[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16]
Mác 1 chọn
đoạn khác
1. Ðầu Tin Lành của Ðức Chúa Jêsus Christ, là Con Ðức Chúa Trời.
2. Như đã chép trong sách tiên tri Ê-sai rằng: Nầy, ta sai sứ ta đến trước mặt
ngươi, Người sẽ dọn đường cho ngươi.
3. Có tiếng kêu trong đồng vắng rằng: Hãy dọn đường Chúa, Ban bằng các nẻo Ngài;
4. Giăng đã tới, trong đồng vắng vừa làm vừa giảng phép báp-tem ăn năn, cho được
tha tội.
5. Cả xứ Giu-đê và hết thảy dân sự thành Giê-ru-sa-lem đều đến cùng người, xưng
tội mình và chịu người làm phép báp tem dưới sông Giô-đanh.
6. Giăng mặc áo lông lạc đà, buộc dây lưng da ngang hông; ăn những châu chấu và
mật ong rừng.
7. Người giảng dạy rằng: Có Ðấng quyền phép hơn ta đến sau ta; ta không đáng cúi
xuống mở dây giày Ngài.
8. Ta làm phép báp-tem cho các ngươi bằng nước; nhưng Ngài sẽ làm phép báp-tem
cho các ngươi bằng Ðức Thánh-Linh.
9. Vả, trong những ngày đó, Ðức Chúa Jêsus đến từ Na-xa-rét là thành xứ Ga-li-lê,
và chịu Giăng làm phép báp-tem dưới sông Giô-đanh.
10. Vừa khi lên khỏi nước, Ngài thấy các từng trời mở ra, và Ðức Thánh-Linh ngự
xuống trên mình Ngài như chim bò câu.
11. Lại có tiếng từ trên trời phán rằng: Ngươi là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng
ta mọi đường.
12. Tức thì Ðức Thánh Linh giục Ngài đến nơi đồng vắng
13. Ngài ở nơi đồng vắng chịu quỉ Sa-tan cám dỗ bốn mươi ngày, ở chung với thú
rừng, và có thiên sứ hầu việc Ngài.
14. Sau khi Giăng bị tù, Ðức Chúa Jêsus đến xứ Ga-li-lê, giảng Tin-Lành của Ðức
Chúa Trời,
15. mà rằng: Kỳ đã trọn, nước Ðức Chúa Trời đã đến gần; các ngươi hãy ăn năn và
tin đạo Tin Lành.
16. Ngài đi dọc theo mé biển Ga-li-lê, thấy Si-môn với Anh-rê, em người, đương
thả lưới dưới biển; vì hai người vốn làm nghề chài.
17. Ðức Chúa Jêsus bèn phán cùng họ rằng: Hãy theo ta, và ta sẽ khiến các ngươi
trở nên tay đánh lưới người.
18. Tức thì hai người bỏ chài lưới mà theo Ngài.
19. Ði một đỗi xa xa, Ngài thấy Gia-cơ, con Xê-bê-đê, với em là Giăng, đương vá
lưới trong thuyền.
20. Ngài liền kêu hai người; thì họ để Xê-bê-đê, cha mình, ở lại trong thuyền
với mấy người làm thuê, mà theo Ngài.
21. Kế đó, đi đến thành Ca-bê-na-um; nhằm ngày Sa-bát, tức thì Ðức Chúa Jêsus
vào nhà hội, khởi dạy dỗ tại đó.
22. Chúng đều cảm động về sự dạy dỗ của Ngài, vì Ngài dạy như có quyền phép, chớ
chẳng phải như các thầy thông giáo đâu.
23. Vả, cũng một lúc ấy, trong nhà hội có người bị tà ma ám,
24. kêu lên rằng: Hỡi Jêsus, người Na-xa-rét, chúng tôi với Ngài có sự gì chăng?
Ngài đến để diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai: là Ðấng Thánh của Ðức Chúa
Trời.
25. Nhưng Ðức Chúa Jêsus nghiêm trách nó rằng: Hãy nín đi, ra khỏi người nầy.
26. Tà ma bèn vật mạnh người ấy, cất tiếng kêu lớn, và ra khỏi người.
27. Ai nấy đều lấy làm lạ, đến nỗi hỏi nhau rằng: Cái gì vậy? Sự dạy mới sao!
Người nầy lấy quyền phép sai khiến đến tà ma, mà nó cũng phải vâng lời!
