[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12]
Đa-ni-ên 1 chọn
đoạn khác
1. Năm thứ ba về đời Giê-hô gia-kim, vua Giu-đa, th́ Nê-bu-cát-nết-sa, vua
Ba-by-lôn, đến thành Giê-ru-sa-lem và vây lấy.
2. Chúa phó Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa, và một phần khí mạnh của nhà Đức Chúa
Trời vào tay người. Nê-bu-cát-nết-sa đem khí mạnh ấy về đất Si-nê-a, vào nhà của
thần ḿnh, và để trong kho của thần ḿnh.
3. Vua truyền cho Át-bê-na, là người làm đầu các hoạn quan ḿnh, lấy trong con
cái Y-sơ-ra-ên, trong ḍng vua, và trong hàng quan sang, mà đem đến
4. mấy kẻ trai trẻ không có tật nguyền, mặt mày xinh tốt, tập mọi sự khôn ngoan,
biết cách trí, đủ sự thông hiểu khoa học, có thể đứng chầu trong cung vua, và
dạy cho học thức và tiếng của người Canh-đê.
5. Vua định mỗi ngày ban cho họ một phần đồ ngon vua ăn và rượu vua uống, hầu
cho khi đă nuôi họ như vậy ba năm rồi, th́ họ sẽ đứng chầu trước mặt vua.
6. Trong bọn đó có Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria là thuộc về con cái
Giu-đa.
7. Người làm đầu hoạn quan đặt tên cho họ: Đa-ni-ên tên Bên-tơ-xát-sa; cho Ha-na-nia
tên Sa-đơ-rắc; cho Mi-sa-ên tên Mê-sác; và cho A-xa-ria tên A-bết-Nê-gô.
8. Vả, Đa-ni-ên quyết định trong ḷng rằng không chịu ô uế bởi đồ ngon vua ăn và
rượu vua uống, nên cầu xin người làm đầu hoạn quan để đừng bắt ḿnh phải tự làm
ô uế.
9. Đức Chúa Trời khiến Đa-ni-ên được ơn và thương xót trước mặt người làm đầu
hoạn quan.
10. Người làm đầu hoạn quan bảo Đa-ni-ên rằng: Ta sợ vua, là chủ ta, đă chỉ định
đồ ăn đồ uống của các ngươi. Lẽ nào vua sẽ thấy mặt mày các ngươi tiều tụy hơn
những kẻ trai trẻ khác đồng tuổi với các ngươi, và các ngươi nộp đầu ta cho vua
sao?
11. Đa-ni-ên bèn nói với Ham-mên-xa mà người làm đầu hoạn quan đă khiến coi sóc
Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria, rằng:
12. Tôi xin ông hăy thử những kẻ tôi tớ ông trong mười ngày, cho chúng tôi chỉ
ăn rau uống nước.
13. Sau đó, sẽ nh́n nét mặt chúng tôi với nét mặt những kẻ trai trẻ ăn đồ ăn
ngon của vua; rồi ông sẽ làm cho những kẻ tôi tớ ông theo như điều ông đă thấy.
14. Ham-mên-xa nhậm lời họ xin, và thử họ trong mười ngày.
15. Mười ngày ấy qua rồi, thấy mặt họ lại có vẻ xinh tươi đầy đặn hơn mọi kẻ
trai trẻ khác đă ăn đồ ngon vua ăn.
16. Vậy, Ham-nên-xa cất phần đồ ăn ngon và rượu của họ, và cho họ ăn rau.
17. Vả, Đức Chúa Trời ban cho bốn người trai trẻ đó được thông biết tỏ sáng
trong mọi thứ học thức và khôn ngoan. Đa-ni-ên cũng biết được mọi sự hiện thấy
và chiêm bao.
18. Đến kỳ vua định để đem họ đến, th́ người làm đầu hoạn quan dắt họ đến trước
mặt Nê-bu-cát-nết-sa.
19. Vua nói chuyện cùng họ; và trong hết thảy bọn họ, không thấy ai bằng
Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-sa-ria; vậy họ được đứng chầu trước mặt vua.
20. Vả, khi vua hỏi họ những câu hỏi về mọi sự khôn ngoan sáng suốt, th́ thấy họ
giỏi hơn gấp mười những đồng bóng và thuật sĩ trong cả nước ḿnh.
21. Vậy nên Đa-ni-ên cứ ở đó cho đến năm đầu đời vua Si-ru.
Đa-ni-ên 2 chọn
đoạn khác
1. Trong năm thứ hai đời vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua thấy chiêm bao, th́ trong
ḷng bối rối và mất giấc ngủ.
2. Vậy vua truyền đ̣i các đồng bóng, thuật sĩ, thầy bói, và người Canh-đê để cắt
nghĩa chiêm bao cho vua. Họ bèn đến chầu trước mặt vua.
3. Vua nói cùng họ rằng: Ta đă thấy một chiêm bao; và ḷng ta bối rối, muốn biết
chiêm bao đó.
4. Những người Canh-đê nói cùng vua bằng tiếng A-ram rằng: Tâu vua, chúc vua
sống đời đời! Xin thuật chiêm bao cho những kẻ tôi tớ vua, và chúng tôi sẽ giải
nghĩa.
5. Vua trả lời cho những người Canh-đê rằng: Sự ấy đă ra khỏi ta. Nếu các ngươi
không nói cho ta biết chiêm bao đó thể nào và lời giải nó làm sao, th́ các ngươi
sẽ bị phân thây, nhà các ngươi sẽ trở nên đống phân.
6. Nhưng nếu các ngươi tỏ chiêm bao và lời giải nó cho ta, th́ các ngươi sẽ được
lễ vật, phần thưởng, và vinh hiển lớn từ nơi ta. Các ngươi hăy tỏ cho ta chiêm
bao đó và lời giải nó thế nào.
7. Họ tâu lại lần thứ hai rằng: Xin vua kể chiêm bao cho những kẻ tôi tớ vua, và
chúng tôi sẽ cắt nghĩa.
8. Vua rằng: Ta biết chắc các ngươi t́m cách để huỡn th́ giờ, v́ các ngươi thấy
sự ấy đă ra khỏi ta.
9. Nhưng, nếu các ngươi không tỏ cho ta biết chiêm bao, th́ cũng chỉ có một luật
cho các ngươi; v́ các ngươi đă điều đ́nh với nhau đem những lời giả dối bậy bạ
nói cùng ta, cho đến ngày giờ sẽ thay đổi. Vậy, hăy nói chiêm bao cho ta, và ta
sẽ biết rằng các ngươi có thể giải nghĩa được.
10. Những người Canh-đê tâu lại cùng vua rằng: Chẳng có người nào trên đất nầy
có thể tỏ ra việc của vua; v́ chẳng có vua nào, chúa nào, người cai trị nào đem
việc như thế hỏi đồng bóng, thuật sĩ, hay người Canh-đê nào.
11. V́ sự vua đ̣i là hiếm có, và không ai có thể tỏ cho vua được, chỉ có các v́
thần không ở với loài xác thịt.
12. Vậy nên vua phát tức ḿnh và giận dữ lắm, bèn truyền mạng lịnh giết chết hết
những bác sĩ của Ba-by-lôn.
13. Vậy mạng lịnh đó đă truyền ra; người ta hầu đem giết hết thảy những bác sĩ,
lại t́m Đa-ni-ên cùng đồng bạn người để giết.
14. Bấy giờ Đa-ni-ên lấy sự khôn ngoan trí thức mà nói với A-ri-ốc, quan thị vệ
của vua, đă đi ra đặng giết những bác sĩ của Ba-by-lôn.
15. Người cất tiếng nói cùng A-ri-ốc, quan thị vệ của vua, rằng: Sao lại có mạng
lịnh nghiêm cấp dường ấy ra từ vua? A-ri-ốc bèn kể chuyện cho Đa-ni-ên rơ.
16. Tức th́ Đa-ni-ên vào, xin vua cho ḿnh một hạn nữa, hầu có thể giải nghĩa
điềm chiêm bao đó cho vua.
17. Đoạn, Đa-ni-ên trở về nhà, và tỏ sự ấy cho các bạn ḿnh là Ha-na-nia,
Mi-sa-ên và A-xa-ria.
18. Người xin họ cầu Đức Chúa Trời ở trên trời dủ ḷng thương xót họ về sự kín
nhiệm nầy, hầu cho Đa-ni-ên và đồng bạn ḿnh khỏi phải chết với những bác sĩ
khác của Ba-by-lôn.
19. Vậy sự kín nhiệm được tỏ ra cho Đa-ni-ên trong sự hiện thấy ban đêm;
Đa-ni-ên bèn ngợi khen Chúa trên trời.
20. Đoạn Đa-ni-ên cất tiếng nói rằng: Ngợi khen danh Đức Chúa Trời đời đời vô
cùng! v́ sự khôn ngoan và quyền năng đều thuộc về Ngài.
21. Chính Ngài thay đổi th́ giờ và mùa, bỏ và lập các vua; ban sự khôn ngoan cho
kẻ khôn ngoan, và sự thông biết cho kẻ tỏ sáng.
22. Chính Ngài tỏ ra những sự sâu xa kín nhiệm; Ngài biết những sự ở trong tối
tăm và sự sáng ở với Ngài.
23. Hỡi Đức Chúa Trời của tổ phụ tôi! Tôi cảm ơn và ngợi khen Ngài, v́ Ngài đă
ban cho tôi sự khôn ngoan và quyền phép, và bây giờ Ngài đă khiến tôi biết điều
chúng tôi cầu hỏi Ngài, mà tỏ cho chúng tôi biết việc của vua.
24. Vậy nên Đa-ni-ên đến nhà A-ri-ốc, là người vua đă truyền cho diệt những bác
sĩ của Ba-by-lôn; và nói cùng người như vầy: Đừng diệt những bác sĩ của
Ba-by-lôn; nhưng hăy đưa tôi vào trước mặt vua, th́ tôi sẽ giải nghĩa điềm chiêm
bao cho vua.
25. Bấy giờ A-ri-ốc vội vàng dẫn Đa-ni-ên đến trước mặt vua, và tâu cùng vua như
vầy: Tôi đă t́m thấy một người trong những con cái Giu-đa bị bắt làm phu tù,
người ấy sẽ cho vua biết sự giải nghĩa đó.
26. Vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên, mà người ta vậy gọi là Bên-sơ-xát-sa, rằng:
Quả thật rằng ngươi có thể tỏ cho ta biết điềm chiêm bao ta đă thấy, và lời giải
nó chăng?
27. Đa-ni-ên ở trước mặt vua trả lời rằng: Sự kín nhiệm mà vua đă đ̣i, th́ những
bác sĩ, thuật sĩ, đồng bóng, thầy bói đều không có thể tỏ cho vua được.
