toàn ḿnh,
mặc dầu ngươi có giục ta phá hủy người vô cớ.
4. Sa-tan thưa lại với Đức Giê-hô-va rằng: Lấy da đền da, phàm vật chi một người
có, tất sẽ trao thế cho mạng sống ḿnh.
5. Nhưng bây giờ xin Chúa hăy giơ tay ra, đụng đến hại xương thịt người, ắt là
người sẽ phỉ báng Chúa trước mặt.
6. Đức Giê-hô-va phán với Sa-tan rằng: Ḱa, người ở trong tay ngươi; nhưng chỉ
hăy giữ mạng sống người.
7. Sa-tan bèn lui ra trước mặt Đức Giê-hô-va, hành hại Gióp một bịnh ung độc, từ
bàn chơn cho đến chót đầu.
8. Gióp lấy một miếng sành đặng găi ḿnh, và ngồi trong đống tro.
9. Vợ Gióp nói với người rằng: Ủa? Ông hăy c̣n bền đỗ trong sự hoàn toàn ḿnh
sao? Hăy phỉ báng Đức Chúa Trời, và chết đi!
10. Người đáp lại rằng: Ngươi nói như một người đờn bà ngu muội. Ủa sao! Sự
phước mà tay Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lănh lấy, c̣n sự tai họa
mà tay Ngài giáng trên chúng ta, lại chẳng lănh lấy sao? Trong mọi việc đó, Gióp
không phạm tội bởi môi miệng ḿnh.
11. Vả, khi ba bạn hữu của Gióp, là Ê-li-pha người Thê-man, Binh-đát người Su-a,
và Sô-pha người Na-a-ma, hay được các tai nạn đă xảy đến cho người, mỗi người
bèn hẹn nhau từ xứ ḿnh đi đến đặng chia buồn và an ủy người.
12. Ba bạn hữu ở xa ngước mắt lên th́ chẳng nhận biết người, bèn cất tiếng khóc,
mỗi người xé áo ḿnh, hất bụi lên trời mà văi trên đầu ḿnh.
13. Đoạn, ba bạn ngồi xuống đất với người trong bảy ngày đêm, chẳng ai nói một
lời với người, v́ thấy sự đau đớn người lớn lắm.
Gióp 3
chọn đoạn khác
1. Sau việc ấy, Gióp mở miệng rủa ngày sanh ḿnh.
2. Gióp bèn cất tiếng nói rằng:
3. Ngày ta đă sanh ra, khá hư mất đi; C̣n đêm đă nói rằng: Có được thai dựng một
con trai, hăy tiêu diệt đi!
4. Nguyện ngày ấy bị ra tăm tối! Nguyện Đức Chúa Trời từ trên cao chớ thèm kể
đến, Và ánh sáng đừng chiếu trên nó!
5. Chớ ǵ tối tăm và bóng sự chết nh́n nhận nó, Áng mây kéo phủ trên nó, Và nhựt
thực làm cho nó kinh khiếp.
6. Nguyện sự tối tăm mịt mịt hăm lấy đêm ấy; Chớ cho nó đồng lạc với các ngày
của năm; Đừng kể nó vào số của các tháng!
7. Phải, nguyện cho đêm ấy bị son sẻ; Tiếng vui cười chớ vang ra trong khoảng
nó!
8. Ai hay rủa sả ngày, và có tài chọc Lê-vi-a-than dậy, Hăy rủa sả nó!
9. Nguyện sao chạng vạng đêm ấy phải tối tăm; Nó mong ánh sáng, mà ánh sáng lại
chẳng có, Chớ cho nó thấy rạng đông mở ra!
10. Bởi v́ đêm ấy không bế cửa ḷng hoài thai ta, Chẳng có giấu sự đau đớn khỏi
mắt ta.
11. Nhân sao tôi chẳng chết từ trong tử cung? Nhân sao không tắt hơi khi lọt
ḷng mẹ.?
12. Cớ sao hai đầu gối đỡ lấy tôi, Và vú để cho tôi bú?
13. Bằng chẳng vậy, bây giờ ắt tôi đă nằm an tịnh, Được ngủ và nghỉ ngơi
14. Cùng các vua và mưu sĩ của thế gian, Đă cất ḿnh những lăng tẩm;
15. Hoặc với các quan trưởng có vàng, Và chất bạc đầy cung điện ḿnh.
16. Hoặc tôi chẳng hề có, như một thai sảo biệt tăm, Giống các con trẻ không
thấy ánh sáng.
17. Ở đó kẻ hung ác thôi rày rạc, Và các người mỏn sức được an nghỉ;
18. Ở đó những kẻ bị tù đồng nhau được b́nh tịnh, Không c̣n nghe tiếng của kẻ hà
hiếp nữa.
19. Tại nơi ấy nhỏ và lớn đều ở cùng nhau, Và kẻ tôi mọi được phóng khỏi ách chủ
ḿnh.
20. Cớ sao ban ánh sáng cho kẻ hoạn nạn, Và sanh mạng cho kẻ có ḷng đầy đắng
cay?
21. Người như thế mong chết, mà lại không được chết; Cầu thác hơn là t́m kiếm
bửu vật giấu kín;
22. Khi người ấy t́m được mồ mả, Th́ vui vẻ và nức ḷng mừng rỡ thay,
23. Người nào không biết đường ḿnh phải theo, Và bị Đức Chúa Trời vây bọc bốn
bên, sao lại được sự sống?
24. V́ trước khi ăn, tôi đă than siếc, Tiếng kêu vang tôi tuôn tôi như nước.
25. V́ việc tôi sợ hăi đă thấu đến tôi; Điều tôi kinh khủng lại xảy ra cho tôi.
26. Tôi chẳng được an lạc, chẳng được b́nh tịnh, chẳng được an nghỉ; Song nỗi
rối loạn đă áp đến!
Gióp 4
chọn đoạn khác
1. Bấy giờ, Ê-li-pha, người Thê-man đáp lời mà rằng:
2. Nếu người ta thử nói với ông, ông sẽ mất ḷng chăng? Nhưng ai cầm giữ ḿnh
không nói sao được?
3. Ḱa, ông đă dạy dỗ nhiều người, Và làm cho tay yếu đuối ra mạnh mẽ;
4. Các lời nói ông đă đỡ kẻ xiêu tó lên, Và đầu gối lung lay, ông đă làm cho
vững bền.
5. Nhưng bây giờ tai nạn xảy đến ông, ông lại giận; Nó lâm vào ông, th́ ông bị
rối ḷng.
6. Ông kính sợ Đức Chúa Trời, ấy há chẳng phải nơi nương nhờ của ông? Tánh hạnh
hoàn toàn của ông, há chẳng phải sự trông cậy của ông sao?
7. Ông hăy suy xét lại, nào bao giờ kẻ vô tội bị hư mất? Đâu có người ngay thẳng
lại bị trừ diệt?
8. Theo điều tôi đă thấy, ai cày sự gian ác, Và gieo điều khấy rối, th́ lại gặt
lấy nó.
9. Bởi hơi thở Đức Chúa Trời, chúng bèn hư mất, Tại hơi xịt giận Ngài, họ bị
tiêu hao đi.
10. Tiếng gầm của sư tử, và giọng sư tử hét đă êm lặng, Và nanh của các sư tử
con bị găy.
11. Sư tử mạnh bạo chết v́ thiếu mồi, Và các sư tử con bị tản lạc.
12. Có một lời mật thấu đến tôi, Lỗ tai tôi văng vẳng nghe tiếng ấy,
13. Ban đêm đương khi loài người ngủ mê, Ḷng tôi suy tưởng, bèn thấy dị tượng,
14. Sự kinh khủng sợ hăi xông hăm tôi, Khiến xương cốt tôi run rẩy.
15. Có một thần đi ngang qua trước mặt tôi; Các lông tóc của thịt tôi bèn xửng
lên.
16. Thần đứng đó, tôi nh́n không biết mặt người; Có một h́nh dạng ở trước mặt
tôi. Tôi nghe tiếng thầm th́ nho nhỏ, mà rằng:
17. "Loài người hay chết, há công b́nh hơn Đức Chúa Trời ư? Loài người há được
trong sạch hơn Đấng Tạo hóa ḿnh sao?"
18. Ḱa, Đức Chúa Trời không tin cậy các tôi tớ Ngài, Ngài thường trách sự điên
dại của thiên sứ Ngài.
19. Phương chi những kẻ ở cḥi đất sét được cất trên nền bụi cát, Bị chà nát như
loài sâu mọt!
20. Giữa khoảng sáng đến chiều, chúng bị hư mất; Hằng đến luôn luôn, mà chẳng có
ai lưu ư đến.
21. Dây chằng của chúng há chẳng bị dứt trong ḿnh họ sao? Chúng thác, nào được
khôn ngoan chi.
Gióp 5
chọn đoạn khác
1. Vậy, hăy kêu la! Có ai đáp lời ông chăng? Ông sẽ trở lại cùng đấng nào trong
các thánh?
2. V́ nổi sầu thảm giết người ngu muội, Sự đố kỵ làm chết kẻ đơn sơ.
3. Tôi có thấy kẻ ngu muội châm rễ ra; Nhưng th́nh ĺnh tôi rủa sả chỗ ở của
hắn.
4. Con cái hắn không được an nhiên, Bị chà nát tại cửa thành, chẳng có ai giải
cứu;
5. Người đói khát ăn mùa màng hắn, Đến đỗi đoạt lấy ở giữa bụi gai, Và bẫy gài
ŕnh của cải hắn.
6. V́ sự hoạn nạn chẳng phải từ bụi cát sanh ra, Sự khốn khó chẳng do đất nảy
lên;
7. Nhưng loài người sanh ra để bị khốn khó, Như lằn lửa bay chớp lên không.
8. Song tôi, tôi sẽ t́m cầu Đức Chúa Trời, Mà phó duyên cớ tôi cho Ngài;
9. Ngài làm công việc lớn lao, không sao ḍ xét được, Làm những sự kỳ diệu,
không thể đếm cho đặng;
10. Ngài ban mưa xuống mặt đất, Cho nước tràn đồng ruộng,
11. Nhắc lên cao những kẻ bị hạ xuống, Và cứu đỡ những người buồn thảm cho được
phước hạnh.
12. Ngài làm bại mưu kế của người quỉ quyệt, Khiến tay chúng nó chẳng làm xong
được việc toan định của họ.
13. Ngài bắt kẻ khôn ngoan trong chước móc họ, Mưu kế của kẻ quỉ quái bèn bị
hại.
14. Ban ngày chúng nó gặp tối tăm, Đương lúc trưa chúng rờ đi như trong đêm tối.
15. Đức Chúa Trời cứu kẻ nghèo khỏi gươm của miệng chúng nó, Và khỏi tay kẻ
cường bạo.
16. Vậy, kẻ nghèo khốn có sự trông cậy, C̣n kẻ gian ác ngậm miệng lại.
17. Người mà Đức Chúa Trời quở trách lấy làm phước thay! Vậy, chớ khinh sự sửa
phạt của Đấng Toàn năng.
18. V́ Ngài làm cho bị thương tích, rồi lại bó rít cho; Ngài đánh hại, rồi tay
Ngài chữa lành cho.
19. Trong sáu cơn hoạn nạn, Ngài sẽ giải cứu cho, Qua cơn thứ bảy, tai hại cũng
sẽ không đụng đến ḿnh.
20. Trong cơn đói kém, Ngài sẽ giải cứu cho khỏi chết, Và đương lúc giặc giă,
cứu khỏi lưỡi gươm.
21. Ông sẽ được ẩn núp khỏi tai hại của lưỡi; Cũng sẽ chẳng sợ chi khi tai vạ
xảy đến.
22. Ông sẽ cười thầm khi thấy sự phá hoang và sự đói kém, Cũng chẳng sợ các thú
vật của đất;
23. V́ ông lập giao ước với đá đồng ruộng; Và các thú rừng sẽ ḥa thuận với ông.
24. Ông sẽ thấy trại ḿnh được ḥa b́nh; Đi viếng các bầy ḿnh, sẽ chẳng thấy
chi thiếu mất.
25. Cũng sẽ thấy ḍng dơi ḿnh nhiều, Và con cháu ḿnh đông như cỏ trên đất.
26. Ông sẽ được tuổi cao khi vào trong phần mộ, Như một bó lúa mà người ta gặt
phải th́.
27. Nầy, chúng tôi có xem xét điều đó, nó vốn là vậy; Hăy nghe, hăy biết để làm
ích cho ḿnh.
Gióp 6
chọn đoạn khác
1. Gióp đáp lại rằng:
2. Ôi! Chớ ǵ nỗi buồn tôi nhắc cân cho đúng, Và các tai nạn tôi để trên cân
thăng bằng!
3. V́ hiện giờ nó nặng hơn cát biển; Nên tại cớ ấy các lời nói đại ra.
4. Bởi v́ các tên của Đấng Toàn năng trúng nhằm tôi; Tâm hồn tôi uống nọc độc
của tên ấy; Sự kinh khiếp của Đức Chúa Trời dàn trận nghịch cùng tôi.
5. Chớ th́ con lừa rừng nào kêu la khi có cỏ? C̣n ḅ nào rống khi có lương thảo?
6. Vật chi lạt lẽo, người ta nào ăn chẳng bỏ muối? C̣n trong ḷng trắng trứng
gà, đâu có mùi lai ǵ?
7. Vật ǵ linh hồn tôi từ chối đá đến, Lại trở nên vật thực gớm ghê của tôi.
8. Ôi! Chớ ǵ lời sở cầu tôi được thành, Và Đức Chúa Trời ban cho tôi điều tôi
ao ước!
9. Chớ chi Đức Chúa Trời đẹp ḷng cà tán tôi, Buông tay Ngài ra trừ diệt tôi!
10. Vậy, tôi sẽ c̣n được an ủy, Và trong cơn đau đớn chẳng giản, Tôi sẽ vui
mừng, bởi v́ không có từ chối lời phán của Đấng Thánh.
11. Sức lực tôi nào đủ đợi cho nỗi, Cuối cùng tôi sẽ ra sao, mà tôi lại nhẫn
nhịn được?
12. Sức tôi há là sức đá sao? Thịt tôi há dễ là đồng?
13. Trong ḿnh tôi chẳng có sự tiếp cứu, sự khôn ngoan bị cất khỏi tôi, Ấy há
chẳng phải như vậy sao?
14. Kẻ gần xui té, đáng được bạn bầu thương xót đến, E kẻo người bỏ sự kính sợ
Đấng Toàn năng.
15. Anh em tôi dối gạt tôi như ḍng khe cạn nước, Như ḷng khe chảy khô.
16. Nó bị đục v́ cớ nước đá, Có giá tuyết ẩn ở trong.
17. Nhưng trong khi giựt xuống, khe bèn khô cạn, Lúc nắng giọi, nó lại biến khỏi
chỗ nó.
18. Đoàn khách đi ngang qua nó bèn tẻ tách đường, Đi vào trong Sa mạc, rồi chết
mất.
19. Đoàn khách ở Thê-ma t́m kiếm nước nó, Các kẻ bộ hành Sê-ba nhờ cậy nó;
20. Nhưng chúng bị mắc cỡ v́ nhờ cậy nơi nó; Khi đến tại khe, bèn phải hổ thẹn.
21. Hiện nay các bạn cũng không ra ǵ hết; Các bạn thấy sự đáng kinh khiếp, bèn
run sợ.
22. Tôi há có nói rằng: Xin cung cấp cho tôi, Trong tài sản của các bạn, xin hăy
lấy lễ vật dâng cho tôi, sao?
23. Hoặc cầu rằng: Xin hăy giải cứu tôi khỏi tay kẻ cừu địch, Và chuộc tôi khỏi
tay kẻ hà hiếp ư?
24. Hăy dạy dỗ tôi, tôi sẽ nín lặng; Xin chỉ cho tôi hiểu tôi đă lầm lỗi nơi
nào.
25. Lời chánh trực có sức lực dường bao! C̣n lời trách móc của các bạn nào có
trách được ǵ?
26. Các bạn muốn trách móc tiếng nói sao? Song lời của một người ngă ḷng chỉ
như luồng gió.
27. Quả thật, các bạn xông hăm kẻ mồ côi, Và đào hầm gài bạn hữu ḿnh.
28. Vậy bây giờ, nếu các bạn muốn, hăy ngó tôi, Tôi nào dám nói dối trước mặt
các bạn đâu.
29. Xin khá xét lại; chớ có sự bất công; Phải, hăy xét lại, v́ duyên cớ tôi là
công b́nh.
30. Có điều bất công nơi lưỡi tôi chăng? ổ gà tôi há chẳng phân biệt điều ác
sao?
Gióp 7
chọn đoạn khác
1. Người ở thế gian há chẳng có sự chiến trận sao? Niên nhựt người há không phải
như đời của người làm mướn ư?
2. Như kẻ nô lệ ước ao bóng tối, Như người làm thuê trông đợi tiền lương,
3. Như vậy tôi đă được các tháng khốn khó, Và những đêm lao khổ làm phần định
cho tôi.
4. Khi tôi nằm ngủ th́ tôi nói rằng: Chừng nào tôi sẽ thức dậy? Bao giờ sẽ hết
tối tăm? Tôi quá trăn trở cho đến rạng ngày.
5. Thịt tôi bị bao phủ gịi tửa và lấp đất; Da tôi nứt nẻ và chảy mủ ra!
6. Các ngày tôi qua mau hơn thoi dệt cửi, Tiêu đi, chẳng có trông cậy ǵ.
7. Ôi! Xin hăy nhớ mạng sống tôi chỉ bằng hơi thở; Mắt tôi sẽ chẳng c̣n thấy
điều phước hạnh nữa.
8. Mắt đă thấy tôi sẽ chẳng thấy tôi nữa, Mắt Chúa đoái đến tôi, nhưng tôi sẽ
không c̣n,
9. Mây tan ra và mất thể nào, Kẻ xuống âm phủ không hề trở lên, cũng thể ấy.
10. Họ không hề trở về nhà ḿnh nữa, Và xứ sở người chẳng c̣n biết người.
11. Bởi cớ ấy, tôi chẳng cầm miệng tôi; Trong cơn hoạn nạn của ḷng tôi, tôi sẽ
nói ra; Trong cay đắng của linh hồn tôi, tôi sẽ phàn nàn.
12. Tôi nói cùng Đức Chúa Trời rằng: Tôi há là một cái biển, một kỳ vật trong
biển, Nên Ngài đặt kẻ cầm giữ tôi bốn bên?