28. Danh tiếng Ðức Chúa Jêsus tức thì đồn ra khắp cả miền xung quanh xứ Ga-li-lê.
29. Vừa ở nhà hội ra, Chúa và môn đồ đi với Gia-cơ cùng Giăng vào nhà Si-môn và
Anh-rê.
30. Vả, bà gia Si-môn đang nằm trên giường, đau rét; tức thì chúng thưa với Ngài
về chuyện người.
31. Ngài bèn lại gần, cầm tay người đỡ dậy; bịnh rét dứt đi, và người bắt tay
hầu hạ.
32. Ðến chiều, mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ bịnh và kẻ bị quỉ ám đến
cùng Ngài.
33. Cả thành nhóm lại trước cửa.
34. Ngài chữa lành nhiều kẻ đau các thứ bịnh, và đuổi nhiều quỉ, chẳng cho phép
các quỉ nói ra, vì chúng nó biết Ngài.
35. Sáng hôm sau trời còn mờ mờ, Ngài chờ dậy, bước ra, đi vào nơi vắng vẻ, và
cầu nguyện tại đó.
36. Si-môn cùng đồng bạn đi tìm Ngài.
37. Khi kiếm được thì thưa rằng: Hết thảy đương tìm thầy.
38. Ngài phán: Chúng ta hãy đi nơi khác, trong những làng xung quanh đây, để ta
cũng giảng đạo ở đó nữa; vì ấy là cốt tại việc đó mà ta đã đến.
39. Ngài trải khắp xứ Ga-li-lê, giảng dạy trong các nhà hội và đuổi quỉ.
40. Có một người phung đến cùng Ngài, quì xuống cầu xin rằng: Nếu Chúa khứng, có
thể khiến tôi sạch được.
41. Ðức Chúa Jêsus động lòng thương xót, giơ tay rờ người, mà phán rằng: Ta
khứng, hãy sạch đi.
42. Liền khi đó, phung lặn mất, người trở nên sạch.
43. tức thì Ðức Chúa Jêsus cho người ra, lấy giọng nghiêm phán rằng:
44. Hãy giữ chớ tỏ điều đó cùng ai; song khá đi tỏ mình cùng thầy tế lễ, và vì
ngươi được sạch, hãy dâng của lễ theo như Môi-se dạy, để điều đó làm chứng cho
họ.
45. Nhưng người ấy đi, đồn việc đó ra, tới đâu cũng thuật chuyện, đến nỗi Chúa
Giê-xu không vào thành cách rõ ràng được nữa; song Ngài ở ngoài, tại nơi vắng
vẻ; và người ta từ bốn phương đều đến cùng Ngài.
Mác 2 chọn
đoạn khác
1. Khỏi một vài ngày, Ðức Chúa Jêsus trở lại thành Ca-bê-na-um, và chúng nghe
nói Ngài ở trong nhà.
2. Họ họp lại tại đó đông lắm, đến nỗi trước cửa cũng không còn chỗ trống; Ngài
giảng đạo cho họ nghe.
3. Bấy giờ có mấy kẻ đem tới cho Ngài một người đau bại, có bốn người khiêng.
4. Nhưng, vì đông người, không lại gần Ngài được, nên dở mái nhà ngay chỗ Ngài
ngồi, rồi do lỗ đó dòng giường người bại nằm xuống.
5. Ðức Chúa Jêsus thấy đức tin họ, bèn phán cùng kẻ bại rằng: Hỡi con ta, tội
lỗi ngươi đã được tha.
6. Vả, có mấy thầy thông giáo ngồi đó, nghĩ thầm rằng:
7. Sao người nầy nói như vậy? Người nói phạm thượng đó! Ngoài mình Ðức Chúa
Trời, còn có ai tha tội được chăng?
8. Ðức Chúa Jêsus trong trí đã hiểu họ tự nghĩ như vậy, tức thì phán rằng: Sao
các ngươi bàn luận trong lòng thể ấy?