28. Nhưng có một Đức Chúa Trời ở trên trời tỏ ra những đều kín nhiệm; và đă cho
vua Nê-bu-cát-nết-sa biết điều sẽ tới trong những ngày sau rốt. Vậy, chiêm bao
của vua và các sự hiện thấy của đầu vua đă thấy trên giường ḿnh là như vầy:
29. Hỡi vua, khi vua nằm trên giường, có những tư tưởng về sự xảy đến sau nầy,
th́ Đấng hay tỏ sự kín nhiệm đă cho vua biết sự sẽ xảy đến.
30. Về phần tôi, sự kín nhiệm đó đă tỏ ra cho tôi, không phải v́ tôi có sự khôn
ngoan ǵ hơn người nào sống; nhưng để được giải nghĩa cho vua hiểu, và cho vua
biết những ư tưởng trong ḷng ḿnh.
31. Hỡi vua, vua nh́n xem, và nầy, có một pho tượng lớn. Pho tượng đó to lớn và
rực rỡ lạ thường; đứng trước mặt vua, và h́nh dạng dữ tợn.
32. Đầy pho tượng nầy bằng vàng ṛng; ngực và cách tay bằng bạc; bụng và vế bằng
đồng;
33. ống chơn bằng sắt; và bàn chơn th́ một phần bằng sắt một phần bằng đất sét.
34. Vua nh́n pho tượng cho đến khi có một ḥn đó chẳng phải bởi tay đục ra, đến
đập vào bàn chơn bằng sắt và đất sét của tượng, và làm cho tan nát.
35. Bấy giờ sắt, đất sét, đồng, bạc, và vàng đều cùng nhau tan nát cả; trở nên
như rơm rác bay trên sân đạp lúa mùa họ, phải gió đùa đi, chẳng t́m nơi nào cho
chúng nó; nhưng ḥn đă đập vào pho tượng th́ hóa ra một ḥn núi lớn và đầy khắp
đất.
36. Đó là điềm chiêm bao. Bây giờ chúng tôi sẽ giải nghĩa ra trước mặt vua.
37. Hỡi vua, vua là vua các vua, v́ Chúa trên trời đă ban nước, quyền, sức mạnh,
và sự vinh hiển cho vua.
38. Ngài đă trao trong tay vua những con cái loài người, những thú đồng và chim
trời, dầu chúng nó ở nơi nào, Ngài cũng đă làm cho vua được cai trị hết thảy;
vậy vua là cái đầu bằng vàng.
39. Nhưng sau vua, sẽ dấy lên một nước khác, kém nước của vua; rồi một nước thứ
ba, tức là đồng, sẽ cai quản khắp đất.
40. Lại có một nước thứ tư mạnh như sắt; v́ sắt hay đập vỡ và bắt phục mọi vật,
th́ nước ấy cũng sẽ đập vỡ và nghiền nát như là sắt vậy.
41. C̣n như vua đă thấy bàn chơn và ngón chơn nửa bằng đất sét nửa bằng sắt, ấy
là một nước sẽ phải phân chia ra; nhưng trong nước đó sẽ có sức mạnh của sắt,
theo như vua đă thấy sắt lộn với đất sét.
42. Những ngón chơn nửa sắt nửa đất sét, nước đó cũng nửa mạnh nửa gịn.
43. Vua đă thấy sắt lộn với đất sét, ấy là chúng nó lộn nhau bởi giống loài
người; song không dính cùng nhau, cũng như sắt không ăn với đất sét.
44. Trong đời các vua nầy, Chúa trên trời sẽ dựng nên một nước không bao giờ bị
hủy diệt, quyền nước ấy không bao giờ để co một dân tộc khác; song nó sẽ đánh
tan và hủy diệt hết các nước trước kia, mà ḿnh th́ đứng đời đời;
45. Theo như vua đă xem thấy ḥn đá đục ra từ núi, chẳng phải bởi tay, đă đập vỡ
sắt, đồng, đất sét, bạc và vàng. Đức Chúa Trời lớn đă cho vua biết sự sau nầy sẽ
đến. Điềm chiêm bao nầy là thật, và lời giải nó là chắc chắn.
46. Bấy giờ vua Nê-bu-cát-nết-sa sấp mặt xuống, lạy Đa-ni-ên, và truyền dâng lễ
vật cùng đồ thơm cho người.
47. Đoạn, vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Quả thật, Đức Chúa Trời các
ngươi là Đức Chúa Trời của các thần, và là Chúa của các vua; chính Ngài là Đấng
tỏ ra những sự kín nhiệm nầy.
48. Vua bèn tôn Đa-ni-ên lên sang trọng và ban cho người nhiều lễ vật trọng. Vua
lập người cai trị cả tỉnh Ba-by-lôn, và làm đầu các quan cai những bác sĩ của
Ba-by-lôn.
49. Đa-ni-ên cầu xin vua, th́ vua lập Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô cùng cai
trị tỉnh Ba-by-lôn, c̣n Đa-ni-ên th́ chầu nơi cửa vua.
Đa-ni-ên 3 chọn
đoạn khác
1. Vua Nê-bu-cát-nết-sa làm một pho tượng bằng vàng, cao sáu mươi cu-đê và ngang
sáu cu-đê, để đứng trong đồng bằng Đu-ca, thuộc tỉnh Ba-by-lôn.
2. Đoạn, vua Nê-bu-cát-nết-sa sai nhóm các quan trấn thủ, lănh binh, các công
tước, các quan đề h́nh, thủ kho, các nghị viên, quản đốc, và các quan làm đầu
các tỉnh, để dự lễ khánh thành pho tượng mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đă dựng lên.
3. Vậy, các quan trấn thủ, lănh binh, các công tước, các quan đề h́nh, thủ kho,
các nghị viên, quản đốc, và hết thảy những người làm đầu các tỉnh đều nhóm lại
để dự lễ khánh thành pho tượng mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đă dựng lên; và họ đứng
trước pho tượng mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đă dựng.
4. Bấy giờ sứ giả rao lớn tiếng lên rằng: Các dân, các nước, các thứ tiếng, đây
nầy, lịnh truyền cho các ngươi.
5. Khi nào các ngươi nghe tiếng c̣i, kèn, đờn cầm, đờn sắt, quyển, sáo và các
thứ nhạc khí, th́ khá sấp ḿnh xuống để thờ lạy tượng vàng mà vua
Nê-bu-cát-nết-sa đă dựng.
6. Kẻ nào không sấp ḿnh xuống và không thờ lạy, tức th́ sẽ phải quăng vào giữa
ḷ lửa hực.
7. Vậy nên, khi các dân nghe tiếng c̣i, kèn, đờn cầm, đờn sắt, quyển, và các thứ
nhạc khí, th́ các dân, các nước, các thứ tiếng, thảy đều sấp ḿnh xuống, và thờ
lạy pho tượng vàng mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đă dựng.
8. Khi ấy, có mấy người Canh-đê đến gần để tố cáo những người Giu-đa.
9. Vậy họ cất tiếng và tâu cùng vua Nê-bu-cát-nết-sa rằng: Hỡi vua, nguyền vua
sống đời đời!
10. Hỡi vua, chính vua đă ra lịnh, hễ người nào nghe tiếng c̣i, kèn, đờn cầm,
đờn sắt, quyển, sáo và các thứ nhạc khí, th́ phải sấp ḿnh xuống để thờ lạy
tượng vàng;
11. và kẻ nào không sấp ḿnh xuống để thờ lạy tượng đó, sẽ phải quăng vào giữa
ḷ lửa hực.
12. Vả, ở đây có mấy người Giu-đa kia mà vua đă lập lên cai trị tỉnh Ba-by-lôn,
tức là Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô; hỡi vua, những người ấy không kiêng nể
vua một chút nào. Họ không thờ các thần của vua, và chẳng lạy tượng vàng vua đă
dựng.
13. Bấy giờ, vua Nê-bu-cát-nết-sa tức ḿnh nổi giận, truyền điệu Sa-đơ-rắc,
Mê-sác và A-bết-Nê-gô đến, th́ những người đó bị điệu đến trước mặt vua.
14. Vua Nê-bu-cát-nết-sa cất tiếng nói cùng họ rằng: Hỡi Sa-đơ-rắc, Mê-sác,
A-bết-Nê-gô, có phải các ngươi cố ư không thờ thần ta và không lạy tượng vàng mà
ta đă dựng lên chăng?
15. Vậy bây giờ, khi các ngươi nghe tiếng c̣i, kèn, đờn cầm, đờn sắt, quyển, sáo
và các thứ nhạc khí, mà các ngươi sẵn sàng sấp ḿnh xuống đất để qú lạy pho
tượng mà ta đă làm nên, th́ được; nhưng nếu các ngươi không qú lạy, th́ chính
giờ đó các ngươi sẽ phải quăng vào giữa ḷ lửa hực. Rồi thần nào có thể giải cứu
các ngươi khỏi tay ta?
16. Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô tâu lại cùng vua rằng: Hỡi
Nê-bu-cát-nết-sa, về sự nầy, không cần chi chúng tôi tâu lại cho vua.
17. Nầy, hỡi vua! Đức Chúa Trời mà chúng tôi hầu việc, có thể cứu chúng tôi
thoát khỏi ḷ lửa hực, và chắc cứu chúng tôi khỏi tay vua.
18. Dầu chẳng vậy, hỡi vua, xin biết rằng chúng tôi không hầu việc các thần của
vua, và không thờ phượng pho tượng vàng mà vua đă dựng.
19. Bấy giờ, vua Nê-bu-cát-nết-sa cả giận, biến sắc mặt ḿnh nghịch cùng
Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô; và cất tiếng truyền đốt ḷ lửa nóng gấp bảy
lần hơn lúc b́nh thường đă đốt.
20. Vua sai mấy người mạnh bạo kia trong đạo binh ḿnh trói Sa-đơ-rắc, Mê-sác và
A-bết-Nê-gô, mà quăng vào ḷ lửa hực.
21. Tức th́ các người ấy bị trói luôn với quần trong, áo dài, áo ngắn và các áo
xống khác, rồi người ta quăng họ vào giữa ḷ lửa hực.
22. Nhơn v́ mạng vua truyền kíp lắm, mà ḷ lửa th́ đốt nóng lạ thường, nên những
người quăng Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô bị ngọn lửa cháy chết.
23. C̣n ba người, Sa-đơ-rắc, Mê-rác, A-bết-Nê-gô, vẫn bị trói mà rơi vào giữa ḷ
lửa hực.
24. Bấy giờ, vua Nê-bu-cát-nết-sa lấy làm lạ, vội vàng đứng dậy, cất tiếng nói
cùng các nghị viên rằng: Những kẻ bị ta trói mà quăng vào giữa lửa có phải là ba
người không? Họ tâu cùng vua rằng: Tâu vua, phải.