13. Khi tôi nói: Giường tôi sẽ an ủy tôi, Nệm tôi sẽ làm hoạn nạn tôi nhẹ bớt,
14. Bấy giờ Chúa dùng chiêm bao làm cho tôi hoảng kinh, Lấy dị tượng khiến cho
tôi sợ hăi.
15. Đến đỗi linh hồn tôi chọn sự ngột hơi, Và chết hơn là c̣n sống nơi xương cốt
nầy.
16. Tôi chán sự sống. Tôi sẽ chẳng sống hoài. Xin Chúa để tôi ở một ḿnh; v́ các
ngày tôi chỉ là hư không.
17. Loài người là ǵ mà Chúa kể là cao trọng? Nhân sao Chúa lưu ư đến người.
18. Viếng thăm người mỗi buổi sớm, Và thử thách người mỗi lúc mỗi khi?
19. Nhơn sao Chúa không xây mắt khỏi tôi, Chẳng để cho tôi bằng tịnh cho đến khi
nuốt nước miếng tôi?
20. Hỡi Đấng ǵn giữ loài người! nếu tôi đă phạm tội, có làm ǵ nghịch Chúa?
Nhân sao Chúa đặt tôi làm một tấm bia, Đến đỗi ḿnh trở thánh gánh nặng cho
ḿnh?
21. Cớ sao Chúa không tha tội cho tôi, Cất lấy gian ác khỏi tôi đi? V́ bây giờ
tôi sẽ nằm trong bụi đất; Chúa sẽ t́m kiếm tôi, song tôi không c̣n nữa.
Gióp 8
chọn đoạn khác
1. Binh-đát, người Su-a, bèn đáp lời, mà rằng:
2. Ông sẽ nói các điều ấy đến bao giờ, Và lời của miệng ông sẽ giống như gió băo
đến chừng nào?
3. Đức Chúa Trời há thiên đoán ư? Đấng toàn năng há trái phép công b́nh sao?
4. Nếu con cái ông có phạm tội cùng Ngài, Th́ Ngài đă phó chúng nó vào quyền tội
ác của chúng nó.
5. Nếu ông cẩn thận t́m kiếm Đức Chúa Trời, Cầu khẩn cùng Đấng toàn năng,
6. Nếu ông thanh sạch và ngay thẳng, Quả thật bây giờ Ngài sẽ tỉnh thức v́ ông,
Và làm cho nhà công b́nh ông được hưng thạnh.
7. Dầu ban sơ ông vốn nhỏ mọn, Th́ sau rốt sẽ nên trọng đại.
8. Xin hăy hỏi ḍng dơi đời xưa, Khá chăm chỉ theo sự t́m ṭi của các tổ tiên.
9. (V́ chúng ta mới có hôm qua, và chẳng biết ǵ; Bởi các ngày chúng ta trên đất
khác nào một cái bóng);
10. Chớ th́ chúng sẽ chẳng dạy ông, nói chuyện với ông, Và do nơi ḷng ḿnh mà
đem ra những lời lẽ sao?
11. Sậy há mọc nơi chẳng bưng bàu ư? Lác há mọc lên không có nước sao?
12. Khi c̣n xanh tươi chưa phải phát, Th́ đă khô trước các thứ cỏ khác.
13. Đường lối kẻ quên Đức Chúa Trời là như vậy: Sự trông cậy kẻ không kính sợ
Đức Chúa Trời sẽ hư mất;
14. Nơi người nương nhờ sẽ bị truất, Điều người tin cậy giống như váng nhện.
15. Người ấy nương tựa vào nhà ḿnh, song nhà không vững chắc; Người níu lấy nó,
nhưng nó chẳng đứng chịu nổi.
16. Trước mặt trời, nó xanh tươi. Nhành lá che phủ vườn nó.
17. Rễ nó quấn trên đống đá, Nó mọc xỉa ra giữa đá sỏi;
18. Nếu nó bị nhổ khỏi chỗ nó, Th́ chỗ ấy bèn từ chối nó, mà rằng: Ta chẳng hề
thấy ngươi!
19. Ḱa, ấy là sự vui sướng về đường lối nó; Sẽ có loài khác từ đất nảy ra.
20. Ḱa, Đức Chúa Trời chẳng từ bỏ người trọn vẹn, Cũng không giúp đỡ kẻ hung
ác.
21. Song Chúa sẽ c̣n làm cho miệng ông được đầy vui cười; Và môi ông tràn ra
tiếng reo mừng.
22. Những kẻ ghét ông sẽ bị hổ thẹn bao phủ, Và nhà trại của kẻ ác sẽ chẳng c̣n.
Gióp 9
chọn đoạn khác
1. Gióp đáp lời lại mà rằng:
2. Quả thật, tôi biết ấy là như vậy; Nhưng làm thế nào cho loài người được công
b́nh trước mặt Đức Chúa Trời?
3. Nếu muốn tranh biện với Ngài. Th́ một lần trong ngàn lần, loài người không
thế đáp lời.
4. Đức Chúa Trời có ḷng trí huệ và rất mạnh sức: Ai cứng cỏi với Ngài mà lại
được may mắn?
5. Ngài dời các núi đi, Đánh đổ nó trong cơn giận Ngài; nhưng núi chẳng biết
đến.
6. Ngài khiến đất rúng động khỏi nền nó, Và các trụ nó đều chuyển lay;
7. Ngài biểu mặt trời nó bèn chẳng mọc, Ngài đóng ấn trên các ngôi sao;
8. Một ḿnh Ngài trải các từng trời ra, Và bước đi trên các ngọn sóng biển;
9. Ngài dựng nên sao bắc đẩu, Sao cày, và Sao rua, Cùng những lầu các bí mật của
phương nam.
10. Ngài làm những việc lớn lao, không sao ḍ xét được, Những kỳ dấu chẳng xiết
cho được.
11. Ḱa, Ngài đă đi qua gần tôi, mà tôi không thấy Ngài, Ngài sang ngang trước
mặt tôi, nhưng tôi chẳng nh́n thấy Ngài.
12. Ḱa, Ngài vớ lấy mồi, ai ngăn trở Ngài được? Ai sẽ nói với Ngài rằng: Chúa
làm chi vậy?
13. Đức Chúa Trời không hồi cơn giận Ngài; Những kẻ giúp đỡ Ra-háp đều cúi ḿnh
xuống dưới Ngài.
14. Phương chi tôi đáp lại với Ngài, Và chọn lời tranh biện cùng Ngài!
15. Dầu khi tôi công b́nh, tôi cũng không dám đối lại cùng Ngài; Nhưng tôi cầu
xin ơn của Đấng phán xét tôi.
16. Mặc dầu tôi kêu cầu, và Ngài đáp lời tôi, Tôi cũng không tin rằng Ngài lắng
tai nghe tiếng tôi.
17. V́ Ngài chà nát tôi trong cơn gió băo, Và thêm nhiều vít tích cho tôi vô cớ.
18. Ngài không để cho tôi hả hơi; Nhưng Ngài khiến tôi no đầy sự cay đắng,
19. Nếu luận về sức lực, ḱa, Ngài vốn quyền năng! Nếu nói về lư đoán, th́ Ngài
rằng: "Ai dám cáo kiện ta?"
20. Dầu rằng tôi công b́nh, miệng ḿnh sẽ lên án cho ḿnh; Tuy tôi trọn vẹn, nó
sẽ tỏ tôi ra gian tà.
21. Dẫu tôi vô tội, tôi không kể đến ḿnh tôi, Tôi khinh bỉ mạng sống tôi.
22. Ác và thiện thảy đều như nhau; bởi cớ ấy, nên tôi có nói: Ngài tiêu diệt
người trọn vẹn cũng như người kẻ gian ác.
23. Nếu tai họa giết chết th́nh ĺnh, Th́ Ngài chê cười sự thử thách của người
vô tội.
24. Đất bị phó vào tay kẻ gian ác; Nó che mặt những quan xét của đất; Nếu chẳng
phải nó, vậy th́ ai?
25. Các ngày của tôi mau hơn kẻ trạm; Nó trốn không thấy điều phước hạnh.
26. Nó xớt qua mau như thuyền nan, Như chim ưng xông vào mồi.
27. Nếu tôi nói: Tôi sẽ quên sự than phiền tôi, Bỏ bộ mặt buồn thảm tôi và lấy
làm vui mừng,
28. Th́ tôi sợ hăi các điều đau đớn tôi, Biết rằng Ngài không cầm tôi là vô tội.
29. Phải, tôi sẽ bị định tội; Nên cớ sao tôi làm cho ḿnh mệt nhọc luống công?
30. Nếu tôi tắm trong nước tuyết, Rửa tay tôi với nước tro,
31. Th́ Ngài lại nhận tôi trong hầm, Đến đỗi quần áo tôi sẽ gớm ghê tôi.
32. V́ Đức Chúa Trời chẳng phải loài người như tôi, mà tôi dám đối với Ngài, Để
chúng ta cùng đi chịu phán xét.
33. Chẳng có người nào phân xử giữa chúng ta, Đặt tay ḿnh trên hai chúng ta.
34. Ước ǵ Chúa rút roi Ngài khỏi tôi, Khiến sự kinh khiếp của Ngài chớ làm rối
loạn tôi nữa;
35. Bấy giờ, tôi sẽ nói, chẳng sợ Ngài; Nhưng tôi chẳng được như vậy.
Gióp 10
chọn đoạn khác
1. Linh hồn tôi đă chán ngán sự sống tôi; Tôi sẽ buông thả lời than thở của tôi,
Tôi sẽ nói v́ cơn cay đắng của ḷng tôi.
2. Tôi sẽ thưa với Đức Chúa Trời rằng: Xin chớ đoán phạt tôi; Hăy tỏ cho tôi
biết nhân sao Chúa tranh luận với tôi.
3. Chúa há đẹp ḷng đè ép, Khinh bỉ công việc của tay Ngài, Và chiếu sáng trên
mưu chước của kẻ ác sao?
4. Chúa có mắt xác thịt ư? Chúa thấy như người phàm thấy sao?
5. Các ngày của Chúa há như ngày loài người ư? Các năm của Chúa há như năm loài
người sao?
6. Sao Chúa tra hạch gian ác tôi, T́m kiếm tội lỗi tôi,
7. Dầu Chúa biết tôi chẳng phải gian ác, Và không ai giải thoát khỏi tay Chúa?
8. Tay Chúa đă dựng nên tôi, nắn giọt trót ḿnh tôi; Nhưng nay Chúa lại hủy diệt
tôi!
9. Xin Chúa nhớ rằng Chúa đă nắn h́nh tôi như đồ gốm; Mà Chúa lại lại muốn khiến
tôi trở vào tro bụi sao?
10. Chúa há chẳng có rót tôi chảy như sữa, Làm tôi ra đặc như bánh sữa ư?
11. Chúa đă mặc cho tôi da và thịt, Lấy xương và gân đương tréo tôi.
12. Chúa đă ban cho tôi mạng sống và điều nhân từ; Sự Chúa đoái hoài tôi đă ǵn
giữ tâm hồn tôi.
13. Dầu vậy, Chúa giấu các điều nầy nơi ḷng Chúa; Tôi biết điều ấy ở trong tư
tưởng của Ngài.
14. Nếu tôi phạm tội, Chúa sẽ xem xét tôi, Chẳng dung tha gian ác tôi.
15. Nếu tôi làm hung ác, th́ khốn cho tôi thay! C̣n nếu tôi ăn ở công b́nh, tôi
cũng chẳng dám ngước đầu lên, V́ đă bị đầy dẫy sỉ nhục, và thấy sự khổ nạn tôi.
16. Ví bằng tôi ngước đầu lên, hẳn quả Chúa sẽ săn tôi như sư tử, và tỏ ra nơi
tôi quyền diệu kỳ của Ngài.
17. Chúa đặt chứng mới đối nghịch tôi, Và gia thêm sự giận cùng tôi: Đau đớn
liên tiếp, và th́ khốn khó theo tôi.
18. Nhơn sao Chúa đem tôi ra khỏi ḷng mẹ tôi? Phải chi đă tắt hơi, th́ chẳng
con mắt nào thấy tôi!
19. Bằng vậy, tôi sẽ như đă không hề có; V́ mới lọt ḷng mẹ, bèn bị đem đến mồ
mă!
20. Các ngày tôi há chẳng phải ít ỏi sao? Vậy, Chúa ôi, khá ngưng dứt đi, Hăy
dời khỏi tôi đi, để tôi được an ủy một chút,
21. Trước khi tôi đi đến xứ tối tăm và bóng sự chết, không hề trở lại;
22. Tức đất tối đen như mực, Là miền có bóng sự chết, chỉ có sự hỗn độn tại đó,
Và ánh sáng không khác hơn tối tăm.
Gióp 11
chọn đoạn khác
1. Sô-pha, người Na-a-ma, đáp lại, mà rằng:
2. Há chẳng nên đáp lại lời nói nhiều sao? Người già miệng há sẽ được xưng là
công b́nh ư?
3. Chớ th́ các lời khoe khoang của ông khiến người ta nín sao? Khi ông nhạo
báng, há không có ai bỉ mặt ông ư?
4. V́ ông thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Đạo lư tôi là thanh tịnh; Tôi không nhơ
bợn trước mặt Chúa.
5. À! Chớ ǵ đẹp ḷng Đức Chúa Trời mà phán, Và mở miệng Ngài đáp lời nghịch
cùng ông,
6. Ước chi Ngài chỉ tỏ cho ông biết sự bí mật của sự khôn ngoan! V́ Ngài thông
hiểu bội phần. Vậy, khá biết rằng Đức Chúa Trời phạt ông lại không xứng với tội
gian ác của ông.
7. Nếu ông ḍ xét, há có thể hiểu biết được sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời, Và
thấu rơ Đấng Toàn năng sao?
8. Sự ấy vốn cao bằng các từng trời: Vậy ông sẽ làm ǵ? Sâu hơn âm phủ: ông hiểu
biết sao đặng?
9. Bề dài sự ấy lại hơn cỡ trái đất, Và rộng lớn hơn biển cả.
10. Nếu Đức Chúa Trời đi ngang qua, bắt người ta cầm tù, Và đ̣i ứng hầu đoán
xét, th́ ai sẽ ngăn trở Ngài được?
11. V́ Ngài biết những người giả h́nh, Xem thấy tội ác mà loài người không cảm
biết đến.
12. Nhưng chừng nào lừa con rừng sanh ra làm người, Th́ chừng nấy người hư không
mới trở nên thông sáng!
13. Vậy, nếu dọn ḷng cho xứng đáng, Và giơ tay ḿnh ra hướng về Chúa;
14. Bằng có tội ác trong tay ông, mà ông bỏ xa khỏi ḿnh, Chẳng để sự bất công ở
trong trại ḿnh,
15. Bấy giờ, ông hẳn sẽ ngước mắt lên không t́ vít ǵ, Thật sẽ được vững vàng,
chẳng sợ chi;
16. Ông sẽ quên các điều hoạn nạn ḿnh, Và nhớ đến nó như nước đă chảy qua.
17. Đời ông sẽ sáng sủa hơn ban trưa; Dẫu nay tối tăm, sau sẽ hóa ra như buổi
sáng.
18. Ông sẽ b́nh an vô sự, v́ có sự trông cậy; Ông sẽ t́m ṭi bốn bên, rôi nghỉ
ngơi yên hàn vô sự.
19. Lại ông sẽ nằm, không ai làm cho ḿnh sợ hăi, Và lắm người sẽ t́m ơn của
ông.
20. Nhưng kẻ hung ác sẽ bị hao ṃn; Nó chẳng có nơi ẩn núp, Và điều nó sẽ trông
mong, ấy là sự tắt hơi.
Gióp 12
chọn đoạn khác
1. Gióp đáp lại rằng:
2. Hẳn chi các ngươi thật là người, Sự khôn ngoan sẽ đồng chết mất với các ngươi
mà chớ!
3. Song ta cũng có sự thông sáng như các ngươi, Chẳng kém hơn đâu; mà lại ai là
người không biết những việc như thế?
4. Ta đă cầu khẩn Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời đáp lời cho ta; Nay ta thành
ra tṛ cười của bầu bạn ta; Người công b́nh, người trọn vẹn đă trở nên một vật
chê cười!
5. Ḷng người nào ở an nhiên khinh bỉ sự tai họa. Tai họa thường sẵn giáng trên
kẻ nào trợt chơn vấp ngă.
6. Trại của kẻ cướp được may mắn, Những kẻ chọc giận Đức Chúa trời ở b́nh an vô
sự, Và được Đức Chúa Trời phó vào tay ḿnh nhiều tài sản dư dật.
7. Nhưng khá hỏi loài thú, chúng nó sẽ dạy dỗ ngươi, Hỏi các chim trời, th́
chúng nó sẽ bảo cho ngươi;
8. Hoặc nữa, hăy nói với đất, nó sẽ giảng dạy cho ngươi; C̣n những cá biển sẽ
thuật rơ cho ngươi biết.
9. Trong các loài này, loài nào chẳng biết Rằng tay của Đức Chúa Trời đă làm ra
những vật ấy?
10. Trong tay Ngài cầm hồn của mọi vật sống, Và hơi thở của cả loài người.
11. Lỗ tai há chẳng xét lời nói, Như ổ gà nếm những thực vật sao?
12. Người già cả có sự khôn ngoan, Kẻ hưởng trường thọ được điều thông sáng.
13. Nơi Đức Chúa Trời có sự khôn ngoan và quyền năng; Mưu luận và thông minh
điều thuộc về Ngài.
14. Ḱa, Ngài phá hủy, loài người không cất lại được; Ngài giam cầm người nào,
không ai mở ra cho.
15. Nầy, Ngài ngăn nước lại, nước bèn khô cạn; Đoạn, Ngài mở nó ra, nó bèn làm
đồi tàn đất,
16. Tại nơi Ngài có quyền năng và khôn ngoan; Kẻ bị lầm lạc và kẻ làm cho lầm
lạc đều thuộc về Ngài.
17. Ngài bắt dẫn tù những kẻ bày mưu, Khiến các quan xét ra điên dại.
18. Ngài mở trói cho các vua, Và thắt xiềng xích nơi chơn họ;
19. Ngài bắt tù dẫn những thầy tế lễ, Đánh đổ các kẻ cường quyền.
20. Ngài cất lời khỏi kẻ nói thành tín, Làm cho kẻ già cả mất trí khôn.
21. Ngài giáng điều sỉ nhục trên kẻ sang trọng, Tháo dây lưng của người mạnh
bạo.