9. Nay bảo kẻ bại rằng: Tội ngươi đã được tha; hay là bảo người rằng: Hãy đứng
dậy vác giường mà đi; hai điều ấy điều nào dễ hơn?
10. Vả, để cho các ngươi biết Con người ở thế gian có quyền tha tội, thì Ngài
phán cùng kẻ bại rằng:
11. Ta biểu ngươi, hãy đứng dậy, vác giường đi về nhà.
12. Kẻ bại đứng dậy, tức thì vác giường đi ra trước mặt thiên hạ; đến nỗi ai nấy
làm lạ, ngợi khen Ðức Chúa Trời, mà rằng: Chúng tôi chưa hề thấy việc thể nầy.
13. Bấy giờ, Ðức Chúa Jêsus lại trở về phía mé biển; cả dân chúng đến cùng Ngài,
rồi Ngài dạy dỗ họ.
14. Ngài vừa đi qua thấy Lê-vi, con A-phê, đương ngồi tại sở thâu thuế, thì phán
cùng người rằng: Hãy theo ta. Người đứng dậy theo Ngài.
15. Ðức Chúa Jêsus đương ngồi ăn tại nhà Lê-vi, có nhiều người thâu thuế và kẻ
có tội đồng bàn với Ngài và môn đồ Ngài; vì trong bọn đó có nhiều kẻ theo Ngài
rồi.
16. Các thầy thông giáo thuộc phe Pha-ra-si thấy Ngài ăn với bọn thâu thuế và kẻ
phạm tội, thì nói với môn đồ Ngài rằng: Người cùng ăn với kẻ thâu thuế và kẻ có
tội sao!
17. Ðức Chúa Jêsus nghe vậy, bèn phán cùng họ rằng: Chẳng phải kẻ mạnh khỏe cần
thầy thuốc đâu, nhưng là kẻ có bịnh; ta chẳng phải đến gọi người công bình,
nhưng gọi kẻ có tội.
18. Vả, môn đồ của Giăng và người Pha-ra-si đều kiêng ăn. Có người đến thưa cùng
Ðức Chúa Jêsus rằng: Bởi cớ nào môn đồ của Giăng và môn đồ của người Pha-ra-si
đều kiêng ăn, còn môn đồ của thầy không kiêng ăn?
19. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Bạn hữu của chàng rể có kiêng ăn được trong khi
chàng rể còn ở cùng mình chăng? Hễ chàng rể còn ở với họ đến chừng nào, thì họ
không thể kiêng ăn được đến chừng nấy.
20. Song tới kỳ chàng rể phải đem đi khỏi họ, trong ngày đó họ sẽ kiêng ăn.
21. Không ai vá miếng nỉ mới vào cái áo cũ; nếu vậy thì miếng nỉ mới chằng rách
áo cũ, mà đàng rách thành xấu thêm.
22. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; nếu vậy, rượu làm vỡ bầu, rượu mất
và bầu cũng chẳng còn.
23. Nhằm ngày Sa-bát, Ðức Chúa Jêsus đi qua đồng lúa mì; đang đi đường, môn đồ
Ngài bứt bông lúa mì.
24. Các người Pha-ra-si bèn nói cùng Ngài rằng: Coi kìa, sao môn đồ thầy làm
điều không nên làm trong ngày Sa-bát?
25. Ngài đáp rằng: Các ngươi chưa đọc đến sự vua Ða-vít làm trong khi vua cùng
những người đi theo bị túng đói hay sao?
26. Thể nào trong đời A-bia-tha làm thầy cả thượng phẩm, vua ấy vào đến Ðức Chúa
Trời, ăn bánh bày ra, lại cũng cho những người đi theo ăn nữa, dầu bánh ấy chỉ
những thầy tế lễ mới được phép ăn thôi?
27. Ðoạn, Ngài lại phán: Vì loài người mà lập ngày Sa-bát, chớ chẳng phải vì
ngày Sa-bát mà dựng nên loài người.
28. Vậy thì Con người cũng làm chủ ngày Sa-bát.
Mác 3 chọn
đoạn khác
1. Lần khác, Ðức Chúa Jêsus vào nhà hội, ở đó có một người nam teo bàn tay.
2. Chúng rình xem thử Ngài có chữa người đó trong ngày Sa-bát chăng, đặng cáo
Ngài.