25. Vua lại nói, Nầy, ta thấy bốn người không có bị trói, bước đi giữa lửa mà
chẳng bị thương; và h́nh dong của người thứ tư giống như một con trai của các
thần.
26. Đoạn, vua Nê-bu-cát-nết-sa đến gần cửa ḷ lửa hực, cất tiếng nói rằng: Hỡi
Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô, là tôi tớ của Đức Chúa Trời Rất Cao, hăy ra và
lại đây! Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô bèn từ giữa đám lửa mà ra.
27. Các quan trấn thủ, lănh binh, các người cai trị và các nghị viên của vua đều
nhóm lại, thấy lửa không có quyền làm hại thân thể ba người ấy được, cũng chẳng
có một sợi tóc nào trên đầu họ bị sém; áo xống họ chẳng bị si sứt chút nào, và
mùi lửa cũng chẳng qua trên họ.
28. Vua Nê-bu-cát-nết-sa lại cất tiếng nói rằng: Đáng ngợi khen Đức Chúa Trời
của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô! Ngài đă sai thiên sứ Ngài và giải cứu các
tôi tớ Ngài nhờ cậy Ngài, họ đă trái mạng vua, và liều bỏ thân thể ḿnh, hầu để
không hầu việc và không thờ phượng thần nào khác ngoài Đức Chúa Trời ḿnh.
29. Cho nên ta ban chiếu chỉ nầy: Bất kỳ dân nào, nước nào, thứ tiếng nào, hễ có
người nói xấu đến Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô, th́ sẽ bị
phân thây, nhà nó sẽ phải thành ra đống phân, v́ không có thần nào khác có thể
giải cứu được thể nầy.
30. Vua bèn thăng chức cho Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-Nê-gô trong tỉnh
Ba-by-lôn.
Đa-ni-ên 4 chọn
đoạn khác
1. Vua Nê-bu-cát-nết-sa truyền cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng, ở
trên khắp đất, rằng: Nguyền cho sự b́nh an các ngươi được thêm lên!
2. Ta lấy làm tốt lành mà rao cho các ngươi những dấu lạ và sự lạ mà Đức Chúa
Trời Rất Cao đă làm ra đối với ta.
3. Ôi! Những dấu lạ của Ngài lớn lao là dường nào! những sự lạ của Ngài mạnh sức
là dường nào! nước Ngài là nước c̣n măi măi, và quyền thế Ngài từ đời nọ đến đời
kia.
4. Ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ở yên lặng trong cung ta, và thạnh vượng trong đền ta.
5. Ta thấy một điềm chiêm bao làm cho ta sợ sệt; những ư tưởng của ta ở trên
giường, và những sự hiện thấy của đầu ta làm cho ta bối rối.
6. Vậy ta truyền chiếu chỉ, đem hết thảy những bác sĩ của Ba-by-lôn đến trước
mặt ta, hầu cho họ giải nghĩa điềm chiêm bao cho ta.
7. Bấy giờ, những đồng bóng, thuật sĩ, người Canh-đê và thầy bói đều đến, ta kể
điềm chiêm bao trước mặt họ.
8. Sau hết, có Đa-ni-ên, gọi là Bên-tơ-xát-sa theo tên thần của ta, người được
linh của các thần thánh cảm động, th́ đến ra mắt ta. Ta kể chiêm bao ta cho
người mà rằng:
9. Hỡi Bên-tơ-xát-sa, người làm đầu các thuật sĩ, bởi ta biết rằng linh của các
thần thánh ở trong người, và không có một điều kín nhiệm nào là khó cho ngươi,
vậy hăy bảo cho ta những sự hiện thấy trong chiêm bao ta đă thấy, và hăy giải
nghĩa.
10. Nầy là những sự hiện thấy đă tỏ ra trong đầu ta khi ta nằm trên giường: Ta
nh́n xem, và nầy, ở giữa đất có một cây cao lạ thường.
11. Cây đó lớn lên và trở nên cứng mạnh; ngọn nó chấm đến trời, và ở nơi cuối
cùng khắp đất đều xem thấy nó.
12. Lá nó th́ đẹp và trái th́ sai, có đủ cho mọi loài ăn; các thú đồng núp dưới
bóng nó; chim trời ở trên nhành nó, và mọi loài xác thịt nhờ nó mà nuôi ḿnh.
13. Ta nh́n xem những sự hiện thấy trong đầu ta, khi ta nằm trên giường, và nầy,
có một đấng thánh canh giữ từ trên trời xuống,
14. Người kêu lớn tiếng và nói rằng: Hăy đốn cây và chặt nhành nó; hăy làm rụng
lá và văi trái nó ra; hăy cho thú vật tránh khỏi dưới nó, và chim chóc khỏi
nhành nó!
15. Dầu vậy, hăy để lại gốc của rễ nó trong đất, mà cột nó bằng một dây xích sắt
và đồng, nơi giữa cỏ xanh trong đồng ruộng; cho nó bị sương trên trời thấm ướt;
và cho người cùng các loài thú chia phần cỏ dưới đất!
16. Cho ḷng người bị đổi đi, và người được ban cho ḷng thú; và trải qua bảy kỳ
trên người.
17. Án đó là bởi các đấng canh giữ đă định, và lời các thánh đă truyền, hầu cho
những kẻ sống biết rằng Đấng Rất Cao cai trị trong nước của loài người; Ngài
muốn ban cho ai tùy ư, và lập kẻ rất hèn hạ trong loài người lên đó.
18. Ta đây và vua Nê-bu-cát-nết-sa, đă thấy điềm chiêm bao ấy. Vậy, hỡi
Bên-tơ-xát-sa, ngươi hăy giải nghĩa cho ta được, v́ hết thảy bác sĩ trong nước
ta không có thể giải nghĩa cho ta được; nhưng ngươi giải được, v́ linh của các
thần thánh ở trong ngươi.
19. Bấy giờ Đa-ni-ên, gọi tên là Bên-tơ-xát-sa, bị câm trong giây lâu, và những
ư tưởng làm cho người bối rối. Vua lại cất tiếng nói rằng: Hỡi Bên-tơ-xát-sa,
đừng cho điềm chiêm bao và sự giải nghĩa làm rối ngươi. Bên-tơ-xát-sa nói rằng:
Thưa chúa, nguyền cho điềm chiêm bao đến cho những kẻ ghét chúa và sự giải nghĩa
cho kẻ thù nghịch chúa!
20. Cây mà vua đă thấy, trở nên lớn và mạnh ngọn chấm đến trời, và khắp đất đều
xem thấy,
21. lá th́ đẹp và trái th́ sai, có đủ cho mọi loài ăn, các thú đồng ở dưới bóng
nó, các loài chim trời làm ổ trên nhành nó,
22. hỡi vua, ấy là chính ḿnh vua, vua đă trở nên lớn và mạnh, sự cao cả của vua
tăng thêm và thấu đến trời, quyền thế vua đến đầu cùng đất.
23. Song đến điều vua thấy một đấng thánh canh giữ từ trời mà xuống, và nói
rằng: Hăy đốn cây và hủy phá đi; song, hăy để lại gốc của rễ nó trong đất, rồi
hăy buộc nó bằng một dây xích sắt và đồng ở giữa đám cỏ xanh trong đồng ruộng,
cho nó bị nhuần thấm bởi sương móc trên trời; và cho người có phần với các thú
đồng, cho đến khi đă trải qua trên người bảy kỳ.
24. Hỡi vua, nầy là lời giải, và nầy là mạng định của Đấng Rất Cao, đă đến trên
vua, chúa tôi:
25. Người ta sẽ đuổi vua ra khỏi giữa loài người, và chỗ ở vua sẽ ở giữa những
thú vật trong đồng. Vua sẽ bị buộc phải ăn cỏ như ḅ, và sẽ được thấm nhuần
sương móc trên trời; bảy kỳ sẽ trải qua trên vua, cho đến khi vua nhận biết rằng
Đấng Rất Cao cai trị trong nước loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ư.
26. C̣n như đă truyền rằng chừa lại gốc của rễ cây đó, tức là khi nào vua đă
nhận biết các từng trời cầm quyền, th́ nước vua chắc sẽ thuộc về vua.
27. Vậy nên, hỡi vua, xin hăy nghe lời tôi khuyên vua: hăy lấy sự công b́nh mà
chuộc tội lỗi, hăy thương xót những kẻ nghèo khó để chuộc những điều gian ác
ḿnh. Như vậy sự b́nh an vua c̣n có thể lâu dài hơn nữa.
28. Hết thảy những sự đó đều đến cho vua Nê-bu-cát-nết-sa.
29. Khi khỏi mười hai tháng, vua đi dạo trong hoàng cung Ba-by-lôn,
30. th́ cất tiếng mà nói rằng: Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn mà ta đă dựng,
bởi quyền cao cả ta, để làm đế đô ta, và làm sự vinh hiển oai nghi của ta sao?
31. Lời chưa ra khỏi miệng vua, th́ có tiếng từ trên trời xuống rằng: Hỡi
Nê-bu-cát-nết-sa, đă báo cho ngươi biết rằng: Ngôi nước đă ĺa khỏi ngươi.
32. Ngươi sẽ bị đuổi khỏi giữa loài người, sẽ ở với thú đồng; sẽ bị buộc phải ăn
cỏ như ḅ, rồi bảy kỳ sẽ trải qua trên ngươi, cho đến khi ngươi nhận biết rằng
Đấng Rất Cao cai trị trong nước của loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ư.
33. Trong chính giờ đó, lời nói ấy đă ứng nghiệm cho vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua
bị đuổi khỏi giữa loài người; ăn cỏ như ḅ; thân thể vua phải thấm nhuần sương
móc trên trời, cho đến tóc vua cũng mọc như lông chim ưng, móng vua th́ giống
như móng loài chim chóc.
34. Đến cuối cùng những ngày đó, ta đây, Nê-bu-cát-nết-sa, ngước mắt lên trời,
trí khôn đă phục lại cho ta, và ta xưng tạ Đấng Rất Cao. Ta bèn ngợi khen và làm
sáng danh Đấng sống đời đời, uy quyền Ngài là uy quyền c̣n măi măi, nước Ngài từ
đời nọ đến đời kia.
35. Hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có; Ngài làm theo ư ḿnh
trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài
và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?
36. Trong lúc đó, trí khôn phục lại cho ta, ta lại được sự vinh hiển của ngôi
nước ta, sự oai nghi chói sáng trở lại cho ta; những nghị viên và đại thần ta
lại chầu ta. Ta lại được lập lên trên ngôi nước, và sự uy nghi quyền thế ta càng
thêm.