22. Ngài bày tỏ những sự mầu nhiệm ẩn trong tăm tối, Và khiến bóng sự chết hóa
ra sáng sủa.
23. Ngài khiến các dân tộc hưng thạnh, rồi lại phá diệt đi; Mở rộng giới hạn cho
các nước, đoạn thâu nó lại.
24. Ngài cất thông sáng khỏi những trưởng của các dân tộc thế gian, Khiến chúng
đi dông dài trong đồng vắng không đường lối.
25. Chúng rờ đi trong tối tăm, không có sự sáng, Và Ngài làm cho họ đi ngả
nghiêng như kẻ say.
Gióp 13
chọn đoạn khác
1. Nầy, mắt ta đă thấy các điều đó, Tai ta có nghe và hiểu đến.
2. Điều ǵ các ngươi biết, ta cũng biết với. Ta chẳng kém hơn các người đâu.
3. Song ta muốn thưa với Đấng Toàn năng, Ước ao biện luận cùng Đức Chúa Trời:
4. C̣n các ngươi là kẻ đúc rèn lời dối trá; Thảy đều là thầy thuốc không ra ǵ
hết.
5. Chớ chi các ngươi nín lặng! Đó sẽ là sự khôn ngoan của các ngươi.
6. Vậy, hăy nghe lời biện luận của ta, Khá chăm chỉ về lẽ đối nại của miệng ta.
7. Có phải các ngươi dám nói lời bất công với Đức Chúa Trời chăng? Các ngươi há
sẽ nói điều dối trá v́ Ngài sao?
8. Các ngươi há muốn tây vị Đức Chúa Trời, Và căi lẽ cho Ngài sao?
9. Nếu Ngài ḍ xét ḷng các ngươi, các ngươi vừa ư điều đó sao? Các ngươi há
muốn phỉnh gạt Ngài như phỉnh gạt loài người sao?
10. Quả thật Ngài sẽ trách phạt các ngươi. Nếu các ngươi lén tây vị người.
11. Chớ th́ sự oai nghi Ngài sẽ chẳng khiến các ngươi bối rối sao? Sự hoảng kinh
Ngài há sẽ chẳng giáng trên các ngươi ư,
12. Châm ngôn của các ngươi chỉ như châm ngôn loài tro bụi; Những thành lũy của
các ngươi thật là thành lũy bùn đất,
13. Vậy, hăy nín đi, khá ĺa khỏi ta, để ta biện luận, Mặc dầu xảy đến cho ta
điều ǵ.
14. Cớ sao ta lấy răng cắn thịt ḿnh Và liều sanh mạng ḿnh?
15. Dẫu Chúa giết ta, ta cũng c̣n nhờ cậy nơi Ngài; Nhưng ta sẽ binh vực tánh
hạnh ta trước mặt Ngài.
16. Chánh điều đó sẽ là sự cứu rỗi ta; V́ một kẻ vô đạo chẳng được đến trước mặt
Chúa.
17. Hăy nghe kỹ càng các lời ta, Lời trần cáo ta khá lọt vào tai các ngươi!
18. Ḱa, ta đă bày tỏ việc cáo tụng ta, Ta biết ta sẽ được xưng công b́nh.
19. Có ai sẽ tranh luận với ta chăng? Ví bằng ta nín lặng, quả ta tắt hơi.
20. Có hai điều cầu xin Chúa chớ làm cho tôi, Th́ tôi sẽ không ẩn ḿnh tôi khỏi
mặt Chúa:
21. Xin Chúa rút tay Chúa khỏi ḿnh tôi, Và sự hoảng kinh của Chúa chớ làm bối
rối tôi nữa.
22. Đoạn, hăy gọi tôi, tôi sẽ thưa lại, Hoặc tôi nói th́ Chúa sẽ trả lời cho
tôi.
23. Số gian ác và tội lỗi tôi bao nhiêu? Cầu xin Chúa cho tôi biết sự phạm luật
và tội lỗi tôi.
24. Nhân sao Chúa giấu mặt Chúa, Và cầm bằng tôi là kẻ cừu địch Chúa?
25. Chúa há muốn khiến kinh hăi chiếc lá bị gió đưa đi, Và đuổi theo cộng rạ khô
sao?
26. V́ Chúa làm cho tôi bị điều cay đắng, Và khiến cho tôi gánh các tội ác phạm
lúc thanh niên,
27. Đặt chơn tôi trong xiềng tỏa, Xét các đường lối tôi, Và ghi ranh hạng chung
quanh bước chơn tôi,
28. C̣n tôi bị bể nát ra như vật mục, Như một cái áo sâu cắn nát vậy.
Gióp 14
chọn đoạn khác
1. Loài người bởi người nữ sanh ra, sống tạm ít ngày, Bị đầy dẫy sự khốn khổ.
2. Người sanh ra như cỏ hoa, rồi bị phát; Người chạy qua như bóng, không ở lâu
dài.
3. Dầu vậy, Chúa c̣n để mắt trên người ấy, Và khiến tôi đến chịu Chúa xét đoán
sao?
4. Ai có thể từ sự ô uế mà lấy ra được điều thanh sạch? Chẳng một ai!
5. Nếu ngày của loài người đă định rồi, Nếu số tháng người ở nơi Chúa, Và Chúa
đă định giới hạn cho người, mà không qua khỏi được,
6. Th́ xin Chúa hăy xây mắt Ngài khỏi người, để người đặng yên nghỉ, Cho đến khi
măn ngày ḿnh như kẻ làm mướn vậy.
7. V́ cây cối dẫu bị đốn c̣n trông cậy Sẽ c̣n mọc lên nữa, Không thôi nức chồi.
8. Dẫu rễ nó già dưới đất, Thân nó chết trong bụi cát,
9. Vừa có hơi nước, nó sẽ mọc chồi, Và đâm nhành như một cây tơ;
10. Nhưng loài người chết, th́ nằm tại đó, Loài người tắt hơi, th́ đă đi đâu?
11. Nước hồ chảy mất đi, Sông cạn và khô:
12. Cũng vậy, loài người nằm, rồi không hề chổi dậy: Người chẳng hề thức dậy cho
đến khi không c̣n các từng trời, Và chẳng ai sẽ khiến cho người tỉnh lại khỏi
giấc ngủ ḿnh.
13. Ôi! Chớ ǵ Chúa giấu tôi nơi âm phủ, che khuất tôi cho đến khi cơn giận Chúa
đă nguôi, Định cho tôi một kỳ hẹn, đoạn nhớ lại tôi!
14. Nếu loài người chết, có được sống lại chăng! Trọn ngày giặc giă tôi, tôi đợi
chờ, Cho đến chừng tôi được buông thả,
15. Chúa sẽ gọi, tôi sẽ thưa lại; Chúa sẽ đoái đến công việc của tay Chúa;
16. Nhưng bây giờ, Chúa đếm các bước tôi, Chúa há chẳng xem xét các tội lỗi tôi
sao?
17. Các tội phạm tôi bị niêm phong trong một cái túi, Và Chúa có thắt các sự
gian ác tôi lại.
18. Song núi lở ta thành ra bụi, Và ḥn đá bị nhắc dời khỏi chổ nó.
19. Nước làm ṃn đá, Lụt trôi bụi đất: Cũng một thể ấy, Chúa hủy sự hy vọng của
loài người.
20. Chúa hăm đánh và thắng hơn loài người luôn, đoạn nó đi qua mất; Chúa đổi sắc
mặt nó, và đuổi nó đi.
21. Các con trai người được tôn trọng, c̣n người nào biết đến; Chúng bị hạ
xuống, nhưng người cũng chẳng để ư vào.
22. Thịt người chỉ đau đớn v́ một ḿnh người, Và linh hồn người chỉ buồn rầu v́
chính ḿnh người mà thôi.
Gióp 15
chọn đoạn khác
1. Ê-li-pha, người Thê-man, đáp rằng:
2. Người khôn ngoan há đáp bằng lời tri thức hư không, Và ph́nh bụng ḿnh bằng
gió đông sao?
3. Người há có nên lấy lời vô ích mà chữa ḿnh, Dùng câu giảng luận vô dụng mà
binh vực sao?.
4. Thật ông hủy điều kính sợ Đức chứa Trời, Ngăn trở sự suy gẫm trước mặt Ngài.
5. V́ sự gian ác ông dạy dỗ cho miệng ḿnh nói, Và ông chọn lưỡi của kẻ quỉ
quyệt.
6. Miệng ông định tội cho ông, chớ chẳng phải tôi; Và môi ông làm chứng dối
nghịch cùng ông.
7. Có phải ông sanh ra đầu trước hết chăng? Há đă được dựng nên trước non núi
sao?
8. Chớ th́ ông có nghe điều bàn định trong ư nhiệm của Đức chúa Trời sao? Há chỉ
một ḿnh ông được khôn ngoan ư?
9. Ông biết chi, mà chúng tôi chẳng biết? Ông thông hiểu ǵ mà chúng tôi lại
không thông hiểu?
10. Giữa ṿng chúng tôi cũng có người tóc bạc, kẻ già cả, Được tuổi cao tác lớn
hơn cha của ông.
11. Sự an ủy của Đức chúa Trời, và lời êm dịu nói cho ông nghe, Há là điều nhỏ
mọn cho ông sao?
12. Nhân sao ḷng ông bức tức, Và mắt ông ngó chớp lách?
13. Cớ ǵ mà tâm thần ông phản đối cùng Đức Chúa Trời, Khiến những lời dường ấy
ra khỏi miệng ông?
14. Loài người là chi, mà lại là thanh sạch? Kẻ do người nữ sanh ra là ǵ, mà
lại là công b́nh?
15. Ḱa, Đức Chúa Trời không tin cậy các thánh đồ Ngài, Đến đỗi các từng trời
cũng chẳng trong sạch trước mặt Ngài thay:
16. Phương chi một người gớm ghiếc và hư nát, Kẻ hay uống gian ác như nước!
17. Tôi sẽ dạy ông, ông hăy nghe tôi; Tôi sẽ thuật cho ông điều tôi đă thấy,
18. Là điều kẻ khôn ngoan tỏ ra theo tổ phụ ḿnh, Không giấu giếm;
19. Xứ đă được ban cho chúng mà thôi, Không có người ngoại bang nào được vào
giữa bọn họ:
20. Trọn đời người hung ác bị đau đớn cực ḷng, Số ít năm để dành cho kẻ hà
hiếp.
21. Tiếng hoảng kinh vang nơi lỗ tai người; Đương chừng lợi đặt, bẻ phá hoại sẽ
xông vào người.
22. Người tưởng không ra khỏi tăm tối được, Và có gươm ŕnh giết người đi.
23. Người đi chỗ nầy qua nơi nọ để t́m bánh, mà rằng: Bánh t́m ở đâu? Người biết
rằng ngày tăm tối đă sẵn bên ḿnh.
24. Sự gian nan buồn thảm làm cho người kinh hăi, Xông áp vào người như một vua
sẵn sàng chinh chiến
25. V́ người có giơ tay lên chống cự Đức Chúa Trời, Và cư xử cách kiêu ngạo với
Đấng Toàn năng.
26. Người núp dưới gu khiên, ngước thẳng cổ, và xông đến Chúa;
27. V́ người lấy sự ph́ béo che mặt ḿnh, Làm cho hai hông ḿnh ra mập mạp.
28. Người đă ở những thành bị phá hoại, Ở những nhà bỏ hoang, gần trở nên đổ
đống;
29. Người sẽ không trở nên giàu; của cải người cũng sẽ chẳng bền lâu, Và sản
nghiệp người sẽ chẳng lan ra trên đất.
30. Người sẽ chẳng được ra khỏi tối tăm; Ngọn lửa làm khô héo chồi của người, Và
người sẽ bị hơi thở miệng Chúa đem đi mất.
31. Ngươi chớ nên cậy sự hư không mà bị lừa dối; V́ sự hư không sẽ là phần
thưởng của người.
32. Sự nầy sẽ trọn vẹn trước nhựt kỳ người chưa xảy đến, C̣n các nhành người sẽ
chẳng xanh tươi.
33. Người bỏ quây trái cây xanh ḿnh như một cây nho; Người làm rụng hoa ḿnh
như cây Ô li-ve.
34. V́ ḍng dơi kẻ vô đạo không sanh sản, Lửa sẽ tiêu diệt nhà trại kẻ ăn hối
lộ.
35. Họ thọ thai sự ác, bèn sanh ra điều hại tàn, Ḷng họ sắm sẵn những chước
gian.
Gióp 16
chọn đoạn khác
1. Gióp đáp rằng:
2. Ta thường nghe nhiều lời giảng luận như vậy; Các ngươi hết thảy đều là kẻ an
ủy bực bội.
3. Các lời hư không nầy há chẳng hề hết sao? Điều thúc giục ngươi đáp lời là ǵ?
4. Ta cũng dễ nói được như các ngươi nói; Nếu linh hồn các ngươi thế cho linh
hồn ta, Tất ta cũng sẽ kể thêm lời trách các nguơi, Và lắc đầu về các ngươi.
5. Nhưng ta sẽ lấy miệng ta giục ḷng các ngươi mạnh mẽ, Lời an ủy của môi ta sẽ
giảm bớt nơi đau đớn các ngươi.
6. Dẫu ta nói, đau đớn ta không được bớt; Tuy ta nín lặng, nó ĺa khỏi ta đâu?
7. Nhưng bây giờ, Đức Chúa Trời khiến ta mệt mỏi. Chúa đă tàn hại hết nhà của
tôi.
8. Chúa đă làm tôi đầy nhăn nhíu, ấy làm chứng đối nghịch cùng tôi; Sự ốm yếu
tôi dấy nghịch cùng tôi, cáo kiện tôi tại ngay mặt tôi.
9. Trong cơn thạnh nộ người xé tôi và bắt bớ tôi; Người nghiến răng nghịch tôi,
Kẻ cừu địch tôi trừng ngó tôi.
10. Chúng há miệng nghịch tôi, Vả má tôi cách khinh thị; Chúng hiệp nhau hăm
đánh tôi.
11. Đức Chúa Trời đă phó tôi cho kẻ vô đạo, Trao tôi vào tay kẻ gian ác.
12. Tôi xưa b́nh tịnh, Ngài bèn tàn hại tôi; Ngài có nắm cổ tôi, và bể nát tôi,
Cũng đặt tôi làm tấm bia cho Ngài.
13. Các mũi tên Ngài vây phủ tôi, Ngài bắn lưng hông tôi, không thương tiếc, Đổ
mặt tôi xuống đất.
14. Ngài làm cho tôi thương tích này trên thương tích kia, Xông vào tôi như một
kẻ mạnh bạo.
15. Tôi đă may cái bao trên da tôi, Tôi hạ mặt tôi xuống bụi đất.
16. Mặt tôi sưng đỏ lên v́ cớ khóc, Bóng sự chết ở nơi mí mắt tôi;
17. Mặc dầu tại trong tay tôi không có sự hung dữ, Và lời cầu nguyện tôi vốn
tinh sạch.
18. Ôi đất, chớ lấp huyết ta! Ước ǵ tiếng than kêu tôi không có chỗ ngưng lại!
19. Chánh giờ này, Đấng chứng tôi ở trên trời, Và Đấng bảo lănh cho tôi ở tại
nơi cao.
20. Các bạn hữu tôi nhạo báng tôi. Tôi c̣n hướng về Đức Chúa Trời mà khóc,
21. Để Ngài phân xử giữa loài người và Đức Chúa Trời, Giữa con cái loài người và
đồng loại nó!
22. V́ ít số năm c̣n phải đến, Rồi tôi sẽ đi con đường mà tôi chẳng hề trở lại.
Gióp 17
chọn đoạn khác
1. Hơi thở tôi bay đi; các ngày tôi hầu hết; Mồ mả dành cho tôi!
2. Kẻ cười nhạo vây chung quanh tôi, Mắt tôi hằng nom sự sỉ nhục của chúng nó.
3. Xin Chúa ban cho tôi một bằng cớ; hăy bảo lănh tôi bên Chúa; V́ ngoài Chúa ai
sẽ bảo lănh cho tôi?
4. V́ Chúa khiến ḷng chúng không thông sáng, Nên Chúa sẽ không cất chúng cao
lên.
5. Người nào nộp bằng hữu ḿnh cho bị cướp, Mắt của con cái nó sẽ bị hao ṃn.
6. Nhưng Đức Chúa Trời có làm tôi trở nên tục ngữ của dân sự, Chúng khạc nhổ nơi
mặt tôi.
7. Mắt tôi lư lờ v́ buồn rầu, tứ chi tôi thảy đều như một cái bóng.
8. Các người ngay thẳng đều sẽ lấy làm lạ, C̣n người vô tội sẽ nổi giận cùng kẻ
ác tệ.
9. Song người công b́nh sẽ bền vững trong đường lối ḿnh, Và người có tay tinh
sạch sẽ càng ngày càng được mạnh dạn.
10. Nhưng, hỡi các ngươi, hết thảy khá biện luận lại nữa; Song ta không thấy
trong các ngươi có ai khôn ngoan.
11. Các ngày tôi đă qua, Các mưu ư tôi, tức các thiết ư của ḷng tôi, đă bị
diệt.
12. Chúng lấy đêm trở làm ngày; Trước sự tối tăm, chúng nói rằng ánh sáng hầu
gần.
13. Nếu tôi trông cậy âm phủ làm nhà tôi, Nếu tôi đặt giường tôi tại nơi tối
tăm;
14. Ví tôi đă nói với cái huyệt rằng: Ngươi là cha ta; Với sâu bọ rằng: Các
ngươi là mẹ và chị ta,
15. Vậy th́ sự trông cậy tôi ở đâu? Sự trông cậy tôi, ai sẽ thấy nó được?
16. Khi tôi được an nghỉ trong bụi đất, Th́ sự trông cậy sẽ đi xuống cửa âm phủ.
Gióp 18
chọn đoạn khác
1. Binh-đát, người Su-a, bèn đáp rằng:
2. Ông gài bẫy bằng các lời ḿnh cho đến chừng nào? Hăy suy nghĩ, rồi chúng tôi
sẽ nói.
3. Nhân sao chúng tôi bị coi như thú vật, Và ngu dại trước mặt ông?
4. Ông nổi giận bèn xẻ rạch ḿnh, Há v́ ông mà trái đất sẽ bị bỏ hoang, Và ḥn
đá phải dời đi khỏi chỗ nó sao?