3. Ngài phán cùng người teo tay rằng: hãy dậy, đứng chính giữa đây.
4. rồi Ngài hỏi họ rằng: trong ngày Sa-bát, nên làm việc lành hay việc dữ, cứu
người hay giết người? Nhưng họ đều nín lặng.
5. Bấy giờ, Ngài lấy mắt liếc họ, vừa giận vừa buồn vì lòng họ cứng cỏi, rồi
phán cùng người nam rằng: hãy giơ tay ra. Người giơ ra, thì tay được lành.
6. Các người Pha-ra-si đi ra, tức thì bàn luận với phe Hê-rốt nghịch cùng Ngài,
đặng giết Ngài đi.
7. Ðức Chúa Jêsus cùng môn đồ Ngài lánh ra nơi bờ biển, có đoàn dân đông lắm từ
xứ Ga-li-lê đến theo Ngài. Từ xứ Giu-đê,
8. thành Giê-ru-sa-lem, xứ Y-đu-mê, xứ bên kia sông Giô-đanh, miền xung quanh
thành Ty-rơ và thành Si-đôn cũng vậy, dân đông lắm, nghe nói mọi việc Ngài làm,
thì đều đến cùng Ngài.
9. Bởi cớ dân đông, nên Ngài biểu môn đồ sắm cho mình một chiếc thuyền nhỏ sẵn
sàng, đặng cho khỏi bị chúng lấn ép Ngài quá.
10. Vì Ngài đã chữa lành nhiều kẻ bịnh, nên nỗi ai nấy có bịnh chi cũng đều áp
đến gần để rờ Ngài.
11. Khi tà ma thấy Ngài, bèn sấp mình xuống nơi chơn Ngài mà kêu lên rằng: Thầy
là Con Ðức Chúa Trời!
12. Song Ngài nghiêm cấm chúng nó chớ tỏ cho ai biết mình.
13. Kế đó, Ðức Chúa Jêsus lên trên núi, đòi những người Ngài muốn, thì những
người ấy đến kề Ngài.
14. Ngài bèn lập mười hai người, gọi là sứ đồ, để ở cùng Ngài và sai đi giảng
đạo,
15. lại ban cho quyền phép đuổi quỉ.
16. Nầy là mười hai sứ đồ Ngài đã lập: Si-môn, Ngài đặt tên là Phi-e-rơ;
17. Gia-cơ con Xê-bê-đê, và Giăng em Gia-cơ, Ngài lại đặt tên hai người là
Bô-a-nẹt, nghĩa là con trai của sấm sét;
18. Anh-rê, Phi-líp, Ba-thê-lê-my, Ma-thi-ơ, Thô-ma, Gia-cơ con A-phê, Tha-đê,
Si-môn là người Ca-na-an,
19. và Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, chính tên nầy đã phản Ngài.
20. Ðức Chúa Jêsus cùng môn đồ vào trong một cái nhà; đoàn dân lại nhóm họp tại
đó, đến nỗi Ngài và môn đồ không ăn được.
21. Những bạn hữu Ngài nghe vậy, bèn đến để cầm giữ Ngài; vì người ta nói Ngài
đã mất trí khôn.
22. Có các thầy thông giáo ở thành Giê-ru-sa-lem xuống, nói rằng: Người bị quỉ
Bê-ên-xê-bun ám, và nhờ phép chúa quỉ mà trừ quỉ.
23. Song Ðức Chúa Jêsus kêu họ đến, dùng lời thí dụ mà phán rằng: Sao quỉ Sa-tan
đuổi được quỉ Sa-tan?
24. Nếu một nước tự chia nhau, thì nước ấy không thể còn được;
25. lại nếu một nhà tự chia nhau, thì nhà ấy không thể còn được.
26. Vậy, nếu quỉ Sa-tan tự dấy lên nghịch cùng mình, tất nó bị chia xé ra, không
thể còn được; song nó đã gần đến cùng rồi.
27. Chẳng ai có thể vào nhà một người mạnh sức cướp lấy của người, mà trước hết
không trói người lại; phải trói người lại, rồi mới cướp nhà người được.
28. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, mọi tội lỗi sẽ tha cho con cái loài người,
và hết thảy những lời phạm thượng họ sẽ nói ra cũng vậy;
29. nhưng ai sẽ nói phạm đến Ðức Thánh Linh thì chẳng hề được tha, phải mắc tội
đời đời.
30. Ngài phán như vậy, vì họ nói rằng: Người bị tà ma ám.
31. Mẹ và anh em Ngài đến, đứng ngoài sai kêu Ngài. Ðoàn dân vẫn ngồi chung
quanh Ngài.
32. Có kẻ thưa rằng: Nầy, mẹ và anh em thầy ở ngoài kia đương tìm thầy.
33. Song Ngài phán cùng họ rằng: Ai là mẹ ta, ai là anh em ta?
34. Ngài lại đưa mắt liếc những kẻ ngồi chung quanh mình mà phán rằng: Kìa là mẹ
ta và anh em ta!
35. Ai làm theo ý muốn Ðức Chúa Trời, nấy là anh em, chị em, và mẹ ta vậy.
Mác 4 chọn
đoạn khác
1. Ðức Chúa Jêsus lại khởi sự giảng dạy nơi bờ biển; có một đoàn dân đông lắm
nhóm lại xung quanh Ngài, Ngài bước lên trong một chiếc thuyền và ngồi đó, còn
cả đoàn dân thì ở trên đất nơi mé biển.
2. Ngài lấy thí dụ dạy dỗ họ nhiều điều, và trong khi dạy, Ngài phán rằng:
3. Hãy nghe. Có người gieo giống đi ra đặng gieo.
4. Khi đương gieo, một phần giống rơi dọc đường, chim đến ăn hết.
5. Một phần khác rơi nhằm nơi đất đá sỏi, chỉ có ít đất thịt, tức thì mọc lên,
vì bị lấp không sâu;
6. nhưng khi mặt trời đã mọc, thì bị đốt, và bởi không có rễ, nên phải héo.
7. Một phần khác rơi nhằm bụi gai; gai mọc rậm lên làm cho nghẹt ngòi, và không
kết quả.
8. Một phần khác nữa rơi nhằm nơi đất tốt, thì kết quả, lớn lên và nẩy nở ra;
một hột ra ba chục, hột khác sáu chục, hột khác một trăm.
9. Ngài lại phán rằng: Ai có tai mà nghe, hãy nghe.
10. Khi Ðức Chúa Jêsus ở một mình, những kẻ xung quanh Ngài cùng mười hai sứ đồ
hỏi Ngài về các lời thí dụ.
11. Ngài phán rằng: Sự mầu nhiệm của nước Ðức Chúa Trời đã tỏ ra cho các ngươi;
nhưng về phần người ngoài, thì dùng cách thí dụ để dạy mọi sự,
12. hầu cho họ xem thì xem mà không thấy, nghe thì nghe mà không hiểu; e họ hối
cải mà được tha tội chăng.
13. Ðoạn, Ngài phán rằng: Các ngươi không hiểu thí dụ ấy sao? Vậy thì thế nào
hiểu mọi thí dụ được?
14. Người gieo giống ấy là gieo đạo.
15. Những kẻ ở dọc đường là kẻ đã chịu đạo gieo nơi mình; nhưng vừa mới nghe
đạo, tức thì quỉ Sa-tan đến, cướp lấy đạo đã gieo trong lòng họ đi.
16. Cũng vậy, những người chịu giống gieo nơi đất đá sỏi, là những kẻ nghe đạo,
liền vui mừng chịu lấy;
17. song vì trong lòng họ không có rễ, chỉ tạm thời mà thôi, nên nỗi gặp khi vì
cớ đạo mà xảy ra sự cực khổ, bắt bớ, thì liền vấp phạm.
18. Còn những kẻ chịu giống gieo nơi bụi gai, là kẻ đã nghe đạo;
19. song sự lo lắng về đời nầy, sự mê đắm về giàu sang, và các sự tham muốn khác
thấu vào lòng họ, làm cho nghẹt ngòi đạo, và trở nên không trái.