37. Bây giờ, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ngợi khen, tôn vinh, và làm cả sáng Vua trên
trời; mọi công việc Ngài đều chơn thật, các đường lối Ngài đều công b́nh; và kẻ
nào bước đi kiêu ngạo, Ngài có thể hạ nó xuống.
Đa-ni-ên 5 chọn
đoạn khác
1. Vua Bên-xát-sa dọn tiệc lớn đăi một ngàn đại thần ḿnh, và vua uống rượu
trước mặt họ.
2. Vua Bên-xát-sa đương nhấm rượu, truyền đem những khí mạnh bằng vàng và bạc mà
vua Nê-bu-cát-nết-sa, cha ḿnh, đă lấy trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, hầu cho
vua và các đại thần, cùng các hoàng hậu và cung phi vua dùng mà uống.
3. Người ta bèn đem đến những khí mạnh bằng vàng đă lấy từ trong đền thờ của nhà
Đức Chúa Trời, tại Giê-ru-sa-lem; và vua cùng các đại thần, các hoàng hậu và
cung phi ḿnh dùng mà uống.
4. Vậy họ uống rượu và ngợi khen các thần bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng
sắt, bằng gỗ và bằng đá.
5. Chính giờ đó, co những ngón tay của bàn tay người hiện ra, viết trên vôi
tường cung vua, đối ngay chỗ để chơn đèn; và vua trông thấy phần bàn tay đó
đương viết.
6. Bấy giờ vua biến sắc mặt, các ư tưởng làm cho vua bối rối; các xương lưng rời
khớp ra, và hai đầu gối chạm vào nhau.
7. Vua kêu lớn tiếng truyền vời các thuật sĩ, người Canh-đê, và thầy bói đến.
Đoạn, vua cất tiếng và nói cùng những bác sĩ của Ba-by-lôn rằng: Ai đọc được chữ
nầy và giải nghĩa ra cho ta, th́ sẽ được mặc màu tía, được đeo ṿng vàng vào cổ,
và được dự bật thứ ba trong việc chánh trị nhà nước.
8. Bấy giờ hết thảy bác sĩ của vua đều vào; nhưng họ không đọc được chữ, cũng
không thể cắt nghĩa cho vua được.
9. Vua Bên-xát-sa lấy làm bối rối lắm; sắc mặt người đổi đi; các quan đại thần
đều bỡ ngỡ.
10. Bà thái hậu, v́ cớ lời của vua và các quan đại thần đă nói, bèn vào trong
pḥng tiệc, cất tiếng nói rằng: Hỡi vua, chúc vua sống đời đời! Xin vua chớ để
tư tưởng bối rối, chớ đổi sắc mặt đi!
11. Trong nước vua có một người, linh của các thần thánh ở trong nó. Về đời vua
cha, người ta thấy trong nó có ánh sáng, sự thông minh, khôn ngoan, như sự khôn
ngoan của các v́ thần. Vậy nên vua Nê-bu-cát-nết-sa, cha vua, chính cha vua, đă
lập người lên làm đầu các đồng bóng, thuật sĩ, người Canh-đê và thầy bói,
12. bởi v́ Đa-ni-ên mà vua đă đặt tên Bên-tơ-xát-sa, trong người có linh tánh
tốt lành, có sự thông biết và khôn sáng để giải nghĩa được những câu kín nhiệm,
và làm co những sự hồ nghi tan chảy. Vậy bây giờ hăy sai gọi Đa-ni-ên, và người
sẽ giải nghĩa cho.
13. Bấy giờ Đa-ni-ên được đem đến trước mặt vua. Đoạn, vua cất tiếng nói cùng
Đa-ni-ên rằng: Ngươi có phải là Đa-ni-ên, một trong các con cái phu tù Giu-đa,
mà vua cha ta đă điệu từ Giu-đa về chăng?
14. Ta đă nghe nói về ngươi rằng linh của các thần ở trong ngươi, và người ta đă
thấy trong ngươi có ánh sáng, sự thông minh, và khôn ngoan lạ thường.
15. Bây giờ những bác sĩ và thuật sĩ đă được đem đến trước mặt ta để đọc những
chữ nầy và giải nghĩa cho ta; nhưng họ không giải nghĩa được.
16. Ta nghe nói rằng ngươi có thể giải nghĩa và làm cho những sự hồ nghi tan
chảy. Vậy nếu ngươi đọc được chữ nầy và giải nghĩa cho ta, th́ sẽ được mặc màu
tía, sẽ mang ṿng vàng nơi cổ, và dự chức thứ ba trong việc chánh trị nhà nước.
17. Bấy giờ Đa-ni-ên cất tiếng và nói trước mặt vua rằng: Vua hăy giữ lại của
ban thưởng, và lễ vật vua hăy ban cho kẻ khác! Dầu vậy, tôi sẽ đọc chữ viết đó
và giải nghĩa cho vua.
18. Hỡi vua, Đức Chúa Trời Rất Cao đă ban ngôi vua và quyền thế lớn, sự tôn vinh
và uy nghiêm cho cha vua là Nê-bu-cát-nết-sa.
19. V́ cớ Ngài đă ban cho người quyền to, th́ hết thảy các dân, các nước, các
thứ tiếng đều run rẩy trước mặt người, và sợ hăi người. Người muốn giết ai th́
giết, và muốn để ai sống th́ để. Người nâng ai cao lên hay hạ ai thấp xuống th́
tùy ư người.
20. Nhưng v́ ḷng người tự cao, và tánh người cứng cỏi, làm một cách kiêu ngạo,
nên người bị truất mất ngôi vua và lột hết sự vinh hiển.
21. Người bị đuổi khỏi giữa các con trai loài người; ḷng người trở nên giống
như ḷng súc vật, và chỗ ở người th́ cùng với những lừa rừng. Người bị nuôi bằng
cỏ như ḅ, và thân người bị nhuần thấm sương móc trên trời, cho đến khi người
nhận biết rằng Đức Chúa Trời Rất Cao cai trị trong nước loài người, và Ngài muốn
lập ai lên đó tùy ư.
22. Hỡi vua Bên-xát-sa, con của người, vua cũng vậy, dầu vua đă biết hết các
việc ấy, mà ḷng vua cũng không chịu nhún nhường chút nào;
23. nhưng vua đă lên ḿnh nghịch cũng Chúa trên trời, mà khiến đem đến trước vua
những khí mạnh của nhà Ngài, và dùng mà uống rượu, cùng với các quan đại thần,
các hoàng hậu và cung phi vua. Vua cũng đă tôn vinh thần bằng bạc, bằng vàng,
bằng đồng, bằng sắt, bằng gỗ và bằng đá, là những thần không thấy không nghe
không biết ǵ; và vua không thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng cầm trong tay Ngài
hơi thở và hết thảy các đường lối của vua.
24. Vậy nên từ nơi Ngài đă sai phần bàn tay nầy đến, và chữ đó đă vạch ra.
25. Những chữ đă vạch ra như sau nầy: Mê-nê, Mê-nê, Tê-ken, U-phác-sin.
26. Nầy là nghĩa những chữ đó: Mê-nê là: Đức Chúa Trời đă đếm nước vua và khiến
nó đến cuối cùng.
27. Tê-ken là: Vua đă bị cân trên cái cân, và thấy kém thiếu.
28. Phê-rết là: Nước vua bị chia ra, được ban cho người Mê-đi và người
Phe-rơ-sơ.
29. Tức th́, theo lịnh truyền của vua Bên-xát-sa, người ta mặc màu tía cho
Đa-ni-ên; đeo vào cổ người một ṿng vàng, và rao ra rằng người được dự chức thứ
ba trong việc chánh trị nhà nước.
30. Ngay đêm đó, vua người Canh-đê là Bên-xát-sa bị giết.
31. Rồi Đa-ri-út là người Mê-đi được nước, bấy giờ tuổi người độ sáu mươi hai.
Đa-ni-ên 6 chọn
đoạn khác
1. Vua Đa-ri-út ưng đặt trong nước một trăm hai mươi quan trấn thủ, để chia nhau
trị cả nước,
2. và trên họ có ba quan thượng thơ, mà một là Đa-ni-ên. Các quan trấn thủ phải
khai tŕnh với ba quan đó, hầu cho vua khỏi chịu một sự tổn hại nào.
3. Vả, Đa-ni-ên lại trổi hơn hai quan thượng thơ kia và các quan trấn thủ, v́
người có linh tánh tốt lành; th́ vua định lập người trên cả nước.
4. Các quan thượng thơ và trấn thủ bèn t́m cớ kiện Đa-ni-ên về việc nước; nhưng
họ không thể t́m được một cớ nào, hay một sự xấu nào của người, bởi người là
trung thành, trong người chẳng có điều lỗi và cũng chẳng có sự xấu.
5. Vậy những người đó nói rằng: Chúng ta không t́m được một cớ nào mà cáo
Đa-ni-ên nầy, nếu chúng ta chẳng t́m trong sự thuộc về luật pháp Đức Chúa Trời
nó.
6. Các quan thượng thơ và trấn thủ đó bèn vào chầu vua và tâu rằng: Hỡi vua
Đa-ri-út, chúc vua sống đời đời!
7. Hết thảy các quan thượng thơ trong nước, các quan lănh binh, các quan trấn
thủ, các nghị viên và các đại thần đều đồng t́nh xin vua ra chỉ dụ, lập một cấm
lịnh nghiêm nhặt trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin thần nào hay một người nào
ngoài vua, th́, hỡi vua, kẻ ấy sẽ phải quăng vào hang sư tử.
8. Bây giờ hỡi vua, hăy lập điều cấm đó và kư tên vào, hầu cho không đổi thay
đi, theo như luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, không thể đổi được.
9. Vậy vua Đa-ri-út bèn kư tên lập cấm lịnh đó.
10. Khi Đa-ni-ên nghe rằng chỉ dụ đó đă kư tên rồi, th́ về nhà ḿnh (những cửa
sổ của pḥng người th́ mở về hướng Giê-ru-sa-lem). Tại đó, cứ một ngày ba lần,
người qú gối xuống, cầu nguyện, xưng tạ trước mặt Đức Chúa Trời ḿnh, như vẫn
làm khi trước.
11. Bấy giờ những người đó nhóm lại, thấy Đa-ni-ên đương cầu nguyện nài xin
trước mặt Đức Chúa Trời ḿnh.
12. Họ bèn đến chầu vua và tâu cùng vua về cấm lịnh của vua rằng: Hỡi vua, vua
chẳng từng kư tên vào một cấm lịnh rằng trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin thần
nào hay người nào ngoài vua, th́ sẽ phải quăng vào hang sư tử đó chăng? Vua trả
lời rằng: Sự đó là thật, theo như luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ,
không thể đổi được.