5. Thật ánh sáng kẻ ác sẽ tắt đi, Ngọn lửa của hắn không chói nữa.
6. Ánh sáng sẽ mờ tối trong trại hắn, Ngọn đèn hắn sẽ tắt ở bên hắn.
7. Các bước mạnh bạo hắn sẽ bị cuồng đi, Chánh các mưu chước người sẽ đánh đổ
người.
8. V́ hắn bị chơn ḿnh hăm vào cái bẩy, Và đi trên mảnh lưới.
9. Cái bẩy sẽ thắt lưng hắn nơi gót chân, Và ḍ lưới sẽ bắt nó.
10. Có sợi dây khuất dưới đất, Và cái bẫy ẩn tại trên đường để hăm lấy nó.
11. Từ bốn phía sự kinh khủng sẽ làm cho hắn bối rối, Xô đẩy người đây đó, buộc
vấn bước người.
12. Sức lực hắn v́ đói khát sẽ ra yếu, Và tai họa chực sẵn ở bên cạnh người.
13. Các chi thể hắn sẽ bị tiêu nuốt, Tất sẽ bị con đầu ḷng của sự chết tiêu
nuốt.
14. Hắn sẽ bị rút ra khỏi nhà trại ḿnh, là nơi hắn nương cậy; Đoạn bị dẫn đến
vua của sự kinh khiếp.
15. Kẻ chẳng thuộc về hắn sẽ ở trong trại hắn, C̣n diêm sanh sẽ rải ra trên chỗ
ở của nó.
16. Ở dưới th́ rễ hắn khô héo, ở trên lại bị chặt nhành.
17. Kỷ niệm hắn sẽ diệt khỏi thế gian, Danh hắn không lưu lại trên mặt đất.
18. Hắn bị xô đuổi khỏi ánh sáng mà vào tối tăm, Và người ta khu trục nó khỏi
thế gian.
19. Hắn sẽ chẳng có con cháu giữa dân sự ḿnh, Cũng không có ai c̣n sống tại
trong nơi ở ḿnh.
20. Những người hậu sanh sẽ lấy làm sững sờ về ngày của hắn, Y như kẻ tiền bối
đă lấy làm kinh khiếp.
21. Quả thật đó là nơi ở của kẻ bất công, Và ấy là chốn của người không biết Đức
Chúa Trời.
Gióp 19
chọn đoạn khác
1. Gióp bèn đáp lời rằng:
2. Các ngươi làm buồn ḷng ta đến chừng nào, Và lấy lời giảng luận khiến cực
nhọc ta đến bao giờ?
3. Ḱa đă mười lần các ngươi quở trách ta, Bạc đăi ta mà không mắc cỡ.
4. Dầu ta có thật lầm lỗi thế nào, Sự lỗi ta vẫn ở nơi ta.
5. Nếu thật các ngươi muốn tự cao đối cùng ta, Lấy sự sỉ nhục ta mà trách móc
ta,
6. Vậy, hăy biết rằng ấy Đức Chúa Trời đă đánh đổ ta, Và giang lưới Ngài chung
quanh ta.
7. Nầy tôi kêu la về sự hung bạo, song tôi chẳng đặng nhậm lời. Tôi kêu cầu tiếp
cứu, bèn không có sự công b́nh.
8. Chúa có chận đường tôi, tôi chẳng đi qua được. Ngài có để tăm tối trên đường
lối tôi.
9. Ngài có bóc lột sự vinh quang tôi, Và cất măo triều khỏi đầu tôi.
10. Ngài có làm đồi tệ tôi tứ phía, và tôi hư mất đi; Ngài rứt nhổ sự trông cậy
tôi như cây cối.
11. Ngài cũng nổi thạnh nộ cùng tôi, Cầm tôi là một kẻ cừu địch Ngài.
12. Các đạo binh Ngài đă cùng nhau kéo tới, Đắp đường họ để đến hăm đánh tôi, Và
đóng ở chung quanh trại tôi.
13. Ngài khiến các anh em tôi ĺa xa tôi, Và những người quen biết tôi trở nên
kẻ lạ.
14. Các thân thích đều ĺa bỏ tôi, Các mật hữu tôi đă quên tôi.
15. Những kẻ ở trong nhà tôi, và các tớ gái tôi đăi tôi như một khách lạ, Trước
mặt chúng, tôi đă trở thành một người ngoài.
16. Tôi gọi kẻ tôi tớ tôi, mà nó không thưa, Dẫu tôi lấy miệng ḿnh nài xin nó
cũng vậy.
17. Hơi thở tôi làm gớm ghiếc cho vợ tôi, Và con trai của mẹ tôi ghét lời cầu
khẩn tôi.
18. Đến đỗi những đứa trẻ cũng khi tôi; Nếu tôi chổi dậy, chúng nó nhạo báng
tôi.
19. Các bạn thân thiết đều gớm ghét tôi, Những người tôi thương mến đă trở
nghịch tôi.
20. Xương cốt tôi sát vào da và thịt tôi, Tôi đă thoát được chỉ c̣n da bọc răng
tôi mà thôi.
21. Hỡi các bằng hữu tôi, hăy thương xót tôi, hăy thương xót tôi! V́ tay của Đức
Chúa Trời đă đánh tôi.
22. Cớ sao các bạn bắt bớ tôi như Đức Chúa Trời, Và chưa no nê thịt tôi sao?
23. Ôi! Chớ chi các lời tôi đă biên chép! Ước ǵ nó được ghi trong một quyển
sách!
24. Chớ ǵ lấy cây biết bằng sắt và ch́, Mà khắc nó trên đá lưu đến đời đời!
25. C̣n tôi, tôi biết rằng Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống, Đến lúc cuối cùng Ngài
sẽ đứng trên đất.
26. Sau khi da tôi, tức xác thịt nầy, đă bị tan nát, Bấy giờ loài xác thịt tôi
sẽ xem thấy Đức Chúa Trời;
27. Chánh tôi sẽ thấy Ngài, Mắt tôi sẽ nh́n xem Ngài, chớ chẳng phải kẻ khác:
Ḷng tôi hao ṃn trong ḿnh tôi.
28. Nếu các bạn nói rằng: Chúng ta sẽ khuấy rầy người làm sao? Và rằng căn
nguyên tai họa vốn t́m tại trong tôi,
29. Khá sợ mũi gươm, V́ gươm là một khí giới hung tàn phạt tôi gian ác, Để các
bạn biết rằng có sự phán xét.
Gióp 20
chọn đoạn khác
1. Xô-pha, người Na-a-ma, bèn đáp rằng:
2. V́ cớ ấy tư tưởng tôi chỉ dạy cho tôi lời đáp, Và tại lời đó, tâm thần tôi bị
cảm động trong ḿnh tôi.
3. Tôi đă nghe lời trách móc làm hổ thẹn tôi; Trí khôn tôi lấy sự thông minh mà
đáp lời.
4. Hăy biết rơ rằng, từ đời xưa, Từ khi loài người được đặt nơi thế gian,
5. Th́ sự thắng hơn của kẻ ác không có lâu, Và sự vui mừng của kẻ vô đạo chỉ một
lúc mà thôi.
6. Dầu sự kiêu căng nó cất lên đến tận trời, Dầu cho đầu nó đụng chí mây,
7. Th́ nó sẽ bị tiêu diệt đời đời như phân bón nó; Những người đă thấy nó sẽ hỏi
rằng: Nó ở đâu?
8. Nó bay đi như một cơn chiêm bao, không ai gặp nó lại; Thật, nó sẽ biết mất
như dị tượng ban đêm.
9. Con mắt đă thường xem nó, sẽ không thấy nó lại, Nơi nó ở cũng sẽ chẳng c̣n
nữa.
10. Con cái nó sẽ cầu ơn kẻ nghèo, Và tay nó sẽ thường lại tài sản mà sự hung
bạo nó đă cướp giựt.
11. Tứ chi nó đầy sức lực của buổi đang th́; Nhưng sẽ nằm chung với nó trong bụi
đất;
12. Dẫu sự ác lấy làm ngọt ngào cho miệng nó, Dẫu ẩn dưới lưỡi hắn,
13. Dẫu hắn tríu mến sự ác, không từ bỏ nó, Nhưng giữ nó lại trong miệng ḿnh,
14. Th́ vật thực nó sẽ biến nơi can tràng, Và thành ra mật rắn hổ trong bụng nó.
15. Nó có nuốt của cải, rồi lại mửa ra; Đức chúa Trời sẽ tống của ấy ra khỏi
bụng nó.
16. Nó sẽ mút nọc rắn hổ; Lưỡi của rắn lục sẽ giết nó.
17. Nó sẽ chẳng thấy sông và ḍng chảy mật cùng mỡ sữa ra.
18. Nó phải trả hoa lợi về công việc ḿnh, không được nuốt nó; Phải thường lăi
tùy theo giá nó, Không được hưởng của ấy.
19. V́ nó có hà hiếp, bỏ bê kẻ nghèo, Cướp lấy nhà cửa, mà nó không có xây cất.
20. Bởi v́ nó không biết an tịnh trong ḿnh, Nó sẽ chẳng được bảo thủ ǵ về các
điều ḿnh ưa thích hơn hết.
21. Chẳng chi thoát khỏi sự mê ăn của nó; Cho nên sự may mắn nó chẳng bền lâu.
22. Đương khi dư dật, nó sẽ bị cùng túng; Các người khốn khổ sẽ tra tay vào ḿnh
nó.
23. Đức Chúa Trời sẽ sai thạnh nộ Ngài hăm ḿnh nó, Đặng làm cho ḷng nó đầy
dẫy, Ngài sẽ giáng cơn giận Ngài trên ḿnh nó, chánh trong lúc nó ăn bữa.
24. Nó sẽ trốn lánh khỏi khí giới sắt, C̣n cây cung đồng sẽ xoi lũng nó.
25. Nó nhổ tên ra khỏi thân nó, Mũi gươm bóng ngời rút ra khỏi gan nó; Các sự
kinh khiếp hăm áp nó.
26. Cả sự tối tăm đă dành làm bửu vật cho nó; Lửa người ta không thổi sẽ thiêu
đốt nó, Và kẻ c̣n sót lại trong trại nó sẽ bị tiêu diệt đi.
27. Các từng trời sẽ bày tỏ gian ác nó ra, Và đất sẽ dấy lên nghịch cùng nó.
28. Hoa lợi của nhà nó sẽ bị đem đi mất, Tài sản nó sẽ bị trôi đi trong ngày
thạnh nộ của Chúa.
29. Đó là phần mà Đức Chúa Trời dành cho kẻ hung ác, Và ấy là cơ nghiệp mà Ngài
định cho nó.
Gióp 21
chọn đoạn khác
1. Gióp đáp rằng:
2. Hăy nghe kỹ càng lời giảng luận tôi; Th́ điều đó sẽ thế cho sự an ủy của các
bạn.
3. Hăy nhịn nhục tôi, để tôi nói: Sau khi tôi đă nói, các bạn hăy cứ nhạo báng
đi.
4. C̣n về phần tôi, than van tôi há hướng về loài người sao? Nhơn sao trí tôi
không hết nhịn nhục?
5. Hăy xem xét tôi, và lấy làm lạ; Khá lấy tay bụm miệng ḿnh.
6. Khi nào tôi nhớ lại, tôi bèn bị kinh hoảng, Rởn óc cả và thịt tôi.
7. Cớ sao kẻ gian ác sống, Trở nên già cả và quyền thế cường thạnh?
8. Ḍng dơi chúng nó thành lập có mắt chúng nó thấy, Và con cháu họ ở trước mặt
họ.
9. Nhà của chúng nó được b́nh yên, không sợ ǵ, Roi của Đức Chúa trời chẳng đánh
ḿnh chúng nó.
10. Ḅ đực chúng nó sanh sảnh không hề thiếu kém, Ḅ cái họ sanh đẻ không có
sảo.
11. Chúng nó cho các đứa trẻ ḿnh đi ra như một bầy chiên, Và con cái họ giỡn
chơi nhau.
12. Hát múa theo tiếng trống nhỏ và đờn cầm, Và vui mừng theo tiếng kèn sáo.
13. Chúng nó may mắn trải qua các ngày đời ḿnh, Rồi bỗng chốc sa xuống âm phủ.
14. Chúng nó nói với Đức Chúa Trời rằng: "Ngài hăy ĺa xa chúng tôi, V́ chúng
tôi không muốn biết đạo của Ngài."
15. Đấng Toàn năng là chi, mà chúng tôi phải phục sự Ngài? Nếu chúng tôi cầu
khẩn Ngài th́ được ích ǵ?
16. Ḱa sự may mắn chúng nó chẳng ở nơi tay chúng nó: Các mưu chước kẻ ác cách
xa tôi.
17. Cái đèn kẻ ác tắt, Tai họa giáng trên chúng nó, Và trong cơn thạnh nộ, Đức
Chúa Trời phân phát đau đớn cho chúng nó, Điều đó há có thường xảy đến sao?
18. Há năng xảy ra chúng nó phải như rơm trước gió, Như trấu bị băo cất đi sao?
19. Các bạn nói rằng: Đức Chúa Trời dành sự h́nh phạt về hung ác nó cho con cái
nó. Đức Chúa Trời khá báo cho chính ḿnh nó, để nó biết:
20. Khá chính con mắt hắn xem thấy điều hư hoại ḿnh, Và uống được sự thạnh nộ
của Đấng Toàn năng.
21. V́ khi số ngày định cho nó đă hết rồi, Nó nào kể chi đến gia quyến sau nó?
22. Đức Chúa Trời xét đoán những người cao vị; Vậy, người ta há sẽ dạy tri thức
cho Ngài sao?
23. Kẻ nầy thác giữa chừng mạnh mẽ, Được thanh nhàn và b́nh an mọi bề;
24. Hai b́nh người đầy sữa, Và tủy xương người nhuần đượm.
25. Kẻ khác lại chết giữa chừng cay đắng linh hồn, Chẳng hề được nếm điều phước
hạnh ǵ hết.
26. Cả hai đều nằm chung trong bụi đất, Gịi sâu che lấp họ.
27. Nầy, tôi biết ư tưởng các bạn toan dùng đặng làm tàn hại tôi.
28. V́ các bạn nói rằng: "Nhà kẻ cường bạo ở đâu? Trại kẻ ác ở nơi nào?"
29. Chớ th́ các bạn chẳng hề hỏi khách qua đường sao? Há chẳng nhờ chứng cớ của
họ mà nh́n biết rằng,
30. Trong ngày tai họa, kẻ hung ác được khỏi, Và trong ngày thạnh nộ, nó được
thoát?
31. Tại trước mặt hắn, ai dám trách hắn v́ tánh hạnh hắn? Ai sẽ báo ứng điều hắn
đă làm?
32. Nó sẽ được đưa đến huyệt mả, Và người ta sẽ canh giữ phần mộ nó.
33. Các cục đất của trũng lấy làm êm dịu cho nó; Mọi người đều đi noi theo, Và
kẻ đi trước th́ vô số.
34. Vậy, sao các bạn an ủy tôi vô ích dường ấy? V́ những câu đáp của các bạn chỉ
c̣n sự bất trung mà thôi.
Gióp 22
chọn đoạn khác
1. Ê-li-pha, người Thê-man, bèn đáp rằng:
2. Loài người có ích lợi chi cho Đức Chúa Trời chăng? Người khôn ngoan chỉ ích
lợi cho chính ḿnh ḿnh mà thôi.
3. Dầu ông công b́nh, Đấng Toàn năng có vui chi chăng? tánh hạnh ông trọn vẹn,
ấy được ích lợi ǵ cho Ngài sao?
4. Có phải v́ Ngài sợ ông nên Ngài trách phạt, Và xét đoán ông chăng?
5. Sự dữ của ông há chẳng phải lớn sao? Các tội ác ông há không phải vô cùng ư?
6. V́ ông đă lấy của cầm của anh em ḿnh vô cớ, Và lột quần áo của kẻ bị trần
truồng.
7. Ông không cho kẻ khát xin nước uống, Chẳng ban cho người đói bánh ăn.
8. C̣n người cường thạnh, đất tất thuộc về người; Ai được nể v́ đă ở tại đó.
9. Ông có đuổi kẻ góa bụa đi tay không, Bẻ găy nơi nương nhờ của kẻ mồ côi.
10. Bởi cớ ấy, ông bị bẫy bao vây, Và sự kinh khủng th́nh ĺnh làm ông rối cực;
11. Hoặc tối tăm ngăn cản cho ông không thấy, Và nước tràn ch́m ngập ông.
12. Đức Chúa Trời há chẳng phải cao như các từng trời cao kia sao? Hăy xem chót
các ngôi sao: cao biết bao nhiêu!
13. C̣n ông nói: Đức Chúa Trời biết điều ǵ? Ngài có thể xét đoán ngang qua tăm
tối đen kịch sao?
14. Đám mây mịt mịt che phủ Ngài, nên Ngài chẳng thấy; Ngài bước đi trên bầu các
từng trời.
15. Ông sẽ giữ theo lối xưa, Mà các kẻ gian ác đă đi sao?
16. Chúng nó bị truất diệt trước kỳ định, Cái nền họ bị ḍng nước đánh trôi đi;
17. Chúng nó nói với Đức Chúa Trời rằng: Chúa hăy ĺa khỏi chúng tôi; Lại rằng:
Đấng Toàn năng sẽ làm được ǵ cho chúng ta?
18. Dẫu vậy, Ngài có làm cho nhà họ đầy vật tốt: Nguyện các mưu chước kẻ ác hăy
cách xa tôi!
19. Người công b́nh thấy điều đó, và vui mừng; C̣n người vô tội sẽ nhạo báng
chúng nó, mà rằng:
20. Kẻ dấy lên cùng chúng tôi quả hẳn bị diệt, Và kẻ sót lại của chúng lửa đă
thiêu đốt đi.
21. Ấy vậy, ông hăy ḥa thuận với Ngài. Hăy ở b́nh an: nhờ đó phước hạnh sẽ
giáng cho ông.
22. Hăy nhận lănh luật pháp từ nơi miệng của Ngài. Và để các lời Ngài vào ḷng
của ḿnh.
23. Nếu ông trở lại cùng Đấng Toàn năng, tất ông sẽ được lập lại. Nếu ông trừ bỏ
sự gian ác khỏi trại ḿnh,
24. Ném bửu vật ḿnh vào bụi đất, Và quăng vàng Ô phia giữa các ḥn đá của khe,
25. Th́ Đấng Toàn năng sẽ là bửu vật của ông, Ngài sẽ là bạc quí cho ông.
26. V́ bấy giờ, ông sẽ được vui sướng nơi Đấng Toàn năng, Và được ngước mắt lên
cùng Đức Chúa Trời.