20. Nhưng, những người chịu giống gieo vào nơi đất tốt, là kẻ nghe đạo, chịu lấy
và kết quả, một hột ra ba chục, hột khác sáu chục, hột khác một trăm.
21. Ngài lại phán cùng họ rằng: Có ai đem đèn để dưới cái thùng hoặc dưới cái
giường chăng? Há chẳng phải để trên chơn đèn sao?
22. Vì chẳng có điều chi kín mà không phải lộ ra, chẳng có điều chi giấu mà
không phải rõ ràng.
23. Nếu ai có tai mà nghe, hãy nghe!
24. Ngài lại phán rằng: Hãy cẩn thận về điều mình nghe. Người ta sẽ đong cho các
ngươi bằng lường các ngươi đã đong cho, và thêm vào đó nữa.
25. Vì sẽ ban thêm cho kẻ nào có; nhưng kẻ nào không có, sẽ bị cất lấy điều mình
đã có.
26. Ngài lại phán rằng: Nước Ðức Chúa Trời cũng như một người vải giống xuống
đất;
27. người ngủ hay dậy, đêm và ngày, giống cứ nẩy chồi mọc lên, mà người không
biết thể nào.
28. Vì đất tự sanh ra hoa lợi: ban đầu là cây, kế đến bông, đoạn bông kết thành
hột.
29. Khi hột đã chín, người ta liền tra lưỡi hái vào, vì mùa gặt đã đến.
30. Ngài lại phán rằng: Chúng ta sánh nước Ðức Chúa Trời với chi, hay lấy thí dụ
nào mà tỏ ra?
31. Nước ấy giống như một hột cải: khi người ta gieo, nó nhỏ hơn hết các hột
giống trên đất;
32. song khi gieo rồi, nó mọc lên, trở lớn hơn mọi thứ rau, và nứt ra nhành lớn,
đến nỗi chim trời núp dưới bóng nó được.
33. Ấy bởi nhiều lời thí dụ như cách ấy mà Ngài giảng đạo cho họ, tùy theo sức
họ nghe được.
34. Ngài chẳng hề giảng cho chúng mà không dùng thí dụ; nhưng, khi ở riêng, Ngài
cắt nghĩa hết cho môn đồ mình.
35. Ðến chiều ngày ấy, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Chúng ta hãy qua bờ bên kia.
36. Khi cho dân chúng tan về rồi, Ðức Chúa Jêsus cứ ở trong thuyền, và môn đồ
đưa Ngài đi; cũng có các thuyền khác cùng đi nữa.
37. Vả, có cơn bão lớn nổi lên, sóng tạt vào thuyền, đến nỗi gần đầy nước;
38. nhưng Ngài đương ở đằng sau lái, dựa gối mà ngủ. Môn đồ thức Ngài dậy mà
thưa rằng: Thầy ôi, thầy không lo chúng ta chết sao?
39. Ngài bèn thức dậy, quở gió và phán cùng biển rằng: Hãy êm đi, lặng đi! Gió
liền dứt và đều yên lặng như tờ.
40. Ðoạn, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Sao các ngươi sợ? Chưa có đức tin sao?
41. Môn đồ kinh hãi lắm, nói với nhau rằng: Vậy thì người nầy là ai, mà gió và
biển cũng đều vâng lịnh người?
Mác 5 chọn
đoạn khác
1. Ðức Chúa Jêsus cùng môn đồ qua đến bờ biển bên kia, trong miền Giê-ra-sê.
2. Ngài mới ở trên thuyền bước xuống, tức thì có một người bị tà ma ám từ nơi mồ
mả đi ra đến trước mặt Ngài.
3. Người thường ở nơi mồ mả, dẫu dùng xiềng sắt cũng chẳng ai cột trói được nữa;
4. vì nhiều lần người bị cùm chơn hoặc bị xiềng, rồi bẻ xiềng tháo cùm, không ai
có sức trị được.