13. Họ bèn đáp lại và tâu vua rằng: Đa-ni-ên, là một trong những con cái phu tù
Giu-đa, không có ḷng kiêng nể vua chút nào, hỡi vua, dầu đến cấm lịnh vua đă kư
tên cũng vậy; song nó cứ một ngày cầu nguyện ba lần.
14. Khi vua nghe những lời đó, th́ lấy làm buồn bă lắm; vua định ḷng giải cứu
Đa-ni-ên, và măi đến khi mặt trời lặn, cố hết sức t́m thể để giải cứu người.
15. Nhưng các người đó nhóm lại cùng vua và tâu rằng: Hỡi vua, xin biết rằng
theo luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, hễ là cấm lịnh hay chỉ dụ nào
mà vua đă lập định rồi, th́ không thể thay đổi được.
16. Bấy giờ vua truyền điệu Đa-ni-ên đến, và phải ném người vào hang sư tử. Vua
cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Đức Chúa Trời ngươi là Đấng ngươi hằng hầu
việc, sẽ giải cứu ngươi.
17. Người ta bèn đem đến một ḥn đá chận nơi cửa hang, và vua đóng ấn ḿnh cùng
ấn các đại thần nữa, hầu cho không có điều ǵ thay đổi được về Đa-ni-ên.
18. Sau đó, vua trở về cung ḿnh, và suốt đêm kiêng ăn, cũng không đem bạn nhạc
đến trước mặt ḿnh, và vua không ngủ được.
19. Đoạn, vua dậy sớm, khi hừng sáng, vội vàng đi đến hang sư tử.
20. Khi vua đến gần hang, lấy giọng rầu rĩ mà kêu Đa-ni-ên; vua cất tiếng nói
cùng Đa-ni-ên rằng: Hỡi Đa-ni-ên, tôi tớ Đức Chúa Trời hằng sống! Đức Chúa Trời
ngươi mà ngươi hằng hầu việc có thể giải cứu ngươi khỏi sư tử được chăng?
21. Bấy giờ Đa-ni-ên tâu cùng vua rằng: Hỡi vua, chúc vua sống đời đời!
22. Đức Chúa Trời tôi đă sai thiên sứ Ngài, và bịt miệng các sư tử, nên chúng nó
không làm hại chi đến tôi, bởi tôi đă được nhận là vô tội trước mặt Ngài. Hỡi
vua, đối với vua cũng vậy, tôi chẳng từng làm hại ǵ.
23. Bấy giờ vua mừng rỡ lắm, và truyền đem Đa-ni-ên lên khỏi hang. Vậy Đa-ni-ên
được đem lên khỏi hang, và người không thấy một vết tích nào trên người, bởi
người đă nhờ cậy Đức Chúa Trời ḿnh.
24. Theo lịnh vua, những kẻ đă kiện Đa-ni-ên ấy cùng con cái và vợ họ đều bị
điệu đến quăng vào hang sư tử. Khi họ chưa đến dưới đáy hang, th́ những sư tử đă
vồ lấy và xé xương hết thảy.
25. Bấy giờ, vua Đa-ri-út viết cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng ở
khắp trên đất rằng: Nguyền cho sự b́nh an các ngươi được thêm lên!
26. Ta ban chiếu chỉ rằng, trong khắp các miền nước ta, người ta phải run rẩy
kính sợ trước mặt Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên; v́ Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống
và c̣n đời đời. Nước Ngài không bao giờ bị hủy diệt, và quyền thế Ngài sẽ c̣n
đến cuối cùng.
27. Ngài cứu rỗi và giải thoát, làm những dấu lạ sự lạ ở trên trời dưới đất, đă
cứu Đa-ni-ên khỏi quyền thế sư tử.
28. Đa-ni-ên cứ được thạnh vượng như vậy trong đời vua Đa-ri-út và vua Si-ru là
người Phe-rơ-sơ.
Đa-ni-ên 7 chọn
đoạn khác
1. Năm đầu đời vua Bên-xát-sa, nước Ba-by-lôn, Đa-ni-ên đang nằm trên giường,
th́ thấy chiêm bao, và những sự hiện thấy trong đầu ḿnh. Người bèn viết chiêm
bao đó ra, và thuật lại đại lược các sự ấy.
2. Vậy, Đa-ni-ên nói rằng: Đương đêm, ta nh́n xem trong sự hiện thấy, và, nầy,
có bốn hướng gió trên trời xô xát trên biển lớn.
3. Đoạn, bốn con thú lớn từ biển lên; con nọ khác con kia.
4. Con thứ nhứt giống như sư tử, và có cánh chim ưng. Ta nh́n xem cho đến khi
những cánh nó bị nhổ, nó bị cất lên khỏi đất, đứng hai chơn như người ta, và nó
được ban cho ḷng loài người.
5. Nầy, một con thú thứ hai, in như con gấu; nó đứng nghiêng nửa ḿnh, có ba cái
xương sườn trong miệng, giữa những răng; và người ta bảo nó rằng: Hăy chổi dậy,
hăy cắn nuốt nhiều thịt.
6. Sau đó, ta nh́n xem, nầy, có một con thú khác giống như con beo, ở trên lương
có bốn cánh như cánh chim. Con thú đó có bốn đầu, và được ban cho quyền cai trị.
7. Sau ta lại nh́n xem trong sự hiện thấy ban đêm, nầy, một con thú thứ tư, dữ
tợn, rất mạnh và có sức lắm. Con thú đó có những răng lớn bằng sắt; nó nuốt ăn
và nghiền nát, dùng chơn giày đạp vật ǵ c̣n lại, nó khác với các con thú đă đến
trước, và có mười sừng.
8. Ta suy xét những sừng đó, và, nầy, có một cái sừng nhỏ khác ở giữa những sừng
ấy mọc lên, và ba cái trong những sừng trước bị nhổ đi trước mặt nó. Nầy, cái
sừng đó có những mắt in như mắt người, và một cái miệng nói những lời xấc xược.
9. Ta nh́n xem cho đến chừng các ngôi đă đặt, và có Đấng Thượng Cổ ngồi ở trên.
Áo Ngài trắng như tuyết, và tóc trên đầu Ngài như lông chiên sạch. Ngôi Ngài là
những ngọn lửa, và các bánh xe là lửa hừng.
10. Trước mặt Ngài, một sông lửa chảy ra và tràn lan; ngàn ngàn hầu hạ Ngài và
muôn muôn đứng trước mặt Ngài. Sự xét đoán đă sắm sẵn, và các sách mở ra.
11. Bấy giờ ta nh́n xem v́ cớ tiếng của những lời xấc xược mà sừng ấy nói ra.
Vậy ta nh́n xem cho đến chừng con thú bị giết, xác nó bị hủy diệt và bị phó cho
lửa để đốt.
12. C̣n những con thú khác cũng bị cất hết quyền, nhưng được làm dài đời sống
ḿnh một mùa và một kỳ.
13. Ta lại nh́n xem trong những sự hiện thấy ban đêm, nầy, có một người giống
như con người đến với những đám mây đến trời; người tới đến Đấng Thượng Cổ và bị
dẫn đến trước mặt Ngài.
14. Người đến ban cho quyền thế, vinh hiển, và nước; hầu cho hết thảy các dân,
các nước, các thứ tiếng đều hầu việc người. Quyền thế người là quyền thế đời đời
chẳng qua đi, và nước người không bao giờ phải hủy phá.
15. C̣n như ta, Đa-ni-ên, th́ tâm thần ta rầu rĩ trong ḿnh ta, và những sự hiện
thấy trong đầu ta lam cho ta bối rối.
16. Ta bèn lại gần một người trong những người đứng đó, và hỏi người về lẽ thật
của mọi sự nầy. Người bèn nói cùng ta và giải nghĩa cho ta mà rằng:
17. Bốn con thú lớn đó là bốn vua sẽ dấy khiến trên đất.
18. Nhưng các thánh của Đấng Rất Cao sẽ nhận lấy nước, và được nước làm của ḿnh
đời đời, cho đến đời đời vô cùng.
19. Bấy giờ ta muốn biết lẽ thật về con thú thứ tư, là con khác với hết thảy các
con khác, rất dữ tợn, răng th́ bằng sắt, móng th́ bằng đồng, nó cắn nuốt, nghiền
nát, và có ǵ c̣n lại th́ giày đạp dưới chơn.
20. Ta cũng muốn biết lẽ thật về mười cái sừng ở trên đầu nó, và về cái sừng
khác mọc lên, và trước mặt nó ba sừng kia đă bị rơi xuống, sừng nầy có những mắt
và miệng nói những lời xấc xược, và h́nh dạng nó mạnh bạo hơn những sừng khác.
21. Ta nh́n xem, cái sừng đó tranh chiến cùng các thánh, và thắng trận,
22. cho tới khi Đấng Thượng Cổ đă đến, sự xét đoán và ban cho các thánh của Đấng
Rất Cao và th́ giờ đă đến, là khi các thánh được nước làm của ḿnh.
23. Vậy người nói cùng ta như vầy: Con thú thứ tư sẽ làm nước thứ tư trên đất,
khác với hết thảy các nước, và nó sẽ nuốt cả đất, giày đạp và nghiền nát ra.
24. Mười cái sừng là mười vua sẽ dấy khiến từ nước đó; và có một vua dấy lên
sau, khác với các vua trước, và người đánh đổ ba vua.
25. Vua đó sẽ nói những lời phạm đến Đấng Rất Cao, làm hao ṃn các thánh của
Đấng Rất Cao, và định ư đổi những thời kỳ và luật pháp; các thánh sẽ bị phó
trong tay người cho đến một kỳ, những kỳ, và nửa kỳ.
26. Nhưng sẽ xét đoán sẽ đến, và người ta sẽ cất quyền thế khỏi nó, để diệt đi
và làm cho hủy phá đến cuối cùng.
27. Bấy giờ nước, quyền thế, và sự tôn đại của muôn nước ở dưới cả trời, sẽ được
ban cho dân các thánh của Đấng Rất Cao. Nước Ngài là nước đời đời, và hết thảy
các quyền thế đều hầu việc và vâng lời Ngài.
28. Vậy, lời ấy đến đây là hết. C̣n như ta, Đa-ni-ên, các ư tưởng ta khiến ta
bối rối lắm. Sắc ta biến cải, dầu vậy, ta vẫn ghi nhớ những sự đó trong ḷng ta.
Đa-ni-ên 8 chọn
đoạn khác
1. Năm thứ ba, đời vua Bên-xát-sa, có sự hiện thấy tỏ ra cho ta, là Đa-ni-ên,
sau sự hiện thấy đă tỏ ra cho ta khi trước.
2. Vậy ta thấy trong sự hiện thấy; vả khi ta thấy th́ ta tại cung Su-sơ, về tỉnh
Ê-lam; và trong sự hiện thấy, ta thấy ḿnh ta ở cạnh sông U-lai.