27. Tôi sẽ cầu khẩn cùng Ngài, Ngài sẽ nghe lời ḿnh, Và ông sẽ trả xong lời
khẩn nguyện ḿnh.
28. Nếu ông nhứt định việc ǵ, việc ấy chắc sẽ được thành; Ánh sáng sẽ chói trên
đường lối ḿnh.
29. Khi người ta gây cho ḿnh bị hạ xuống, th́ ông sẽ nói rằng: Hăy chổi lên!
C̣n kẻ khiêm nhường Đức Chúa Trời sẽ cứu rỗi;
30. Đến đỗi Ngài sẽ giải cứu kẻ có tội; Thật, kẻ ấy sẽ nhờ sự thanh sạch của tay
ông mà đước cứu.
Gióp 23
chọn đoạn khác
1. Gióp đáp rằng:
2. Cho đến ngày nay, sự than siết tôi hăy c̣n cay đắng, Tay đè trên tôi nặng hơn
sự rên siết tôi.
3. Ôi! Chớ chi tôi biết nơi nào t́m được Chúa, Hầu cho đi đến trước ṭa của
Ngài?
4. Tôi hẳn sẽ giăi bày duyên cớ tôi trước mặt Ngài, Và làm đầy miệng tôi những
lư luận.
5. Tôi sẽ biết các lời Ngài đáp lại cho tôi, Và hiểu điều Ngài muốn phán cùng
tôi.
6. Chúa há sẽ lấy quyền năng lớn lao Ngài mà tranh luận với tôi sao? Không, Ngài
sẽ chú ư về tôi.
7. Tại đó người ngay thẳng sẽ luận biện với Ngài, Và tôi được thoát khỏi kẻ đoán
xét tôi đến măi măi.
8. Nầy, tôi đi tới trước, nhưng không có Ngài tại đó; Tôi đi lại sau, song tôi
cũng chẳng nh́n thấy Ngài;
9. Qua phía tả, khi Ngài đương làm công việc đó, song tôi không phân biệt Ngài
được; Ngài ẩn tại phía hữu, nên tôi chẳng thấy Ngài.
10. Nhưng Chúa biết con đường tôi đi; Khi Ngài đă thử rèn tôi, tôi sẽ ra như
vàng.
11. Chơn tôi bén theo bước Chúa; Tôi giữ đi theo đường Ngài, chẳng hề sai lệch.
12. Tôi chẳng hề ĺa bỏ các điều răn của môi Ngài, Vẫn vâng theo lời của miệng
Ngài hơn là ư muốn ḷng tôi.
13. Nhưng Chúa đă một ư nhứt định, ai làm cho Ngài đổi được? Điều ǵ ḷng Ngài
muốn, ắt Ngài làm cho thành:
14. Điều Ngài đă nhứt định cho tôi, tất Ngài sẽ làm cho xong: Trong ḷng Ngài
c̣n có lắm điều khác giống như vậy.
15. Bởi cớ ấy, tôi kinh khủng trước mặt Ngài; Khi nào tôi tưởng đến, bèn sợ hăi
Ngài.
16. V́ Đức Chúa Trời khiến ḷng tôi bủn rủn, Đấng Toàn năng làm cho tôi hoảng
sợ;
17. V́ tôi chẳng sợ sệt bởi sự tối tăm, Cũng chẳng sợ hăi v́ u ám mù mịt che phủ
mặt tôi.
Gióp 24
chọn đoạn khác
1. Nhân v́ Đấng Toàn năng đă định kỳ phạt ác, Cớ sao Ngài không khiến kẻ nhận
biết Ngài được thấy ngày ấy?
2. Có người dời sụt mộc giới, Ăn cắp bầy chiên, rồi dẫn cho ăn.
3. Chúng cướp dẫn lừa của kẻ mồ côi, Lấy ḅ của người góa bụa làm của cầm.
4. Chúng khiến kẻ nghèo ĺa bỏ đường chánh đáng, Kẻ khốn cùng của thế gian đồng
nhau đi ẩn tránh.
5. Ḱa, vừa sớm mai chúng đi ra làm công việc ḿnh, T́m lương thực ḿnh, như lừa
rừng nơi đồng vắng; Đồng vắng cấp thực vật cho con cái chúng nó.
6. Chúng nó thâu góp rơm cỏ tại trong đồng ruộng, Mót trái nho trong vườn của kẻ
là ác.
7. Trọn đêm chúng nó nằm trần truồng không quần áo, Và chẳng có mềm đắp khỏi
lạnh.
8. Chúng nó bị dầm mưa núi, Không nơi đụt, bèn nép ḿnh vào ḥn đá.
9. Có người cướp kẻ mồ côi cha c̣n bú; Bắt thế chưng áo trên ḿnh kẻ nghèo;
10. Đến đỗi người nghèo phải đi trần không áo, Vác những bó lúa, mà bị đói.
11. Chúng ép dầu trong kho chủ ḿnh, Đạp trái nho nơi thùng, mà bị khát.
12. Từ trong thành nổi lên tiếng thở than của người ta, Linh hồn kẻ bị thương
kêu van; Song Đức Chúa Trời không kể đến tội ác vẫn phạm tại đó.
13. Cũng có kẻ khác thù nghịch với ánh sáng; Không biết đạo của ánh sáng, Và
chẳng đi trong con đường nó.
14. Vừa rạng ngày kẻ giết người chổi dậy, Giết kẻ nghèo khổ và túng cùng; C̣n
ban đêm nó như kẻ trộm.
15. Mắt kẻ hành dâm cũng trông ngóng khi chập tối, Mà nói rằng: "Chẳng một mắt
ai sẽ thấy tôi", Và nó che kín mặt ḿnh.
16. Đương đêm tối tăm chúng nó khoét nhà, Ban ngày lại rút ẩn mất; Chúng nó
chẳng biết ánh sáng.
17. Buổi sáng vốn là bóng chết cho chúng nó thay thảy, V́ chúng nó biết sự kinh
hăi về bóng sự chết,
18. Chúng nó qua chong chóng như vật nhẹ trôi nơi mặt nước; Phần nghiệp họ bị
rủa sả tại trên đất; Chẳng c̣n trở về lối vườn nho nữa.
19. Sự khô hạn và sự nắng tiêu tan nước tuyết đi; âm phủ cũng làm như vậy cho
những kẻ có tội.
20. Ḷng mẹ sẽ quên chúng nó đi; Các sâu bọ ăn ngon chúng nó; Người ta không c̣n
nhớ họ nữa; Và sự gian ác sẽ bị bẻ gẫy ra như cây cối.
21. Chúng nó cướp giựt người đờn bà son sẻ, không sanh con, Chẳng làm điều lành
cho người góa bụa.
22. Song Đức Chúa Trời lấy quyền năng Ngài mà bảo toàn người thế lực; Ngài đỡ
lên kẻ hết trông được bảo tồn mạng sống ḿnh.
23. Đức Chúa Trời ban cho chúng sự vững vàng, chúng nương cậy nơi sự ấy; Nhưng
con mắt Ngài coi chừng đường lối của chúng.
24. Chúng được cao trọng; đoạn một ít lâu, chẳng c̣n nữa. Chúng ngă xuống, bị
cất đem đi như mọi người khác; Họ bị cắt như ngọn gié lúa vậy.
25. Nếu điều đó chẳng vậy, ai bắt lẽ tôi nói dối, Và diệt lời giảng luận tôi ra
hư không?
Gióp 25
chọn đoạn khác
1. Binh-đát, người Su-a, bèn đáp rằng:
2. Quyền quản trị và sự sợ hăi thuộc về Chúa: Ngài khiến ḥa b́nh trong các nơi
cao của ngài.
3. Ai cai được số của đạo binh Chúa? Có ai mà ánh sáng Ngài không chói đến sao?
4. Làm sao loài người được công b́nh trước mặt Đức chúa Trời? Kẻ nào bị người nữ
sanh ra, sao cho là trong sạch được?
5. Ḱa, mặt trăng không chiếu sáng, Các ngôi sao chẳng tinh sạch tại trước mặt
Ngài thay:
6. Phương chi loài người vốn giống như con sâu, Và con cái loài người giống như
một con gịi bọ!
Gióp 26
chọn đoạn khác
1. Gióp cất tiếng đáp rằng:
2. Ngươi đă phù trợ kẻ không quyền dường nào! Tiếp cứu cánh tay chẳng sức lực,
3. Khuyên luận kẻ vô tri, Và tỏ biết bao sự khôn sáng chơn thật!
4. Người đă giảng luận cho ai? Linh hồn của ai bởi người mà ra?
5. Kẻ qua đời run rảy Dưới nước lớn, và muôn vật ở đó cũng vậy.
6. Âm phủ bày lộ ra trước mặt Đức Chúa Trời, Và vực sâu không màn che khuất,
7. Chúa trải bắc cực ra trên vùng trống, Treo trái đất trong khoảng không không.
8. Ngài ém nước trong các áng mây Ngài, Mà áng mây không bứt ra v́ nước ấy.
9. Ngài che khuất bề mặt của ngai Ngài, Và trải mây Ngài ở trên nó.
10. Ngài đă vẽ một ṿng tṛn trên mặt nước, Cho đến nơi giới cực của ánh sáng và
tối tăm giáp nhau.
11. Nhưng trụ của các từng trời rúng động, Và sững sờ khi Đức Chúa Trời hăm dọa.
12. Ngài lấy quyền năng ḿnh mà khiến biển dậy lên, Và nhờ sự khôn ngoan ḿnh mà
đánh vỡ Ra-háp.
13. Thần Chúa điểm trang các từng trời; Tay Chúa đấm lũng rắn thoảng qua lẹ.
14. Ḱa, ấy chỉ là biên giới của các đường lối Ngài; Ta được nghe tiếng nói về
Chúa xầm x́ nhỏ thay! Nhưng ai hiểu rơ tiếng sấm của quyền năng Ngài?
Gióp 27
chọn đoạn khác
1. Gióp tiếp nói lẽ luận cao ḿnh, mà rằng:
2. Đức Chúa Trời đă đoạt lấy lư tôi, Đấng Toàn năng khiến linh hồn tôi bị cay
đắng, Tôi chỉ sanh mạng của Ngài mà thề rằng:
3. Hễ hơi thở tôi c̣n ở ḿnh tôi, Và sanh khí của Đức Chúa Trời c̣n trong lỗ mũi
tôi,
4. Quả hẳn môi tôi sẽ chẳng nói sự gian ác, Lưỡi tôi cũng không giảng ra điều
giả dối.
5. Khi tôi đoán xét, không thể nào cho các bạn là phải! Cho đến kỳ chết, tôi
chẳng hề thôi quả quyết rằng tôi trọn vẹn.
6. Tôi giữ chặt sự công b́nh ḿnh, không rời bỏ nó; Trọn đời tôi, ḷng tôi sẽ
chẳng cáo trách tôi.
7. Ước ǵ cừu địch tôi bị xử như kẻ ác, Và kẻ dấy lên nghịch cùng tôi bị cầm như
kẻ trái lẽ công b́nh.
8. Dầu kẻ ác được tài sản, Đức Chúa Trời cất lấy linh hồn nó đi; Vậy, sự trông
cậy kẻ ác là ǵ?
9. Khi sự hoạn nạn xảy đến cùng hắn, Đức Chúa Trời há sẽ nghe tiếng của hắn sao?
10. Có phải hắn sẽ t́m được sự vui sướng ḿnh nơi Đấng Toàn năng, Và thường
thường cầu khẩn Đức Chúa trời sao?
11. Tôi sẽ chỉ dạy cho các bạn việc tay Đức Chúa Trời làm, Không giấu các bạn ư
của Đấng Toàn năng.
12. Nầy, chánh các bạn đă thấy điều đó, Vậy, nhơn sao c̣n có những tư tưởng hư
không kia?
13. Này là phần mà Đức Chúa Trời định cho kẻ ác, Và cơ nghiệp của kẻ cường bạo
nhận lănh từ Đấng Toàn năng:
14. Nếu con cái hắn thêm nhiều, ấy để cho gươm giết; C̣n ḍng dơi hắn ắt không
ăn cho no nê được.
15. Kẻ c̣n sống sót lại của hắn bị sự chết vùi dập, Và người góa bụa hắn sẽ
không than khóc.
16. Dẫu hắn có thâu góp bạc tiền như cát bụi, Sắm sửa quần áo nhiều như bùn;
17. Thật hắn sắm sửa, song rồi ra người công b́nh sẽ mặc lấy, C̣n bạc, kẻ vô tội
sẽ chia nhau.
18. Người cất nhà ḿnh như ổ sâu trùng, Như cḥi mà người giữ vườn nho thường
cất.
19. Hắn nằm xuống giàu có, song sẽ chẳng được liệm; Nó mở con mắt ra, bèn chẳng
c̣n nữa.
20. Sự kinh khiếp th́nh ĺnh áp vào hắn như thể nước lụt; Băo tố đoạt lấy hắn
trong lúc ban đêm.
21. Gió đông đem hắn đi, bèn biệt mất; Một luồng dông lớn rứt hắn đi khỏi chổ
hắn.
22. Đức Chúa Trời giáng tai vạ trên ḿnh hắn, chẳng thương xót lấy; Hắn rất muốn
chạy trốn khỏi tay Ngài.
23. Người ta sẽ vỗ tay mừng về việc hắn; Và hút gió đuổi hắn khỏi chỗ ở của hắn.
Gióp 28
chọn đoạn khác
1. Bạc có mỏ để người ta đào lấy nó, Và vàng có nơi người ta luyện nó.
2. Sắt từ nơi đất lấy ra, Đá đúc chảy ra mà lấy được đồng.
3. Loài người làm tan tăm tối, Ḍ xét đến cùng tột, Ḥn đá ở nơi âm ẩm tối tăm
đen kịch.
4. Người ta đào mỏ xa chỗ loài người ở trên thế, Tại trong nơi vắng vẻ không
chơn người đi đến; Chúng bị treo và đ̣ng đưa xa cách loài người,
5. Đất sanh ra lương thực, C̣n ở bên dưới nó dường như bị lửa xao lộn.
6. Các đá nó là chỗ có ngọc bích, Người ta t́m được mạt vàng tại đó.
7. Chim ăn mồi chẳng biết đường lối nầy; Mắt chim ưng không t́m nó ra được;
8. Thú dữ không hề bước trên nó, Sư tử chẳng có đi ngang qua đó.
9. Loài người tra tay trên ḥn đá cứng, Đánh đổ các núi từ nơi nền của nó.
10. Người đục hang trong ḥn đá, Mắt nó t́m được mọi bửu vật ở trong.
11. Người ngăn nước sông để chẳng rịnh ra; Đem ra sáng điều chi ẩn bí.
12. C̣n sự khôn ngoan t́m được ở đâu? Tại nơi nào có sự thông sáng?
13. Người ta chẳng biết được giá trị nó; Nó không ở tại trên đất của loài sống.
14. Vực sâu rằng: Nó chẳng có trong tôi, Và biển rằng: Nó không ở cùng tôi.
15. Chẳng dùng vàng ṛng đổi lấy nó đặng, Cũng không hề cân bạc mà mua được nó.
16. Người ta không đánh giá nó với vàng Ô-phia, Hoặc với ngọc hồng mă năo hay là
với ngọc bích.
17. Chẳng sánh nó được với vàng hay là pha lê, Cũng không đổi nó để lấy khí dụng
bằng vàng ṛng.
18. C̣n san hô và thủy tinh, th́ chẳng cần nói đến; Giá trị sự khôn ngoan thật
cao hơn châu báu.
19. Ngọc sắc vàng Ê-thi-Ô bi nào sánh cùng nó được đâu; Cũng không hề đánh giá
nó với vàng ṛng.
20. Vậy th́ sự khôn ngoan ở đâu đến? Sự thông sáng ở tại nơi nào?
21. Nó vẫn giấu khuất mắt các loài sống. Và tránh ẩn các chim trời.
22. Chốn trầm luân và sự chết nói rằng: Lỗ tai chúng tôi có nghe tiếng đồn về
nó.
23. Đức Chúa Trời thông hiểu con đường nó, Và rơ biết chỗ ở của nó.
24. V́ Ngài nh́n thấu tận các đầu thế gian, Và thấy rơ khắp thiên hạ.
25. Khi Ngài định sức nặng cho gió, độ lượng cho các nước,
26. Định luật lệ cho mưa, Và lập đường lối cho chớp và sấm.
27. Bấy giờ Ngài thấy sự khôn ngoan, và bày tỏ nó ra, Ngài lập nó và ḍ xét nó
nữa;
28. Đoạn, phán với loài nguời rằng: Kính sợ Chúa, ấy là sự khôn ngoan; Tránh
khỏi điều ác, ấy là sự thông sáng.
Gióp 29
chọn đoạn khác
1. Gióp cứ nói lẽ luận cao ḿnh, mà rằng:
2. Ôi! Ước ǵ tôi được như buổi trước, Như trong các ngày mà Đức Chúa Trời ǵn
giữ tôi;
3. Khi ngọn đuốc Chúa soi trên đầu tôi; Và nhờ ánh sáng Ngài, tôi bước qua sự
tối tăm.
4. Chớ chi tôi được như lúc c̣n tráng kiệt, Khi t́nh thiệt hữu của Đức Chúa Trời
c̣n đoái đến trại tôi;
5. Khi Đấng Toàn năng c̣n ở cùng tôi, Và các con cái tôi vây quanh tôi;
6. Lúc tôi rửa chơn trong sữa, Và ḥn đá phun suối dầu ra cho tôi!
7. Khi tôi đi ra đến cửa thành, Sửa soạn chỗ ngồi ḿnh tại phố chợ,
8. Các gă trai trẻ thấy tôi bèn ẩn đi, Và các người già cả đều chổi dậy và đứng;
9. Những quan trưởng kiêng nói, Và lấy tay bụm miệng;
10. Tiếng người tước vị nín thinh, Và lưỡi họ dính nơi ổ gà.
11. Khi tai ai nghe tôi, bèn xưng tôi có phước, Mắt ai thấy tôi, bèn làm chứng
cho tôi.
12. Ấy v́ tôi giải cứu kẻ khốn cùng kêu cầu, Và kẻ mồ côi không ai giúp đỡ.