3. Ta ngước mắt lên và thấy, nầy, có một con chiên đực đứng gần sông, có hai cái
sừng; hai sừng nó cao, nhưng một cái th́ cao hơn cái kia, và cái cao hơn th́ mọc
lên sau.
4. Bấy giờ ta thấy con chiên đực ấy húc sừng ḿnh vào phía tây, phía bắc, và
phía nam. Không có thú vật nào chống cự cùng nó được, và chẳng ai có thể cứu
được khỏi tay nó. Nó muốn làm chi tùy ư, và nó càng lớn lên.
5. Khi ta nh́n xem sự đó, nầy, một con dê đực đến từ phía tây, đi khắp trên mặt
đất; con dê đó có cái sừng mọc rơ ra giữa hai con mắt nó.
6. Nó đến tận chỗ con chiên đực có hai sừng, mà ta đă thấy đứng gần sông; nó hết
sức giận chạy đến nghịch cùng chiên đực ấy.
7. Ta thấy nó đến gần con chiên đực, nổi giận húc nó, làm găy hai cái sừng; con
chiên đực không có sức nào chống lại; con dê vật nó xuống đất, giày đạp lên
trên, và chẳng ai có thể cứu con chiên đực khỏi tay nó được.
8. Con dê đực làm ḿnh nên lớn lắm; nhưng khi nó đă mạnh, th́ cái sừng lớn của
nó găy đi, và ở chỗ đó, có bốn cái sừng mọc rơ ra hướng về bốn gió trên trời.
9. Bởi một trong các sừng, có mọc ra một cái sừng nhỏ, lớn lên rất mạnh, về
phương nam, phương đông, lại hướng về đất vinh hiển.
10. Nó lớn lên đến cơ binh trên trời; làm cho đổ xuống đất một phần cơ binh và
một phần trong các ngôi sao, rồi nó giày đạp lên.
11. Nó làm ḿnh nên lớn cho đến tướng cơ binh; nó cất của lễ hằng dâng khỏi
Ngài, và nơi thánh của Ngài bị quăng xuống.
12. V́ cớ tội lỗi th́ cơ binh được phó cho nó, lên với của lễ thiêu hằng dâng;
và nó ném bỏ lẽ thật xuống đất, nó làm theo ư ḿnh và được thạnh vượng.
13. Bấy giờ ta nghe một đấng thánh đương nói, và một đấng thánh khác nói cùng
đấng đương nói, rằng: Sự hiện thấy nầy về của lễ thiêu hằng dâng và về tội ác
sanh ra sự hủy diệt, đặng phó nơi thánh cùng cơ binh để bị giày đạp dưới chơn,
sẽ c̣n có cho đến chừng nào?
14. Người trả lời rằng: Cho đến hai ngàn ba trăm buổi chiều và buổi mai; sau đó
nơi thánh sẽ được thanh sạch.
15. Khi mà ta, Đa-ni-ên, nh́n xem sự hiện thấy đó, và ta t́m cách để rơ nghĩa,
nầy, có như h́nh dạng người nam đứng trước ta.
16. Ta nghe tiếng một người nam từ giữa bờ sông U-lai, kêu và bảo rằng:
Gáp-ri-ên, hăy cho người nầy hiểu sự hiện thấy đó.
17. Người bèn đến gần chỗ ta đứng; khi người đă đến, ta kinh hăi, và ngă sấp mặt
xuống đất. Người bảo ta rằng: Hỡi con người, hăy hiểu biết; v́ sự hiện thấy đó
có quan hệ với kỳ sau rốt.
18. Khi người đương nói với ta, ta ngủ mê sấp mặt xuống đất; nhưng người đụng
đến ta, khiến cho ta đứng dậy.
19. Người bảo ta rằng: Nầy, ta sẽ bảo cho ngươi biết điều sẽ đến trong kỳ sau
rốt của sự thạnh nộ; v́ điều nầy quan hệ đến kỳ định cuối cùng.
20. Con chiên đực mà ngươi đă thấy, có hai sừng, đó là các vua nước Mê-đi và
Phe-rơ-sơ.
21. Con dê xờm đực, tức là vua nước Gờ-réc; và cái sừng lớn ở giữa hai con mắt,
tức là vua đầu nhứt.
22. Về sừng đă găy đi, có bốn sừng mọc lên trong chỗ nó: tức là bốn nước bởi dân
tộc đó dấy lên, song quyền thế không bằng sừng ấy.
23. Đến kỳ sau rốt của nước chúng nó, khi số những kẻ bội nghịch đă đầy, th́ sẽ
dấy lên một vua, là người có bộ mặt hung dữ và thấu rơ những lời mầu nhiệm.
24. Quyền thế người sẽ lớn thêm, nhưng không phải bởi sức ḿnh. Người làm những
sự tàn phá lạ thường; và được thạnh vượng, làm theo ư ḿnh, hủy diệt những kẻ có
quyền và dân thành.
25. Người dùng quyền thuật làm nên chước gian dối ḿnh được thắng lợi. Trong
ḷng người tự làm ḿnh nên lớn, và trong lúc dân ở yên ổn, người sẽ hủy diệt
nhiều kẻ; người nổi lên chống với vua của các vua, nhưng người sẽ bị bẻ găy
chẳng bởi tay người ta.
26. Vả, sự hiện thấy về các buổi chiều và các buổi mai mà nói đến là thật. Nhưng
ngươi hăy giữ kín sự hiện thấy đó, v́ nó quan hệ với sau nhiều ngày.
27. Bấy giờ, ta, Đa-ni-ên, mê mẩn, và đau ốm trong mấy ngày; đoạn ta chổi dậy và
làm việc vua. Ta rất lấy làm lạ về sự hiện thấy ấy, nhưng chẳng ai rơ ư nó.
Đa-ni-ên 9 chọn
đoạn khác
1. Năm đầu Đa-ri-út con trai A-suê-ru, về ḍng người Mê-đi, đă được lập làm vua
trị nước người Canh-đê;
2. đương năm đầu về triều người, ta, Đa-ni-ên, bởi các sách biết rằng số năm mà
lời Đức Giê-hô-va đă phán cùng đấng tiên tri Giê-rê-mi, để cho trọn sự hoang vu
thành Giê-ru-sa-lem, là bảy mươi năm.
3. Ta để mặt hướng về Chúa là Đức Chúa Trời, lấy sự khấn nguyện, nài xin, với sự
kiêng ăn, mặc bao gai, đội tro mà t́m.
4. Vậy, ta cầu nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời ta, và ta xưng tội cùng Ngài mà
rằng: Ôi! Chúa là Đức Chúa Trời cao cả và đáng khiếp sợ! Ngài giữ lời giao ước
và sự nhơn từ đối với những kẻ yêu Ngài và giữ các điều răn Ngài,
5. chúng tôi đă phạm tội, làm sự trái ngược, ăn ở hung dữ, chúng tôi đă bạn
nghịch và đă xây bỏ các giềng mối và lệ luật của Ngài.
6. Chúng tôi đă không nghe các tôi tớ Ngài là các đấng tiên tri, đă lấy danh
Ngài mà nói cùng các vua, các quan trưởng, các tổ phụ chúng tôi, và cùng cả dân
trong đất.
7. Hỡi Chúa, sự công b́nh thuộc về Ngài, c̣n sự hổ mặt về chúng tôi, như ngày
nay, sự ấy bao trùm người Giu-đa, dân cư Giê-ru-sa-lem, hết thảy người
Y-sơ-ra-ên ở gần ở xa, trong mọi nước mà Ngài đă làm cho họ tan tác, v́ cớ những
sự gian ác họ đă phạm nghịch cùng Ngài.
8. Hỡi Chúa, sự hổ mặt thuộc về chúng tôi, về các vua, các quan trưởng, các tổ
phụ chúng tôi, bởi chúng tôi đă phạm tội nghịch cùng Ngài.
9. Những sự thương xót và tha thứ đều thuộc về Chúa là Đức Chúa Trời chúng tôi;
bởi chúng tôi đă bạn nghịch cùng Ngài.
10. Chúng tôi đă chẳng nghe lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi, đặng bước đi
trong luật pháp mà Ngài đă cậy tôi tớ Ngài là các đấng tiên tri để trước mặt
chúng tôi.
11. Hết thảy người Y-sơ-ra-ên đă phạm luật pháp Ngài và xây đi để không vâng
theo tiếng Ngài. Vậy nên sự rủa sả, và thề nguyền chép trong luật pháp Môi-se là
tôi tớ của Đức Chúa Trời, đă đổ ra trên chúng tôi, v́ chúng tôi đă phạm tội
nghịch cùng Ngài.
12. Ngài đă làm cho chắc các lời đă phán nghịch cùng chúng tôi, cùng các quan án
đă đoán xét chúng tôi, mà khiến tai vạ lớn đến trên chúng tôi; v́ khắp dưới trời
chẳng hề có tai vạ nào giống như đă làm ra trên Giê-ru-sa-lem.
13. Cả tai vạ nầy đă đến trên chúng tôi như có chép trong luật pháp Môi-se; mà
chúng tôi cũng không nài xin ơn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ḿnh, đặng xây bỏ
khỏi sự gian ác ḿnh và thấu rơ đạo thật của Ngài.
14. Bởi cớ đó, Đức Giê-hô-va ngắm xem và giáng tai vạ ấy trên chúng tôi; v́
Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi là công b́nh trong mọi việc Ngài làm, chỉn
chúng tôi không vâng theo tiếng Ngài.
15. Bây giờ, hỡi Chúa là Đức Chúa Trời chúng tôi, Ngài đă lấy tay mạnh đem dân
Ngài ra khỏi đất Ê-díp-tô, đă làm nên cho ḿnh một danh tiếng như ngày nay; c̣n
chúng tôi đă phạm tội, đă làm việc ác.
16. Hỡi Chúa, tôi cầu xin Chúa cứ mọi sự công b́nh Ngài khiến cơn giận và thạnh
nộ của Ngài xây khỏi thành Giê-ru-sa-lem Ngài, tức là núi thánh Ngài; v́ ấy là
bởi tội lỗi chúng tôi và sự gian ác tổ phụ chúng tôi mà Giê-ru-sa-lem và dân
Ngài phải chịu những kẻ ở chung quanh chúng tôi sỉ nhục.
17. Cho nên bây giờ, hỡi Đức Chúa Trời chúng tôi, xin đoái nghe lời khấn nguyện
nài xin của kẻ tôi tớ Ngài! Xin v́ cớ Chúa, hăy rạng mặt Ngài ra trên nơi thánh
vắng vẻ của Ngài!
18. Hỡi Đức Chúa Trời tôi, xin ghé tai và nghe. Xin mở mắt nh́n xem những nơi
hoang vu vua chúng tôi, và thành đă được xưng bởi danh Ngài! Không phải cậy
những sự công b́nh ḿnh mà chúng tôi nài xin Ngài, nhưng cậy những sự thương xót
cả thể của Ngài.
19. Hỡi Chúa! hăy dủ nghe; hỡi Chúa! hăy tha thứ; hỡi Chúa! hăy để ư và làm đi.
Hỡi Đức Chúa Trời tôi! v́ cớ chính Ngài, xin chớ tŕ huỡn; v́ thành Ngài và dân
Ngài đă được xưng bằng danh Ngài!
20. Ta c̣n đương nói và cầu nguyện, xưng tội lỗi ta và tôi dân Y-sơ-ra-ên ta và
ta dâng lời nài xin trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời ta, v́ núi thánh Đức Chúa
Trời ta;
21. vậy ta c̣n nói trong khi cầu nguyện, nầy, Gáp-ri-ên, người mà ta đă thấy
trong sự hiện thấy lúc đầu tiên, được sai bay mau đến đụng ta độ lúc dâng lễ
chiều hôm.
22. Người dạy dỗ ta và nói cùng ta rằng: Hỡi Đa-ni-ên, bây giờ ta ra để ban sự
khôn ngoan và thông sáng cho ngươi.
23. Lời phán dặn đă ra từ khi ngươi bắt đầu nài xin; và ta đến để tỏ lời đó cho
ngươi, v́ ngươi đă được yêu quí lắm. Vậy hăy suy nghĩ sự đó và hăy hiểu biết sự
hiện thấy.
24. Có bảy mươi tuần lễ định trên dân ngươi và thành thánh ngươi, đặng ngăn sự
phạm phép, trừ tội lỗi, làm sạch sự gian ác, và đem sự công b́nh đời đời vào,
đặng đặt ấn tín nơi sự hiện thấy và lời tiên tri, và xức dầu cho Đấng rất thánh.
25. Ngươi khá biết và hiểu rằng từ khi ra lịnh tu bổ và xây lại Giê-ru-sa-lem,
cho đến Đấng chịu xức dầu, tức là vua, th́ được bảy tuần lễ và sáu mươi hai tuần
lễ; thành đó sẽ được xây lại, có đường phố và hào, trong kỳ khó khăn.
26. Sau sáu mươi hai tuần lễ đó, Đấng chịu xức dầu sẽ bị trừ đi, và sẽ không có
chi hết. Có dân của vua hầu đến sẽ hủy phá thành và nơi thánh; cuối cùng nó sẽ
như bị nước lụt ngập, có sự tranh chiến cho đến cuối cùng; những sự hoang vu đă
định.
27. Người sẽ lập giao ước vững bền với nhiều người trong một tuần lễ, và đến giữ
tuần ấy, người sẽ khiến của lễ và của lễ chay dứt đi. Kẻ hủy phá sẽ đến bởi cánh
gớm ghiếc, và sẽ có sự giận dữ đổ trên nơi bị hoang vu, cho đến kỳ sau rốt, là
kỳ đă định.
Đa-ni-ên 10
chọn đoạn khác
1. Năm thứ ba đời vua Si-ru nước Phe-rơ-sơ, có một sự tỏ ra cho Đa-ni-ên cũng
gọi là Bên-tơ-xát-sa. Sự tỏ ra đó là thật, tức là sự chiến tranh lớn. Đa-ni-ên
hiểu sự đó, và rơ được ư của sự hiện thấy.
2. Trong những ngày đó, ta, Đa-ni-ên đương buồn rầu trải ba tuần lệ trọn.
3. Ta chẳng ăn bánh ngon, thịt và rượu chẳng vào miệng ta, và ta không xức dầu
chi hết cho đến chừng ba tuần đă măn.
4. Ngày thứ hai mươi bốn tháng giêng, ta ở kề bờ sông lớn Hi-đê-ke.
5. Ta nhướng mắt nh́n xem, nầy, một người mặc vải gai, chung quanh lưng thắt đai
bằng vàng ṛng U-pha.
6. Ḿnh người như bích ngọc; mặt người như chớp, và mắt như đuốc cháy; tay và
chơn như đồng đánh bóng, và tiếng nói như tiếng đám đông.
7. Ta, Đa-ni-ên, chỉ có một ḿnh ta xem sự hiện thấy đó, v́ những kẻ ở cùng ta
không thấy sự hiện thấy đó; nhưng họ run rẩy quá, chạy trốn để ẩn ḿnh.
8. Vậy ta sót lại một ḿnh, và thấy sự hiện thấy lớn đó th́ chẳng c̣n sức nữa.
Mặt ta biến sắc cho đến tái đi, và ta không c̣n sức nữa.
9. Song ta c̣n nghe tiếng của những lời người, và vừa nghe xong, ta ngủ mê đi,
nằm sấp mặt xuống đất.
10. Bấy giờ có một bàn tay rờ đến ta, khiến ta dậy, chống đầu gối và bàn tay
trên đất.
11. Đoạn, người đó nói cùng ta rằng: Hỡi Đa-ni-ên, là người rất được yêu quí,
hăy hiểu những lời ta nói cùng ngươi, và hăy đứng thẳng lên, v́ bây giờ ta đă
được sai đến cùng ngươi. Khi người đă nói cùng ta lời ấy, ta đứng lên và run
rẩy.
12. Đoạn, người bảo ta rằng: Hỡi Đa-ni-ên, đừng sợ; v́ kể từ ngày đầu mà ngươi
đă chuyên ḷng hiểu, hạ ḿnh ngươi xuống trước mặt Đức Chúa Trời ngươi, th́
những lời ngươi đă được nghe, và v́ cớ những lời ngươi mà ta đă đến.
13. Song vua nước Phe-rơ-sơ đă ngăn trở ta trong hai mươi mốt ngày; nhưng, nầy
Mi-ca-ên là một trong các quan trưởng đầu nhứt, đă đến mà giúp đỡ ta, và ta ở
lại đó với các vua Phe-rơ-sơ.
14. Bây giờ ta đến để bảo ngươi hiểu sự sẽ xảy đến cho dân ngươi trong những
ngày sau rốt; v́ sự hiện thấy nầy chỉ về nhiều ngày lâu về sau.
15. Trong khi người nói cùng ta những lời đó, ta cúi mặt xuống đất, và làm
thinh.
16. Nầy, có đấng bộ dạng như các con trai loài người rờ đến môi ta. Ta bèn mở
miệng, nói cùng đấng đứng trước mặt ta rằng: Hỡi chúa tôi, sự buồn rầu trở lại
trên tôi v́ cớ sự hiện thấy nầy, tôi không c̣n sức nữa.
17. Thể nào đầy tớ chúa tôi nói được cùng chúa tôi? v́ về phần tôi, tức th́
không c̣n một chút sức lực nào trong tôi, và cũng không c̣n hơi thở trong tôi
nữa!
18. Bấy giờ đấng có bộ dạng người nam lại rờ đến ta và khiến ta nên mạnh.
19. Người bảo ta rằng: Hỡi người rất được yêu quí, đừng sợ hăi; nguyền cho sự
b́nh an ở với ngươi! Hăy mạnh bạo! Phải, hăy mạnh bạo đi! Khi người đương nói
cùng ta, ta lại được sức, mà nói rằng: Hỡi chúa, xin hăy nói, v́ chúa đă khiến
tôi nên mạnh.
20. Người lại nói cùng ta rằng: Ngươi có biết tại sao ta đến cùng ngươi chăng?
Bây giờ ta trở về để đánh trận cùng vua của Phe-rơ-sơ, và khi ta đi, ḱa, vua
của Gờ-réc sẽ đến.
21. Nhưng ta sẽ truyền bảo cho ngươi biết mọi điều đă ghi chép trong sách chơn
thật. Không có ai giúp ta để chống với chúng nó, ngoài Mi-ca-ên, và vua các
ngươi.
Đa-ni-ên 11
chọn đoạn khác
1. Trong năm đời vua Đa-ri-út, người Mê-đi, ta đă dấy khiến để giúp đỡ người và
làm cho mạnh.
2. Bây giờ ta sẽ cho ngươi biết sự chơn thật. Nầy, c̣n có ba vua trong nước
Phe-rơ-sơ sẽ dấy lên, lại vua thứ tư có nhiều của cải hơn hết thảy; và khi của
cải làm cho vua đó nên mạnh, th́ người xui giục mọi người nghịch cùng nước
Gờ-réc.
3. Song sẽ có một vua mạnh dấy lên, lấy quyền lớn cai trị và làm theo ư ḿnh.
4. Khi vua ấy đă dấy lên, th́ nước người bị xé và chia ra theo bốn gió của trời,
nhưng không truyền lại cho con cháu, cũng không như quyền đă dùng mà cai trị
trước nữa; v́ nước người sẽ bị nhổ và phó cho người khác ngoài những người đó.
5. Vua phương nam sẽ được mạnh; nhưng một trong các tướng của vua sẽ được mạnh
hơn vua, và có quyền cai trị; quyền người sẽ lớn lắm.
6. Đến cuối cùng mấy năm, các vua đó sẽ đồng minh với nhau; công chúa vua phương
nam đến cùng vua phương bắc để kết ḥa hảo. Nhưng sức của cánh tay công chúa
chắc không được lâu; quyền của vua phương bắc và cánh tay người cũng chẳng c̣n;
nhưng công chúa và những kẻ đă dẫn nó đến, và người sanh ra nó, cùng kẻ đă giúp
đỡ nó trong lúc đó đều sẽ bị nộp.
7. Một chồi ra từ rễ công chúa, dấy lên để nối ngôi nó, mà đến cùng cơ binh, vào
trong đồn lũy vua phương bắc, đánh và thắng được.
8. Người bắt cả các thần họ làm phu tù đem sang nước Ê-díp-tô, cả các tượng đúc
và các khí mạnh bằng vàng bằng bạc nữa; đoạn trong vài năm, người sẽ không đánh
vua phương bắc.
9. Vua nầy sẽ tiến vào nước vua phương nam, nhưng lại trở về xứ ḿnh.
10. Hai con trai vua phương bắc đi chiến trận, nhóm một đoàn cơ binh lớn, sẽ
đến, sẽ tràn ra và đi qua; chúng nó sẽ trở về và chiến trận cho đến đồn lũy vua
phương nam.
11. Bấy giờ vua phương nam tức giận, ra ngoài để đánh nhau cùng vua phương bắc,
sắp sẵn sàng một cơ binh đông, và cơ binh của vua phương bắc phải phó vào tay
người.
12. Cơ binh đó tan rồi, th́ ḷng vua phương nam sẽ lên kiêu ngạo. Người sẽ làm
cho ngă xuống bấy nhiêu vạn người, nhưng không được thắng.