13. Kẻ gần chết chúc phước cho tôi, Và tôi làm cho ḷng người góa bụa nức nở vui
mừng.
14. Tôi mặc lấy sự công b́nh, và nó che phủ tôi, Sự ngay thẳng tôi khác nào áo
ngoài và măo triều thiên.
15. Tôi đă như con mắt cho kẻ mù, Và như chơn cho kẻ què.
16. Tôi đă làm cha cho kẻ nghèo khó, C̣n duyên cớ của kẻ lạ, tôi tra xét cho rơ
ràng.
17. Tôi bẻ gẫy hàm kẻ bất công, Và rứt mồi nó ngậm nơi răng.
18. Tôi bèn nói rằng: Ta sẽ thác trong ổ của ta; Ngày ta sẽ nhiều như hột cát;
19. Rễ ta ḅ ăn dài theo nước, Và cả đêm sương đọng trên nhành ta.
20. Vinh hiển ta mới mẻ với ta luôn, Cung ta được cứng mạnh lại trong tay ta.
21. Người ta lắng tai nghe tôi, chờ đợi, Và làm thinh đặng nghe lời tôi bàn.
22. Sau khi tôi nói, chúng không c̣n đáp lại; Lời tôi nói gội nhuần trên chúng
(như sương).
23. Họ trông đợi tôi như trông đợi mưa, Hả miệng ra dường như hứng mưa muộn.
24. Tôi mỉm cười với chúng, khi chúng bị ngă ḷng; Họ chẳng hề làm rối nét mặt
b́nh tịnh tôi được.
25. Tôi chọn con đường cho chúng, và ngồi làm đầu họ, Ở như vua tại ở giữa quân
đội, Khác nào một kẻ an ủy những người sầu.
Gióp 30
chọn đoạn khác
1. Song bây giờ, kẻ trẻ tuổi hơn tôi nhạo báng tôi, Mà cha họ tôi đă khinh,
chẳng khứng để Chung với chó của bầy chiên tôi.
2. Sức mạnh của họ đă hư hại rồi; Vậy, sức lực tay họ dùng làm ích ǵ cho tôi?
3. Chúng ốm tong v́ bị đói kém thiếu thốn, đi gậm cạp đất khô hóc, Từ lâu đă bỏ
hoang vắng vẻ.
4. Chúng hái rau sam biển trong bụi cây, Rễ cây giêng giếng làm vật thực cho họ.
5. Chúng bị đuổi đi khỏi giữa loài người; Người ta kêu la chúng như kêu la kẻ
trộm.
6. Chúng phải ở trong trũng gớm ghê, Trong hang đất và giữa các ḥn đá.
7. Chúng tru thét giữa bụi cây, Nằm lộn lạo nhau dưới các lùm gai.
8. Chúng là con cái kẻ ngu xuẩn, cha họ chẳng tuổi tên, Họ bị đuổi ra khỏi xứ.
9. C̣n bây giờ, tôi trở nên lời ca hát của họ, Làm đề cho chuyện tṛ của họ.
10. Họ gớm ghiếc tôi, xa lánh tôi, Không kiêng nhổ khạc nơi mặt tôi.
11. Bởi v́ Đức Chúa Trời đă làm dùn cây cung tôi, và sỉ nhục tôi. Chúng ném hàm
khớp khỏi trước mặt tôi.
12. Cái hố lu la nầy dấy lên nơi tay hữu tôi; Chúng xô đẩy chơn tôi, Sửa soạn
cho tôi con đường hiểm độc của chúng.
13. Chúng phá hủy đường lối tôi, Giúp vào việc tàn hại tôi; Song chẳng có ai đến
tiếp cứu chúng.
14. Chúng do nơi hư lũng lớn mà đến, Xông vào tôi giữa sự đồi tàn.
15. Các sự kinh khủng hăm áp tôi, Đuổi theo sự sang trọng tôi khác nào gió mạnh,
Và sự phước hạnh tôi đă qua như đám mây.
16. Bây giờ, linh hồn tôi tan ra trong ḿnh tôi; Các ngày gian nan đă hăm bắt
tôi,
17. Đêm soi xương cốt tôi làm nó rời ra khỏi tôi, Đau đớn vẫn cắn rỉa tôi, không
ngưng nghỉ chút nào.
18. V́ cớ năng lực lớn của Đức Chúa Trời, áo ngoài tôi hư nát; Năng lực ấy riết
khí tôi lại như cổ áo tôi.
19. Đức Chúa Trời có ném tôi xuống bùn, Tôi trở nên giống như bụi và tro.
20. Tôi kêu la cùng Chúa, song Chúa chẳng đáp lời; Tôi đứng tại đó, và Chúa chỉ
ngó xem tôi.
21. Chúa trở nên dữ tợn đối với tôi, Lấy năng lực tay Chúa mà rượt đuổi tôi.
22. Chúa cất tôi lên trên cánh gió, Khiến nó đem tôi đi, và tiêu diệt tôi giữa
trận băo.
23. V́ tôi biết rằng Chúa sẽ dẫn tôi đến chốn sự chết, Là nơi ḥ hẹn của các
người sống.
24. Song trong khi người nào bị tàn hại, họ há chẳng giơ tay ra sao? Hoặc đương
cơn tai nạn, họ há không cất tiếng kêu la ư?
25. Chớ th́ tôi không khóc kẻ bị thời thế khó khăn sao? Ḷng tôi há chẳng buồn
thảm v́ kẻ nghèo khổ sao?
26. Tôi đợi chờ phước hạnh, tai họa bèn xảy đến; Tôi trông cậy ánh sáng, tăm tối
lại tới cho.
27. Ḷng tôi trằn trọc không an nghỉ; Các ngày gian nan xông áp vào tôi.
28. Tôi đi ḿnh mảy bằm đen, nhưng chẳng phải bị nắng ăn; Tôi chổi dậy giữa hội
chúng và kêu cầu tiếp cứu.
29. Tôi bèn trở thành anh em của chó rừng, Và bầu bạn của con đà điểu.
30. Da tôi thành đen và rơi ra khỏi ḿnh, Xương cốt tôi bị nóng cháy đi.
31. V́ cớ ấy, tiếng đờn cầm tôi trở nên tiếng ai bi, Và đờn sắt tôi chỉ ra tiếng
thảm sầu.
Gióp 31
chọn đoạn khác
1. Tôi đă có lập ước với mắt tôi; Vậy, làm sao tôi c̣n dám nh́n người nữ đồng
trinh?
2. V́ phần do Đức Chúa Trời ở trên trời, Và cơ nghiệp do Đấng Toàn năng ở nơi
cao, là đí ǵ?
3. Há chẳng phải sự tai họa cho kẻ gian ác, Và sự hư hại cho kẻ làm dữ sao?
4. Chớ th́ Đức Chúa Trời chẳng thấy đường lối tôi, Và đếm các bước tôi sao?
5. Nếu tôi có ăn ở cách dối trá, Và chơn tôi vội vàng theo chước gian giảo,
6. Nguyện Đức Chúa Trời cân tôi trên cân thăng bằng, Th́ Ngài sẽ nh́n biết sự
thanh liêm của tôi.
7. Nếu chơn tôi trở bước bỏ con đường chánh đáng, Và ḷng tôi đi theo con mắt
tôi, Nếu có sự ô uế chi dính vào tay tôi,
8. Nguyện tôi gieo, và có kẻ khác gặt hái, Nguyện thổ sản tôi bị nhổ đi!
9. Nếu ḷng tôi bị người nữ quyến dụ, Nếu tôi ŕnh rập ở nơi cửa của lân cận
tôi,
10. Nguyện vợ tôi xây cối cho người khác, Và kẻ khác nằm chung cùng nàng.
11. V́ điều ấy vốn tội trọng gớm ghê, Một tội ác đáng bị quan xét đoán phạt:
12. Tội ấy là một ngọn lửa thiêu hóa cho đến chốn trầm luân, Tàn hại các của cải
tôi đến tận cùng.
13. Nếu tôi có khinh duyên cớ của tôi trai tớ gái tôi, Lúc chúng nó tranh luận
với tôi,
14. Th́ tôi sẽ làm sao khi Đức Chúa Trời chổi dậy? Khi Ngài đến thẩm sát tôi,
tôi sẽ đáp sao?
15. Đấng đă tạo thành tôi trong ḷng mẹ tôi, Há chẳng có dựng nên chúng nó sao?
Há chẳng phải cũng một Đức Chúa Trời dựng nên chúng ta trong ḷng mẹ sao?
16. Nếu tôi từ chối điều kẻ nghèo khổ ước ao, Gây cho mắt người góa bụa bị hao
ṃn,
17. Nếu tôi có ăn bánh tôi một ḿnh, Và kẻ mồ côi chẳng có được ăn với;
18. Thật từ lúc tôi c̣n trẻ, nó cùng lớn lên với tôi như con với cha; C̣n người
góa bụa, tôi đă nâng đỡ từ khi tôi lọt ḷng mẹ tôi;
19. Nếu tôi có thấy người nào thác v́ không quần áo, Và kẻ nghèo thiếu chẳng có
mềm;
20. Nếu ḷng người không chúc phước cho tôi, Và người không nhờ lông chiên tôi
mà được ấm áp;
21. Nếu tôi có giơ tay hiếp kẻ mồ côi, Bởi v́ tôi thấy có kẻ phù trợ tôi trong
cửa thành;
22. Nguyện cho vai tôi rớt ra khỏi nơi khác, Và cánh tay tôi bị gẫy rứt ra đi!
23. V́ sự tai họa từ Đức Chúa Trời giáng xuống làm tôi kinh khiếp, Và trước mặt
sự oai nghiêm Ngài, Tôi nào làm chi được.
24. Nếu tôi có để ḷng tin cậy nơi vàng, Và nói với vàng ṛng rằng: Ngươi là sự
nương nhờ của ta;
25. Nếu tôi vui mừng về tài vật tôi nhiều, Và v́ tay tôi đă nắm được lắm của;
26. Nếu tôi có thấy mặt trời chiếu sáng, Và mặt trăng mọc lên soi tỏ,
27. Nếu ḷng tôi có thầm mê hoặc, Và miệng tôi hôn gởi tay tôi;
28. Điều đó cũng là một tội ác đáng bị quan xét phạt; V́ nếu làm vậy, tôi đă từ
chối Đức Chúa Trời trên cao kia.
29. Nếu tôi có vui mừng v́ cớ tàn hại kẻ ghét tôi, Và hứng ḷng khi tai vạ giáng
cho nó;
30. Trái lại tôi không cho phép miệng tôi phạm tội, Mà lấy sự rủa sả trù ẻo,
nguyện hại mạng sống nó;
31. Nếu các người nhà tôi chẳng có nói: "Ai sẽ t́m được người nào không được ăn
no nê thịt súc vật người?"
32. Người lạ không có ngủ đêm ở ngoài đường; Tôi mở cửa cho kẻ hành khách;
33. Nếu tôi có che tội ḿnh như A-đam, Mà giấu sự gian ác ḿnh ở trong ḷng,
34. Tại v́ tôi kinh hăi chúng đông, Và e sợ khi bị họ hàng khinh bỉ, Đến đổi ở
yên lặng, chẳng dám bước ra khỏi cửa.
35. Ôi! Chớ chi có một người nghe tôi! Nầy là dấu hiệu tôi kư, Nguyện Đấng Toàn
năng đáp lời tôi; Nguyện kẻ cừu nghịch tôi làm một trạng từ!
36. Tôi quả hẳn sẽ mang trạng từ ấy trên vai ḿnh, Đội nó trên đầu tôi như một
măo triều thiên.
37. Ắt tôi sẽ thuật cho cừu địch biết số bước tôi, Đến trước mặt nó như một vua
chúa.
38. Nếu đất tôi kêu cáo tôi, Các gịng cày nó khóc với nhau;
39. Nếu tôi ăn sản vật nó mà không trả giá bạc, Làm khuấy khuất nguyên chủ nó
cho đến phải chết mất;
40. Nguyện gai góc mọc thay lúa miến, Và cỏ lùng thế cho lúa mạch! Đến đây hết
lời của Gióp.
Gióp 32
chọn đoạn khác
1. Bấy giờ, ba người ấy thôi đáp lời với Gióp, v́ người tự thấy ḿnh là công
b́nh.
2. Ê-li-hu, con trai của Ba-ra-kê-ên, người Bu-xi, về ḍng dơi Ram, lấy làm tức
giận Gióp, bởi v́ người tự xưng ḿnh là công b́nh hơn là Đức Chúa Trời.
3. Ê-li-hu cũng nổi giận ba bạn của Gióp, bởi v́ họ chẳng t́m được lẽ đáp lại,
mà lại định tội cho Gióp.
4. Vả, Ê-li-hu có đợi Gióp luận xong đặng nói với Gióp, bởi v́ các người đó đều
lớn tuổi hơn ḿnh.
5. Vậy, khi Ê-li-hu thấy chẳng c̣n câu trả lời chi nơi miệng của ba người kia
nữa, cơn thạnh nộ người bèn phừng lên.
6. Ê-li-hu, con trai Ba-ra-kê-ên, người Bu-xi, bèn cất tiếng lên nói rằng: Tôi
đang trẻ, c̣n các anh là ông già; V́ vậy, tôi nhát, không dám tỏ cho các anh
biết ư tưởng tôi.
7. Tôi nghĩ rằng: Ai đă sống lâu ngày sẽ nói, Số năm cao sẽ dạy sự khôn ngoan.
8. Nhưng có thần linh ở trong loài người, Và hơi thở của Đấng Toàn năng cho
chúng sự khôn sáng.
9. Người tôn trọng chẳng phải khôn ngoan, Bực lăo thành chẳng thông hiểu sự công
b́nh.
10. Bởi cớ ấy tôi nói rằng: Hăy nghe tôi; Phần tôi cũng sẽ tỏ ra ư tưởng của
tôi.
11. Ḱa, tôi đă chờ đợi nghe các lời của phô anh, Lắng tai nghe những lời luận
biện các anh, Cho đến khi các anh đă tra xét đều cho xong.
12. Thật, tôi có chăm chỉ nghe các anh. Thấy chẳng một ai trong các anh thắng
hơn Gióp, Hoặc lời của người được.
13. Chớ nói rằng: Chúng ta t́m được khôn ngoan; Đức Chúa Trời thắng hơn người
được, loài người chẳng làm đặng.
14. Vả, Gióp không có tranh luận với tôi, Vậy, tôi sẽ chẳng dùng lời các anh mà
đáp lại người.
15. Họ sửng sốt không đáp chi nữa; Đă cạn lời hết tiếng rồi.
16. Tôi há phải chờ đợi, v́ họ hết nói, Không c̣n chi trả lời ǵ nữa sao?
17. Theo phiên tôi cũng sẽ đáp lời chớ; Tôi cũng tỏ ra ư tưởng ḿnh chớ;
18. V́ tôi đă đầy dẫy lời nói, Trí trong ḷng tôi cảm giục tôi nói.
19. Nầy, ḷng tôi như rượu chưa khui, Nó gần nứt ra như bầu rượu mới.
20. Tôi sẽ nói và được nhẹ nhàng; Tôi sẽ mở môi miệng ra và đáp lời.
21. Tôi sẽ chẳng tư vị ai, Không dua nịnh bất kỳ người nào.
22. V́ tôi chẳng biết dua nịnh; Nếu dua nịnh, Đấng Tạo hóa tôi hẳn trừ diệt tôi
tức th́.
Gióp 33
chọn đoạn khác
1. Nhưng vậy, hỡi Gióp, xin hăy nghe các diễn thuyết tôi. Khá lắng tai nghe các
lời nói tôi.
2. Ḱa, tôi đă mở miệng ra, Lưỡi tôi nói trong họng tôi.
3. Các lời tôi nói sẽ chiếu theo sự chánh trực của ḷng tôi; Điều tôi biết lưỡi
tôi sẽ nói cách thành thực.
4. Thần Đức Chúa Trời đă sáng tạo tôi, Hơi thở của Đấng Toàn năng ban cho tôi sự
sống.
5. Nếu đáp được, hăy đáp lại cho tôi, Hăy đứng dậy, bày ra lời của ông tại trước
mặt tôi!
6. Hăy xem, đối cùng Đức Chúa Trời tôi với ông có khác chi, Tôi cũng bởi đất bùn
mà ra.
7. Sự oai nghi tôi nào sẽ làm cho ông kinh khiếp, Và quyền thế tôi sẽ chẳng đè
ép ông.
8. Quả ông có nói đến tai tôi, Tôi đă nghe tiếng lời của ông nói rằng:
9. Tôi trong sạch, không có vi phạm; Tôi vô tội, và trong ḷng tôi chẳng có gian
ác ǵ.
10. Dầu vậy, Đức Chúa Trời t́m dịp đối địch tôi, Cầm tôi như kẻ thù nghịch Ngài;
11. Ngài riết chơn tôi vào cùm, Và coi chừng đường lối tôi.
12. Nầy, tôi muốn đáp với ông rằng trong các lời ấy ông nói vô lư; V́ Đức Chúa
Trời là lớn hơn loài người.
13. Nhơn sao ông tranh luận với Ngài? Ngài không bày giăi điều nào Ngài làm.
14. V́ Đức Chúa Trời phán một lần, Hoặc hai lần; nhưng người ta không để ư đến.
15. Ngài phán trong chiêm bao, trong dị tượng ban đêm, Lúc người ta ngủ mê, Nằm
ngủ trên giường ḿnh;
16. Bấy giờ Ngài mở lỗ tai loài người, Niêm phong lời giáo huấn mà Ngài dạy cho
họ,
17. Hầu cho chở loài nguời khỏi điều họ toan làm, Và giấu họ tánh kiêu ngạo,
18. Cứu linh hồn họ khỏi cái huyệt, Và mạng sống khỏi bị gươm giết,
19. Loài người nằm trên giường ḿnh bị đau đớn sửa phạt, Và xương cốt người hàng
tranh chạm nhau măi măi,
20. Miệng người bèn lấy làm gớm ghiếc vật thực, Và linh hồn người ghét những đồ
ăn mĩ vị.
21. Thịt người tiêu hao không c̣n thấy nữa, Và xương người, mà trước chẳng thấy
được, bèn bị lộ ra.
22. Linh hồn người đến gần cái hầm, Và sự sống người xích lại kẻ giết.
23. Nếu trong một ngàn thiên sứ, có một thiên sứ làm kẻ truyền-giải cho người,
Để chỉ dạy người biết điều ngay thẳng cho người,
24. Ắt Đức Chúa Trời làm ơn cho người và phán rằng: "Hăy giải cứu nó khỏi bị sa
xuống cái hầm; Ta đă t́m đặng giá chuộc rồi"
25. Người sẽ được thẳng da mát thịt như buổi thơ ấu; Người trở lại ngày đang
th́.
26. Người cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời bèn đoái thương người,
Khiến người vui mừng xem thấy mặt Ngài, Và Ngài trả lại sự công b́nh cho người.
27. Đoạn, người đó sẽ hát trước mặt loài người, mà rằng: "Tôi đă phạm tội, làm
hư hoại sự ngay thẳng, Song chẳng có ích ǵ cho tôi.
28. Đức Chúa Trời có giải cứu linh hồn tôi khỏi sa xuống hầm, Và sự sống tôi sẽ
thấy ánh sáng."
29. Ḱa, các việc ấy Đức Chúa Trời làm cho loài người; Đến hai lần, hoặc ba lần,
30. Đặng khiến linh hồn người trở lại khỏi cái hầm, Hầu cho người được ánh sáng
kẻ sống chiếu vào cho.
31. Hỡi Gióp, hăy chăm chỉ nghe tôi; Khá làm thinh, th́ tôi sẽ nói.
32. Nếu ông có điều ǵ muốn nói, hăy đáp lại tôi; Khá nói, v́ tôi muốn xưng ông
là công b́nh.
33. Bằng chẳng, hăy nghe tôi; Hăy làm thinh, th́ tôi sẽ dạy cho ông sự khôn
ngoan.
Gióp 34
chọn đoạn khác
1. Ê-li-hu lại cất tiếng mà nói rằng:
2. Hỡi các người khôn ngoan, hăy nghe những lời nói tôi; Ớ kẻ thông sáng, hăy
lắng tai nghe tôi;
3. V́ lỗ tai thử những lời nói, Như ổ gà nếm lấy đồ ăn,
4. Chúng ta hăy chọn cho ḿnh điều phải, Chung nhau nh́n biết việc tốt lành.
5. V́ Gióp có nói rằng: "Tôi vốn là công b́nh, Nhưng Đức Chúa Trời đă cất sự lư
đoán tôi.
6. Tuy tôi ngay thẳng, người ta cho tôi là kẻ nói dối; Dẫu tôi không phạm tội,
thương tích tôi không chữa lành được."
7. Ai là người giống như Gióp? Người uống lời nhạo báng như thể nước;
8. Người kết bạn với kẻ làm hung nghiệt, Và đồng đi với người gian ác?
9. V́ người có nói rằng: "Chẳng ích lợi chi cho loài người T́m kiếm điều vui
thích ḿnh nơi Đức Chúa Trời."
10. V́ vậy, hỡi người thông sáng, hăy nghe tôi: Đức Chúa Trời chẳng hề hành ác,
Đấng Toàn năng không bao giờ làm hung nghiệt.
11. Ngài báo ứng loài người tùy công việc ḿnh làm, Khiến mỗi người t́m được lại
chiếu theo tánh hạnh ḿnh.
12. Quả thật Đức Chúa Trời không làm ác, Đấng Toàn năng chẳng trái phép công
b́nh.
13. Ai giao cho Ngài trách nhậm coi sóc trái đất? Ai đặt Ngài cai trị toàn thế
gian?
14. Nếu Ngài chỉ lo tưởng đến chính ḿnh Ngài, Thâu lại về ḿnh thần linh và hơi
thở của Ngài,
15. Th́ các loài xác thịt chắc chết chung nhau hết, Và loài người trở vào bụi
đất.
16. Nếu ông có sự thông sáng, hăy nghe điều nầy; Khá lắng tai nghe tiếng lời nói
của tôi.
17. Chớ th́ người nào ghét sự công b́nh sẽ được cai trị sao? Ông há dám lên án
cho Đấng công b́nh cao cả ư?
18. Há có nên nói với vua rằng: "Đồ xấu xa nà?" Hay là nói với người tước vị
rằng: "Kẻ ác nghiệp mầy?"
19. Phương chi Đấng chẳng tư vị những vương tử, Chẳng xem kẻ giàu trọng hơn kẻ
nghèo; Bởi chúng hết thảy là công việc của tay Ngài.
20. Trong giây phút, giữa ban đêm, chúng đều chết; Bá tánh xiêu tó và qua mất
đi, Các kẻ cường quyền bị cất đi, không phải bởi tay loài người.
21. V́ mắt Đức Chúa Trời xem xét đường lối loài người, Ngài nom các bước họ.
22. Chẳng có tối tăm mù mịt nào Cho kẻ làm ác ẩn núp ḿnh được.
23. Khi Đức Chúa Trời phán xét loài người, Th́ chẳng cần khiến họ đến trước mặt
Ngài hai lần đặng tra xét.
24. Ngài hủy phá kẻ cường quyền không cần tra soát, Rồi lập kẻ khác thế vào cho;
25. Bởi v́ Chúa biết các công việc chúng, Đánh đổ chúng ban đêm, và chúng bị
diệt đi.
26. Chúa hành hại họ như người ác, Có kẻ khác xem thấy;
27. Bởi v́ chúng có xây bỏ theo Chúa, Không kể đến các đường lối Ngài.
28. Chúng làm cho tiếng kẻ nghèo thấu đến Chúa, Và Chúa nghe tiếng kêu la của kẻ
bị gian truân.
29. Khi Ngài ban cho b́nh an, ai sẽ làm cho rối loạn? Khi Ngài ẩn mắt ḿnh, ai
có thể thấy Ngài? Ngài làm như vậy hoặc cho dân tộc nào, hoặc cho người nào,
30. Hầu ngăn trở kẻ gian ác cai trị, Và không ai gài bẫy cho dân sự.
31. V́ có người nào bao giờ nói với Đức Chúa Trời rằng: "Tôi đă mang chịu sửa
phạt tôi, tôi sẽ không làm ác nữa;
32. Điều chi tôi chẳng thấy, xin Chúa chỉ dạy cho tôi; Nếu tôi có làm ác, tôi sẽ
chẳng làm lại nữa?
33. Đức Chúa Trời há cứ theo ư tưởng ông mà báo ứng ông sao? V́ ông có bỏ sự báo
ứng của Chúa, nên ông phải chọn lựa lấy, chớ chẳng phải tôi; Vậy nên điều ông
biết, hăy nói đi.
34. Những người thông sáng, và mỗi người khôn ngoan đương nghe tôi, Sẽ nói với
tôi rằng:
35. "Gióp nói cách không hiểu biết, Và lời của người thiếu sự thông sáng."
36. Tôi nguyện cho Gióp bị thử thách đến cùng, Bởi v́ người có đáp lời như kẻ
ác;
37. Người có thêm sự phản nghịch vào tội lỗi ḿnh, Vỗ tay ḿnh tại giữa chúng
tôi, Và càng thêm lời nói nghịch Đức Chúa Trời.
Gióp 35
chọn đoạn khác
1. Ê-li-hu lại nói rằng:
2. Ông đă nói rằng: Tôi vốn công b́nh hơn Đức Chúa Trời; Lại nói: Tôi sẽ đặng
lời ǵ? Nhược bằng chẳng phạm tôi,
3. Tôi há sẽ được ích hơn chăng? Chớ th́ ông tưởng lời ấy có lư sao?
4. Tôi sẽ đáp lại ông, Và các bạn hữu của ông nữa.
5. Hăy ngước mắt lên xem các từng trời; Hăy coi áng mây, nó cao hơn ông.
6. Nếu ông đă phạm tôi, có hại chi cho Đức Chúa Trời chăng? Nếu các sự vi phạm
ông thêm nhiều, có can ǵ với Ngài?
7. Nếu ông công b́nh, ông sẽ ban ǵ cho Ngài? Ngài sẽ lănh điều ǵ bởi tay của
ông?
8. Sự gian ác của ông có thể hại một người đồng loại ông, Và sự công b́nh ông có
thể làm ích cho một con cái loài người.
9. Tại v́ nhiều sự hà hiếp, nên người ta kêu oan, Bởi tay kẻ có cường quyền áp
chế, nên họ kêu cứu.
10. Nhưng không ai hỏi rằng: Đức Chúa Trời, là Đấng Tạo hóa của tôi, ở đâu? Ngài
khiến cho người ta hát vui mừng trong ban đêm,
11. dạy dỗ chúng tôi được thông sáng hơn các loài thú trên đất, Và làm cho trở
nên khôn ngoan hơn các loài chim trời.
12. Người ta kêu la, song Ngài không đáp lời, V́ cớ sự kiêu ngạo của kẻ gian ác.
13. Quả thật lời cầu nguyện hư giả, Đức Chúa Trời chẳng dủ nghe, Đấng Toàn năng
chẳng thèm đoái đến.
14. Huống chi khi ông nói rằng không thấy Ngài, Sự cáo tụng đă đem đến trước mặt
Ngài, và ông đợi Ngài xét đoán!
15. Bây giờ, v́ cơn thạnh nộ Ngài chưa giáng phạt, Và v́ Ngài không kể đến sự
kiêu hănh cho lắm,
16. Nên Gióp mở miệng ra luân điều hư không, Và nói thêm nhiều lời vô tri.
Gióp 36
chọn đoạn khác
1. Ê-li-hu nói tiếp rằng:
2. Xin hăy nhịn tôi một chút, tôi sẽ chỉ cho ông; V́ tôi c̣n những lời binh vực
Đức Chúa Trời.
3. Tôi sẽ đem đến từ xa điều tôi hiểu biết, Và xưng tỏ sự công b́nh của Đấng Tạo
hóa tôi.
4. Quả hẳn các lời luận tôi chẳng phải giả dối; Đấng vốn trọn vẹn về tri thức
đương ở cùng ông.
5. Ḱa, Đức Chúa Trời có quyền năng, không khinh bỉ ai; Trí huệ Ngài rất rộng
lớn.
6. Ngài chẳng bảo tồn mạng sống của kẻ gian ác, Nhưng xử đoán công b́nh cho kẻ
khổ nạn.
7. Ngài chẳng xây mặt khỏi người công b́nh; Song Ngài khiến họ đồng ngồi cùng
các vua trên ngôi măi măi, Và họ được cao trọng.
8. Nếu họ phải mang xiềng xích, Và bị dây gian truân vấn vướng,
9. Th́ Ngài chỉ tỏ cho họ công việc ḿnh đă làm, Các tội lỗi và tánh hạnh kiêu
ngạo của họ.
10. Ngài cũng mở lỗ tai của chúng cho nghe lời sửa dạy, Khuyên họ trở lại bỏ
điều gian ác.
11. Nếu chúng vâng nghe và phục sự Ngài, Th́ các ngày chúng sẽ được may mắn, Và
những năm chúng được vui sướng.
12. Nhưng nếu họ không khứng nghe theo, ắt sẽ bị gươm giết mất, Và chết không
hiểu biết ǵ.
13. Ḷng giả h́nh tích chứa sự thạnh nộ; Khi Đức Chúa Trời bắt xiềng chúng,
chúng chẳng kêu cứu.
14. Chúng chết đương buổi thanh xuân; Đời chúng bị hư mất trong bọn gian dâm.
15. Đức Chúa Trời dùng sự hoạn nạn mà cứu kẻ bị hoạn nạn, Và nhờ sự hà hiếp mà
mở lỗ tai của người.
16. Ngài cũng chắc đă muốn dụ ông khỏi hoạn nạn, Đặt ông nơi khoảng khoát, chẳng
c̣n sự cực ḷng; C̣n các món ăn dọn nơi bàn ông, tất đều được đầy mỡ béo.
17. Nhưng ông đầy dẫy sự nghị luận của kẻ ác; Sự xét đoán và sự h́nh phạt chắc
sẽ hăm bắt ông.
18. Chớ để cơn giận giục ông chống cự cùng sự sửa phạt; Đừng lầm lạc v́ cớ giá
bội thường lớn quá.
19. Chớ th́ sự giàu có ông và các thế lực của ông, Có thể cứu ông khỏi sự hoạn
nạn sao?
20. Chớ ước ao đêm tối, Là lúc dân tộc bị cất đi khỏi chỗ ḿnh.
21. Khá giữ lấy ḿnh, chớ xây về tội ác; V́ ấy là điều ông ưa chọn hơn sự hoạn
nạn.
22. Ḱa, Đức Chúa Trời dùng quyền năng mà làm việc cách cao cả, Có giáo sư nào
giống như Ngài chăng?
23. Ai có chỉ dạy cho Ngài biết con đường của Ngài? Và ai nói rằng: Chúa có làm
quấy?
24. Hăy nhớ ngợi khen các công việc Chúa, Mà loài người thường có ca tụng.
25. Mọi nguời đều đă ngoạn xem công việc ấy, Và loài người từ xa nh́n thấy nó.
26. Phải, Đức Chúa Trời là cực đại, chúng ta không biết được Ngài; Số năm của
Ngài thọ không ai kể xiết được.
27. V́ Ngài thâu hấp các giọt nước: Rồi từ sa mù giọt nước ấy bèn hóa ra mưa,
28. Đám mây đổ mưa ấy ra, Nó từ giọt sa xuống rất nhiều trên loài người.
29. ai có thể hiểu được cách mây giăng ra, Và tiếng lôi đ́nh của nhà trại Ngài?
30. Ḱa, Chúa bủa ánh sáng ra chung quanh Ngài, Và che lấp đáy biển.
31. V́ nhờ những điều ấy Ngài xét đoán các dân tộc; Ngài ban cho lương thực
nhiều.
32. Ngài giấu sấm sét trong tay Ngài, Và truyền nó phải đánh nơi nào.
33. Tiếng sấm sét báo cáo việc Ngài, Và chính súc vật cũng đoán điềm dông mưa
gần đến.
Gióp 37
chọn đoạn khác
1. Phải, trái tim tôi run sợ v́ sự đó, Nó nhảy động dời khỏi chỗ nó.
2. Khá nghe, khá nghe giọng vang dầy của tiếng Ngài, Và tiếng ầm ầm ra khỏi
miệng Ngài!
3. Ngài khiến nó dội dưới các từng trời, Và chớp nhoáng Ngài chiếu đến cùng trái
đất.
4. Kế liền có tiếng ầm ầm, Ngài phát tiếng oai nghi và sấm rền ra, Và khi nổi
tiếng Ngài lên, th́ không cầm giữ chớp nhoáng lại.
5. Đức Chúa Trời phát tiếng và sấm rền ra lạ kỳ; Ngài là những công việc lớn lao
mà chúng ta hiểu không nổi?
6. V́ Ngài phán với tuyết rằng: Hăy sa xuống đất! Và cũng phán vậy cho trận mưa
mây và mưa lớn.
7. Ngài niêm phong tay của mọi người, Để mọi người Ngài đă dựng nên biết được
công việc của Ngài.
8. Khi ấy các thú vật rừng rút trong hang nó, Và ở trong hầm của chúng nó.
9. Từ các lầu các phương nam băo tuôn tới, Và gió bắc dẫn lạnh lẽo đến.
10. Nước đá thành ra bởi hơi thở của Đức Chúa Trời; Bề rộng của nước đông đặc
lại.
11. Ngài chứa nước trong mây, Và giăng ra các mây chớp nhoáng của Ngài;
12. Nhờ Ngài dẫn dắt, nó bay vận khắp tứ phương, Đặng làm xong công việc mà Ngài
phán biểu nó làm trên khắp trái đất.
13. Ngài sai mây hoặc để giáng họa, hoặc để tưới đất, Hoặc để làm ơn cho loài
người.
14. Hỡi Gióp, hăy nghe lời nầy, Khá đứng yên, suy nghĩ về các việc diệu kỳ của
Đức Chúa Trời.
15. Ông có biết cách nào Đức Chúa Trời sắp đặt các việc ấy chăng? Cách nào Ngài
chiếu ḷa chớp nhoáng của mây Ngài chăng?
16. Ông có biết mây cân b́nh sao chăng? Có hiểu công việc diệu kỳ của Đấng có
trí huệ trọn vẹn sao chăng?
17. Có biết cớ sao quần áo ông nóng, Khi Ngài lấy gió nam mà làm cho trái đất
được an tịnh?
18. Ông có thế trải bầu trời ra với Đức Chúa Trời chăng? Nó vốn vững chắc như
một tấm kính đúc.
19. Hăy dạy cho chúng tôi biết điều chúng tôi phải thưa cùng Ngài; V́ tại sự dốt
nát, chúng tôi chẳng biết bày lời ǵ với Ngài.
20. Người ta há sẽ thuật với Đức Chúa Trời rằng tôi muốn thưa với Ngài sao? Nếu
ai nói với Ngài, quả hẳn sẽ bị nuốt đi.
21. Bây giờ, người ta không thấy sự sáng chói ḷa, nó đă ẩn trong mây; Nhưng gió
thổi qua xô mây đi và trời trong trẻo lại.
22. Ráng vàng từ phương Bắc đến; Nơi Đức Chúa Trời có oai nghiêm đáng sợ thay!
23. Luận về Đấng Toàn năng, ta không t́m thấy đến Ngài được: Ngài vốn rất quyền
năng, rất chánh trực và công b́nh cực điểm, không hề hà hiếp ai.
24. Bởi cớ ấy nên loài người kính sợ Ngài; Ngài không đoái đến kẻ nào tưởng ḿnh
có ḷng khôn ngoan.
Gióp 38
chọn đoạn khác
1. Bấy giờ, từ giữa cơn gió trốt, Đức Chúa Trời đáp cùng Gióp rằng:
2. Kẻ nầy là ai dám dùng các lời không tri thức, Mà làm cho mờ ám các mưu định
ta?
3. Khá thắt lưng người như kẻ dơng sĩ; Ta sẽ hỏi ngươi, ngươi sẽ chỉ dạy cho ta!
4. Khi ta đặt nền trái đất, th́ ngươi ở đâu? Nếu ngươi thông sáng, hăy tỏ bày
đi.
5. Ai đă định độ lượng nó, Và giăng dây mực trên nó, ngươi có biết chăng?
6. Nền nó đặt trên chi? Ai có trồng ḥn đá góc của nó?
7. Trong khi ấy các sao mai đồng hát ḥa nhau, Và các con trai Đức Chúa Trời cất
tiếng reo mừng.
8. Vả lại, khi biển bể bờ và cất ra khỏi ḷng đất, Ai đă lấy các cửa mà ngăn
đóng nó lại?