13. Vua phương bắc sẽ trở về, thâu nhóm cơ binh đông hơn nữa; và đến cuối cùng
các kỳ tức là các năm, người sẽ đến với một cơ binh lớn và đồ rất nhiều.
14. Trong khi ấy nhiều người nổi lên nghịch cùng vua phương nam, và các con cái
của kẻ hung dữ trong dân ngươi sẽ dấy lên, hầu cho ứng nghiệm sự hiện thấy,
nhưng họ sẽ ngă xuống.
15. Vậy vua phương bắc sẽ đến; dựng đồn lũy, lấy một thành vững bền; và quân
phương nam, dầu cho đến quân tinh nhuệ nữa, cũng không thể đứng vững được. V́
chẳng có sức nào chống lại được.
16. Nhưng kẻ đến đánh nó sẽ làm tùy ư ḿnh, và chẳng có ai đương lại với người.
Người sẽ đứng trong đất vinh hiển, cầm sự hủy phá trong tay.
17. Người quyết ḷng lấy sức của cả nước ḿnh mà đến; đoạn, người sự giao ḥa
với nó, và sẽ làm ứng nghiệm; nó sẽ đem con gái của đờn bà cho nó, để làm bại
hoại; nhưng nó sẽ không đứng được và cũng không thuộc về người.
18. Đoạn, người quay sang các cù lao và chiếm lấy nhiều nơi. Nhưng một vua sẽ
làm cho thôi sự sỉ nhục người làm ra, và c̣n làm cho sự đó lại đổ trên người.
19. Đoạn người sẽ trở mặt về các đồn lũy đất ḿnh; nhưng chắc phải vấp và ngă,
và chẳng được t́m thấy nữa.
20. Bấy giờ có một vua khác sẽ nối ngôi người, sai kẻ bức hiếp đi qua nơi vinh
hiển của nước; nhưng trong mấy ngày người sẽ phải bại hoại, chẳng v́ cơn giận dữ
hay trận chiến tranh nào cả.
21. Lại có kẻ đáng khinh dể lên thay v́ vua đó, mà người ta không tôn người làm
vua; nhưng người sẽ đến lúc yên ổn, dùng lời siểm nịnh mà mưu chiếu lấy nước.
22. Những cơ binh đầy tràn, sẽ bị thua và vỡ tan trước người, cả đến vua của sự
giao ước cũng vậy.
23. Dầu có lập ḥa ước với vua kia, người cũng làm việc cách dối trá; đem quân
đến và được mạnh bởi một dân ít người;
24. người sẽ nhơn lúc yên ổn chiếm lấy các khu đất tốt nhứt trong tỉnh, và sẽ
làm điều mà tổ phụ và liệt tổ người chưa hề làm; lấy những đồ đă cướp đă giựt
được và của cải mà chia cho những người theo ḿnh; lập mưu đánh các đồn lũy,
nhưng chỉ trong một th́ mà thôi.
25. Đoạn, vua đó lại phấn chấn sức ḿnh và ḷng ḿnh, dùng một cơ binh lớn đánh
vua phương nam. Vua phương nam sẽ đi đánh giặc bằng một cơ binh lớn và mạnh lắm;
nhưng người không thể chống cự lại được, bởi v́ sẽ có người ta lập mưu nghịch
cùng người.
26. Những kẻ ăn bánh trong bàn vua sẽ làm cho vua bại hoại; cơ binh người sẽ
tràn ra và nhiều người bị giết và ngă xuống.
27. Có hai vua ấy, trong ḷng chỉ chực làm hại; ngồi cùng bàn tiệc mà nói dối;
song sự đó chẳng thành, v́ sẽ c̣n có sự cuối cùng nơi kỳ đă định.
28. Vua sẽ trở về đất ḿnh với nhiều của cải lắm; ḷng người đă rắp đối địch
cùng giao ước thánh, và người sẽ làm theo ư ḿnh, và trở về đất ḿnh.
29. Đến kỳ đă định, người sẽ trở lại và vào phương nam; nhưng lần sau không
giống như lần trước.
30. V́ những tàu ở Kít-tim sẽ đến nghịch cùng người; cho nên người sẽ lo buồn và
trở về. Người sẽ tức giận nghịch cùng giao ước thánh, và làm theo ư ḿnh. Người
sẽ trở về, và coi trọng những kẻ bỏ giao ước thánh.
31. Những quân lính của người mộ sẽ dấy lên, làm ô uế nơi thánh cùng đồn lũy,
cất của lễ thiêu hằng dâng, và lập sự gớm ghiếc làm ra sự hoang vu.
32. Người dùng lời nịnh hót mà dỗ dành những kẻ làm sự dữ nghịch cùng giao ước;
nhưng dân sự biết Đức Chúa Trời ḿnh sẽ mạnh mẽ mà làm.
33. Những kẻ khôn sáng trong dân sẽ dạy dỗ nhiều người; nhưng họ sẽ phải ngă bởi
gươm, bởi ngọn lửa, bởi sự phu tù và sự cướp bóc lâu ngày.
34. Trong khi họ sa ngă, họ cũng sẽ được cứu một ít; song nhiều kẻ sẽ lấy lời
nịnh hót mà theo họ.
35. Trong những kẻ khôn sáng sẽ có mấy người sa ngă, hầu cho luyện lọc chúng nó,
làm cho tinh sạch và trắng, cho đến kỳ sau rốt, v́ việc đó c̣n có kỳ nhứt định.
36. Vua sẽ làm theo ư muốn ḿnh; kiêu ngạo và lên ḿnh cao hơn hết các thần; nói
những lời lạ lùng nghịch cùng Đức Chúa Trời của các thần. Người sẽ được may mắn
cho đến khi cơn thạnh nộ Chúa được trọn, bởi v́ điều ǵ đă có chỉ định th́ phải
ứng nghiệm.
37. Người sẽ không đoái xem các thần của tổ phụ ḿnh, cùng kẻ mà đờn bà vẫn mến.
Người sẽ chẳng coi thần nào ra ǵ; bởi v́ người tôn ḿnh lên cao hơn hết cả.
38. Nhưng người sẽ ở chỗ ḿnh tôn kính thần của các đồn lũy; người sẽ lấy vàng,
bạc, đá quí, và những vật tốt đẹp mà tôn kính thần tổ phụ ḿnh không biết.
39. Người sẽ cậy thần lạ giúp cho mà lấy các đồn lũy vững bền, và người sẽ ban
thêm sự vinh hiển cho kẻ nào nhận ḿnh. Người cho họ cai trị nhiều nhiều, và
chịu tiền bạc mà chia đất.
40. Đến kỳ sau rốt, vua phương nam sẽ tranh chiến cùng người. Vua phương bắc đem
xe binh, lính kỵ và nhiều tàu, xông đến vua đó như cơn gió lốc. Người sẽ lấn vào
các nước, tràn tới và đi qua.
41. Người sẽ vào đến đất vinh hiển, và nhiều nước sẽ bị đổ. Song những người
Ê-đôm, người Mô-áp và những kẻ làm đầu trong dân Am-môn sẽ thoát khỏi tay người.
42. Người sẽ giang tay ra trên các nước, và đất Ê-díp-tô sẽ không thoát khỏi.
43. Người sẽ chiếm lấy các của báu, vàng và bạc, cùng hết thảy đồ quí báu của
Ê-díp-tô. Dân Li-by và dân Ê-thi-ô-bi sẽ theo sau người.
44. Song những tin tức từ phương đông và phương bắc sẽ đến làm cho người bối
rối; người sẽ giận lắm mà đi ra để tàn phá và hủy diệt nhiều người.
45. Người sẽ đặt các trai của cung ḿnh ở khoảng giữa biển cùng núi vinh hiển và
thánh. Song người sẽ đến sự cuối cùng ḿnh, và chẳng có ai đến giúp đỡ người cả.
Đa-ni-ên 12
chọn đoạn khác
1. Trong kỳ đó, Mi-ca-ên, quan trưởng lớn, là đấng đứng thay mặt con cái dân
ngươi sẽ chổi dậy. Lúc đó sẽ có tai nạn, đến nỗi từ khi mới có nước đến kỳ đó
cũng chẳng có như vậy bao giờ. Bấy giờ, trong ṿng dân sự ngươi, kẻ nào được ghi
trong quyển sách kia sẽ được cứu.
2. Nhiều kẻ ngủ trong bụi đất sẽ thức dậy, kẻ th́ để được sự sống đời đời, kẻ
th́ chịu sự xấu hổ nhơ nhuốc đời đời.
3. Những kẻ khôn sáng sẽ được rực rỡ như sự sáng trên ṿng khung; và những kẻ
dắt đem nhiều người về sự công b́nh sẽ sáng láng như các ngôi sao đời đời măi
măi.
4. C̣n như ngươi, hỡi Đa-ni-ên, ngươi hăy đóng lại những lời nầy, và hăy đóng ấy
sách nầy cho đến kỳ cuối cùng. Nhiều kẻ sẽ đi qua đi lại, và sự học thức sẽ được
thêm lên.
5. Bấy giờ, ta, Đa-ni-ên nh́n xem, và nầy, có hai người khác đương đứng, một
người ở bờ bên nầy sông, một người ở bờ bên kia.
6. Một người hỏi người mặc vải gai đương đứng trên nước sông, rằng: Đến cuối
cùng những sự lạ nầy được bao lâu?
7. Ta nghe người mặc vải gai đứng trên nước sông, người cất tay hữu và tay tả
lên trời, chỉ Đấng hằng sống mà thề rằng sẽ trải qua một kỳ, những kỳ, và nửa
kỳ; và khi quyền của dân thánh đă bị tan tác hết, th́ các sự nầy đều xong.
8. Ta, Đa-ni-ên, nghe những điều đó, những ta không hiểu. Và ta nói rằng: Lạy
chúa tôi, cuối cùng các sự nầy sự ra thể nào?
9. Người trả lời rằng: Hỡi Đa-ni-ên, hăy đi; bởi v́ những lời nầy đă đóng lại và
đóng ấy cho đến kỳ cuối cùng.
10. Sẽ có nhiều kẻ tự làm nên tinh sạch và trắng, và được luyện lọc. Nhưng những
kẻ dữ chẳng ai sẽ hiểu; song kẻ khôn sáng sẽ hiểu.
11. Từ kỳ trừ bỏ của lễ thiêu hằng dâng và sự gớm ghiếc làm cho hoang vu sự được
lập lên, th́ sẽ có một ngàn hai trăm chín mươi ngày.
12. Phước thay cho kẻ đợi, và đến một ngàn ba trăm ba mươi lăm ngày!
13. C̣n ngươi, hăy đi, cho đến có kỳ cuối cùng. Ngươi sẽ nghỉ ngơi; và đến cuối
cùng những ngày, ngươi sẽ đứng trong sản nghiệp ḿnh.