9. Khi ấy ta ban cho nó mây làm áo xống, Lấy tăm tối làm khăn vấn của nó;
10. Ta định giới hạn cho nó, Đặt then chốt và cửa của nó,
11. Mà rằng: Mầy đến đây, chớ không đi xa nữa, Các lượn sóng kiêu ngạo mầy phải
dừng lại tại đây!
12. Từ khi ngươi sanh, ngươi há có sai khiến buổi sáng, Và phân định chỗ cho
hừng đông,
13. Để nó chiếu đến bốn bề trái đất, Và đuổi rảy kẻ gian ác khỏi nó chăng?
14. Trái đất biến h́nh như đất sét dưới dấu ấn, Và mọi vật hiện ra trau giồi như
bằng áo.
15. Sự sáng đă cất khỏi kẻ ác, Cánh tay chúng nó giơ lên, đă bị găy rồi.
16. Chớ th́ ngươi có thấu đến nguồn của biển sao? Há có bước dưới đáy của vực
sâu chăng?
17. Cửa âm phủ há có bày ra trước mặt ngươi chớ? Có thấy các cửa của bóng sự
chết chăng?
18. Lằn mắt ngươi có thấu đến nơi khoan khoát minh mông của đất chăng? Nếu ngươi
biết các điều đó, hăy nói đi.
19. Con đường dẫn đến nơi ở của ánh sáng là đâu? C̣n nơi của tối tăm th́ ở đâu?
20. Chớ th́ ngươi có thế dẫn nó lại vào địa giới nó sao? Có biết các đường lối
của nhà nó ở chăng?
21. Không sai, người biết mà! V́ ngươi đă sanh trước khi ấy, Số ngày ngươi lấy
làm nhiều thay
22. Ngươi có vào các kho tuyết chăng? Có thấy nơi chứa mưa đá,
23. Mà ta đă để dành cho th́ hoạn nạn, Cho ngày chiến trận và giặc giă chăng?
24. Ánh sáng phân ra bởi đường nào, Và gió đông theo lối nào mà thổi ra trên
đất?
25. Ai đào kính cho nước mưa chảy, Phóng đường cho chớp nhoáng của sấm sét,
26. Để mưa xuống đất bỏ hoang, Và trên đồng vắng không có người ở;
27. Đặng tưới đất hoang vu, mong quạnh, Và làm cho các chồi cây cỏ mọc lên?
28. Mưa có cha chăng? Ai sanh các giọt sương ra?
29. Nước đá ra bởi ḷng của ai? Ai đẻ ra sương móc của trời?
30. Nước đông lại như đá, rồi ẩn bí, Và mặt vực sâu trở thành cứng.
31. Ngươi có thế riết các dây chằng Sao rua lại, Và tách các xiềng Sao cầy ra
chăng?
32. Ngươi có thế làm cho các cung Huỳnh đạo ra theo th́, Và dẫn đường cho Bắc
đẩu với các sao theo nó chăng?
33. Người có biết luật của các từng trời sao? Có thể lập chủ quyền nó dưới đất
chăng?
34. Ngươi có thế cất tiếng ḿnh la lên cùng mây, Khiến cho mưa tuôn xuống thân
ngươi chăng?
35. Ngươi có thế thả chớp nhoáng ra, Để nó đi, và đáp với ngươi rằng: Thưa,
chúng tôi đây?
36. Ai có đặt khôn ngoan trong ḷng, Và ban sự thông sáng cho trí năo?
37. Ai nhờ sự khôn ngoan mà đếm được các mây? Khi bụi đất chảy như loài kim tan
ra,
38. Và các cục đất dính lại nhau, Ai nghiêng đổ những b́nh nước của các từng
trời?
Gióp 39
chọn đoạn khác
1. Khi mẹ con sư tử nằm phục nơi hang, Khi ŕnh trong bụi-rậm nó,
2. Há có phải ngươi săn mồi cho sư tử cái, Và làm cho sư tử con đói được no sao?
3. Ai sắm đồ ăn cho quạ, Khi con nhỏ nó kêu la cùng Đức Chúa Trời, Và bay đi đây
đó không đồ ăn?
4. Ngươi có biết th́ nào dê rừng đẻ chăng? Có xem xét mùa nào nai cái đẻ chăng?
5. Ngươi có tính số tháng nó có thai, Và biết kỳ nó đẻ chăng?
6. Nó ngồi chồm hỗm, đẻ con nhỏ ra, Và được giải khỏi sự đau đớn của nó.
7. Các con nhỏ nó trở nên mạnh mẽ, lớn lên trong đồng nội; Đoạn ĺa mẹ ḿnh,
chẳng c̣n trở lại nữa.
8. Ai để cho con lừa rừng chạy thong dong? Ai có mở trói cho con lừa lẹ làng
kia?
9. Ta đă ban cho nó đồng vắng làm nhà, Và ruộng mặn làm nơi ở.
10. Nó khinh chê tiếng ồn ào của thị thành, Không nghe tiếng của kẻ coi dắt.
11. Khắp các núi là đồng cỏ của nó, Nó t́m kiếm mọi vật xanh tươi.
12. Chớ th́ con ḅ tót muốn làm việc cho ngươi chăng? Nó chịu ở gần bên máng cỏ
ngươi chớ?
13. Ngươi há có thể lấy dây cột ḅ tót nơi gịng cày sao? Nó sẽ chịu theo sau
ngươi mà bừa trũng chăng?
14. Ngươi há sẽ nhờ cậy nó, v́ nó sức nhiều sao? Ngươi sẽ giao công lao ḿnh cho
nó chăng?
15. Chờ th́ ngươi cậy nó đem ngũ cốc về, Và nhờ nó gom lúa ḿ lại trong sân
ngươi ư?
16. Chim lạc đà đập cánh vui mừng; Nhưng cánh và lông ấy, há có biết thương yêu
sao?
17. V́ nó để trứng ḿnh dưới đất, Vùi nóng trứng ấy nơi bụi cát,
18. Quên rằng có lẽ chơn người bước nát nó, Hoặc con thú đồng giày đạp nó đi
chăng.
19. Nó ở khắc khổ với con nó, dường như không thuộc về nó, Sự lao khổ nó luống
công, nhưng nó không lo căm đến.
20. V́ Đức Chúa Trời cất sự khôn ngoan khỏi nó, Không phân chia thông sáng cho
nó.
21. Khi nó đập cánh bay lên, Bèn nhạo báng ngựa và người cỡi ngựa.
22. Có phải ngươi ban sức lực cho ngựa, Và phủ cổ nó lông gáy rung rung chăng?
23. Há có phải ngươi khiến nó nhảy búng như cào cào chăng? Tiếng kêu hí có oai
của nó, thật đáng sợ.
24. Nó đào đất trong trũng, vui mừng về sức lực ḿnh; Nó xông tới đón quân cầm
binh khí.
25. Nó khinh chê sự sợ, chẳng ghê điều chi; Trước ngọn gươm nó không xây trở.
26. Trên nó vang tiếng gùi tên, Giáo và lao sáng giới.
27. Nó lượt dậm, vừa nhảy vừa hét, Khi kèn thổi nó chẳng cầm ḿnh lại được.
28. Vừa khi nghe kèn thổi, nó bèn la: Hi! Hi! Từ xa nó đánh hơi mùi giặc, Nghe
tiếng ầm ầm của các quan tướng và tiếng reo hô của chiến sĩ.
29. Có phải nhờ sự khôn ngươi mà con diều vùng bay đi, Và sè cánh nó về hướng
nam?
30. Có phải theo lịnh ngươi mà chim ưng cất lên, Và đóng ổ nó tại nơi cao?
31. Nó ở trong bàn thạch, đậu trên chót vót ḥn đá, Tại trên đỉnh núi không ai
leo lên được.
32. Từ đó, nó ŕnh mồi, Mắt nó thấy mồi ở xa.
33. Các con nhỏ nó hút huyết, Và hễ nơi nào có xác chết, th́ nó bèn có tại đó.
34. Đức Giê-hô-va c̣n đáp lại cho Gióp, mà rằng:
35. Kẻ bắt bẻ Đấng Toàn năng há sẽ tranh luận cùng Ngài sao? Kẻ căi luận cùng
Đức Chúa Trời, hăy đáp điều đó đi!
36. Gióp bèn thưa cùng Đức Giê-hô-va rằng:
37. Tôi vốn là vật không ra ǵ, sẽ đáp chi với Chúa? Tôi đặt tay lên che miệng
tôi.
38. Tôi đă nói một lần, song sẽ chẳng c̣n đáp lại; Phải, tôi đă nói hai lần,
nhưng không nói thêm ǵ nữa.
Gióp 40
chọn đoạn khác
1. Từ giữa trận gió trốt, Đức Giê-hô-va đáp cùng Gióp, mà rằng:
2. Hăy thắt lưng ngươi như kẻ dơng sĩ; Ta sẽ hỏi ngươi, ngươi sẽ chỉ dạy cho ta!
3. Ngươi há có ư phế lư đoán ta sao? Có muốn định tội cho ta đặng xưng ḿnh là
công b́nh ư?
4. Ngươi có một cánh tay như của Đức Chúa Trời chăng? Có thể phát tiếng sấm rền
như Ngài sao?
5. Vậy bây giờ, ngươi hăy trang điểm ḿnh bằng sự cao sang và oai nghi, Mặc lấy
sự tôn trọng và vinh hiển.
6. Khá tuôn ra sự giận hoảng hốt của ngươi; Hăy liếc mắt xem kẻ kiêu ngạo và
đánh hạ nó đi.
7. Hăy liếc mắt coi kẻ kiêu ngạo và đánh hạ nó đi; Khá chà nát kẻ hung bạo tại
chỗ nó.
8. Hăy giấu chúng nó chung nhau trong bụi đất, Và lấp mặt họ trong chốn kín đáo.
9. Bấy giờ, ta cũng sẽ khen ngợi ngươi, V́ tay hữu ngươi chửng cứu ngươi được!
10. Nầy, con trâu nước mà ta đă dựng nên luôn với ngươi; Nó ăn cỏ như con ḅ.
11. Hăy xem: sức nó ở nơi lưng, Mănh lực nó ở trong gân hông nó.
12. Nó cong đuôi nó như cây bá hương; Gân đùi nó tréo xỏ-rế.
13. Các xương nó như ống đồng, Tứ chi nó như cây sắt.
14. Nó là công việc khéo nhứt của Đức Chúa Trời; Đấng dựng nên nó giao cho nó
cây gươm của nó.
15. Các núi non sanh đồng cỏ cho nó ăn, Là nơi các thú đồng chơi giỡn.
16. Nó nằm ngủ dưới bông sen, Trong bụi sậy và nơi bưng.
17. Bông sen che bóng cho nó, Và cây liễu của rạch vây quanh nó.
18. Ḱa, sông tràn lên dữ tợn, nhưng nó không sợ hăi ǵ; Dầu sông Giô-đanh bủa
lên miệng nó, nó cũng ở vững vàng.
19. Ai bắt được nó ở trước mặt? Ai hăm nó trong lưới, rồi xoi mũi nó?
20. Ngươi có thể câu sấu với lưỡi câu, Và dùng dây mà xỏ lưỡi nó chăng?
21. Có thể xỏ một sợ mây qua mũi nó, Và soi hàm nó bằng một cái móc ư?
22. Nó há sẽ cầu ơn nhiều cùng ngươi, Và nói với ngươi những lời êm ái sao?
23. Nó sẽ lập giao ước với ngươi, Để ngươi bắt nó làm tôi mọi đời đời chớ?
24. Ngươi há sẽ chơi giỡn với nó như với một con chim, Cột nó cho các con gái
nhỏ ḿnh chơi hay sao?
25. Bọn thợ câu sẽ bán nó không? Phân phát nó cho các lái buôn chăng?
26. Ngươi có thể lấy cái đọc đâm đầy da nó, Dùng lao phóng cá mà găm đầy đầu nó
chăng?
27. Hăy thử tra tay ngươi trên ḿnh nó: Về sau khá nhớ việc tranh đấu, chớ hề
làm hại ai nữa!
28. Ḱa, sự trông bắt nó được bèn mất hết; Chỉ thấy tướng dạng nó, người ta liền
rụng rời đi.
Gióp 41
chọn đoạn khác
1. Chẳng ai đủ gan dám trêu chọc nó; Vậy, ai sẽ đứng ở trước mặt ta cho nổi?
2. Ai ban cho ta trước đă, mà ta phải trả lại cho? Phàm vật cho ở dưới trời đều
thuộc về ta.
3. Ta hẳn sẽ nói về các chi thể nó, Về sức lực nó, và sự tốt đẹp của h́nh trạng
nó.
4. Có ai lột được áo choàng của nó không? Có ai vào trong hàm đôi của nó được
chăng?
5. Ai sẽ mở cửa họng nó ra? Sự kinh khủng vây chung quanh răng nó.
6. Nó có oai hùng v́ cớ các hàng khiên của nó, Bằng thẳng dính khằn nhau như
được niêm phong;
7. Cái nầy đụng với cái khác, Đến đỗi gió chẳng lọt qua được.
8. Cái nầy hàng lại với cái kia, Dính với nhau, không hề rời ră.
9. Sự nhảy mũi nói giăng ánh sáng ra, Hai con mắt nó khác nào mí mắt của rạng
đông.
10. Những ngọn lửa nhoáng từ miệng nó, Và các đám lửa phun ra.
11. Từ lỗ mũi nó khói bay ra, Như của một nồi sôi, có chụm sậy ở dưới.
12. Hơi thở nó làm hừng cháy than, Một ngọn lửa ra từ miệng nó.
13. Trong cổ nó có mănh lực, Và sự kinh khiếp nhảy múa trước mặt nó.
14. Các yếm thịt nó dính chắn nhau, Nó như đúc liền trên thân nó, không hề
chuyển động.
15. Trái tim nó cứng như đá, Cứng khác nào thớt cối dưới.
16. Khi nó chổi dậy, các kẻ anh hùng đều run sợ; V́ bắt kinh hăi nên chạy trốn
đi.
17. Khi người ta lấy gươm đâm nó, gươm chẳng hiệu chi, Dẫu cho giáo, cái dọc,
hay là lao phóng cũng vậy.
18. Nó coi sắt khác nào rơm cỏ, Và đồng như thể cây mục.
19. Mũi tên không làm cho nó chạy trốn; Đá trành với nó khác nào cây rạ,
20. Nó cũng xem gậy như rạ, Cười nhạo tiếng vo vo của cây giáo.
21. Dưới bụng nó có những miểng nhọn, Nó dường như trương bừa trên đất bùn.
22. Nó làm cho vực sâu sôi như một cái nồi; Khiến biển trở thành như hũ dầu xức,
23. Và bỏ lại sau nó đường cày đi sáng sủa; Người ta có lẽ tưởng rằng vực sâu là
tóc bạc.
24. Tại thế thượng, chẳng có vật chi giống như nó; Nó được dựng nên để không sợ
ǵ hết.
25. Nó nh́n xem các vật cao lớn; Nó làm vua của các loài thú kiêu ngạo.
Gióp 42
chọn đoạn khác
1. Gióp thưa với Đức Chúa Trời rằng:
2. Tôi biết rằng Chúa có thể làm được mọi sự, Chẳng có ư chỉ nào Chúa lấy làm
khó lắm.
3. Kẻ nầy là ai, không hiểu biết ǵ, lại dám che ám ư chỉ của Chúa? Phải, tôi đă
nói những điều tôi không hiểu đến, Tức các sự lạ lùng quá cho tôi, mà tôi chẳng
thông biết.
4. Hỡi Chúa, xin hăy nghe, tôi sẽ nói; Tôi sẽ hỏi Chúa, Chúa sẽ chỉ dạy cho tôi.
5. Trước lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa, Nhưng bây giờ, mắt tôi đă thấy Ngài:
6. V́ vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi, Và ăn năn trong tro bụi.
7. Xảy sau khi Đức Giê-hô-va đă phán các lời ấy với Gióp, th́ Ngài phán cùng
Ê-li-pha, người Thê-man, mà rằng: Cơn thạnh nộ ta nổi lên cùng ngươi và hai bạn
hữu ngươi; bởi v́ các ngươi không có nói về ta cách xứng đáng, y như Gióp, kẻ
tôi tớ ta, đă nói.
8. Vậy bây giờ, hăy bắt bảy con ḅ đực và bảy con chiên đực đi đến Gióp, kẻ tôi
tớ ta, mà v́ các ngươi dâng lên một của lễ thiêu; rồi Gióp, kẻ tôi tớ ta sẽ cầu
nguyện cho các ngươi; v́ ta sẽ nhậm lời người, kẻo e ta đăi các ngươi tùy theo
sự ngu muội của các ngươi; v́ các ngươi không có nói về ta cách xứng đáng, như
Gióp, kẻ tôi tớ ta, đă nói.
9. Vậy, Ê-li-pha, người Thê-man, Binh-đát, người Su-a, Sô-pha, người Na-a-ma,
bèn đi và làm theo điều Đức Giê-hô-va đă phán dặn ḿnh; rồi Đức Giê-hô-va nhậm
lời của Gióp.
10. Vậy, khi Gióp đă cầu nguyện cho bạn hữu ḿnh rồi, Đức Giê-hô-va bèn đem
người ra khỏi cảnh khốn người, và ban lại cho Gióp bằng gấp hai các tài sản mà
người đă có trước.
11. Hết thảy anh em người, chị em người, và những người quen biết Gióp từ trước,
đều đến thăm và ăn bữa với người tại trong nhà người. Chúng chia buồn và an ủy
người về các tai họa mà Đức Giê-hô-va đă khiến giáng trên người; mỗi người đều
cho Gióp một nén bạc và một cái ṿng vàng.
12. Như vậy, Đức Giê-hô-va ban phước cho buổi già của Gióp nhiều hơn lúc đang
th́: người được mười bốn ngàn chiên, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi ḅ, và một
ngàn lừa cái.
13. Người cũng có bảy con trai và ba con gái.
14. Người đặt tên cho con gái lớn là Giê-mi-ma; con thứ nh́ là Kê-xia, và con
thứ ba là Kê-ren-Ha-cúc.
15. Trong toàn xứ chẳng có người nữ nào lịch sự bằng ba con gái của Gióp. Cha
của họ cho họ một phần cơ nghiệp trong anh em họ.
16. Sau việc ấy, Gióp c̣n sống một trăm bốn mươi năm; người thấy các con trai,
cháu, chít ḿnh đến đời thứ tư.
17. Rồi Gióp qua đời tuổi cao tác lớn.