5. Người cứ ở nơi mồ mả và trên núi, ngày đêm kêu la và lấy đá đánh bầm mình.
6. Người thấy Ðức Chúa Jêsus ở đằng xa, chạy lại sấp mình xuống trước mặt Ngài,
7. mà kêu lớn rằng: Hỡi Ðức Chúa Jêsus, Con Ðức Chúa Trời rất cao, tôi với Ngài
có sự gì chăng? Tôi nhơn danh Ðức Chúa Trời mà khẩn cầu Ngài, xin đừng làm khổ
tôi.
8. Vì Ðức Chúa Jêsus vừa phán cùng nó rằng: Hỡi tà ma, phải ra khỏi người nầy.
9. Ngài lại hỏi rằng: Mầy tên gì? Thưa rằng: Tên tôi là Quân đội; vì chúng tôi
đông.
10. Nó lại van xin Ngài đừng đuổi chúng nó ra khỏi miền đó.
11. Vả, chỗ đó, tại trên núi, có một bầy heo đông đương ăn.
12. Các quỉ cầu xin Ngài rằng: Xin khiến chúng tôi đến với bầy heo ấy, để chúng
tôi nhập vào chúng nó. Ðức Chúa Jêsus cho phép.
13. Các tà ma ra khỏi người đó, bèn nhập vào bầy heo, bầy heo từ trên bực cao
vụt đâm đầu xuống biển. Có độ hai ngàn con heo chết chìm cả dưới biển.
14. Những kẻ chăn heo trốn, đồn tin nầy ra khắp trong thành và trong nhà quê;
15. dân sự đổ ra đặng xem điều đã xảy đến. Vậy, chúng đến cùng Ðức Chúa Jêsus,
thấy người đã bị nhiều quỉ ám, đang ngồi, mặc quần áo, trí khôn bình tĩnh, thì
sợ hãi lắm.
16. Những người đã thấy việc đó, thuật cho họ nghe chuyện đã xảy đến cho kẻ bị
quỉ ám và bầy heo.
17. Chúng bèn xin Ngài ra khỏi địa phận mình.
18. Lúc Ngài đương bước vào thuyền, người trước đã bị quỉ ám xin ở lại với Ngài.
19. Nhưng Ðức Chúa Jêsus không cho, phán rằng: Hãy về nhà ngươi, nơi bạn hữu
ngươi, mà thuật lại cho họ điều lớn lao thể nào Chúa đã làm cho ngươi, và Ngài
đã thương xót ngươi cách nào.
20. Vậy, người đi, đồn ra trong xứ Ðê-ca-bô-lơ những điều lớn lao thể nào mà Ðức
Chúa Jêsus đã làm cho mình; ai nấy đều lấy làm lạ.
21. Khi Ðức Chúa Jêsus lại xuống thuyền qua bờ bên kia, có đoàn dân đông nhóm
họp chung quanh Ngài. Ngài đứng trên bờ biển.
22. Bấy giờ, có một người trong những người cai nhà hội, tên là Giai ru, đến,
thấy Ðức Chúa Jêsus, bèn gieo mình nơi chơn Ngài;
23. nài xin mà rằng: Con gái nhỏ tôi gần chết; xin Chúa đến, đặt tay trên nó,
đặng nó lành mạnh và sống.
24. Ðức Chúa Jêsus đi với người; đoàn dân đông cùng đi theo và lấn ép Ngài.
25. vả, tại đó có một người đờn bà bị bịnh mất huyết đã mười hai năm,
26. bấy lâu chịu khổ sở trong tay nhiều thầy thuốc, hao tốn hết tiền của, mà
không thấy đỡ gì; bịnh lại càng nặng thêm.
27. Người đã nghe tin về Ðức Chúa Jêsus, bèn lẩn vào đằng sau giữa đám đông, mà
rờ áo Ngài.
28. Vì người nói rằng: Nếu ta chỉ rờ đến áo Ngài mà thôi, thì ta sẽ được lành.
29. Cùng một lúc ấy, huyết lậu liền cầm lại; người nghe trong mình đã được lành
bịnh.
30. Tức thì Ðức Chúa Jêsus tự biết có sức mạnh đã ra từ mình, bèn xây lại giữa
đám đông mà hỏi rằng: Ai đã rờ áo ta?
31. Môn đồ thưa rằng: Thầy thấy đám đông lấn ép thầy, thầy còn hỏi rằng: Ai rờ
đến ta?
32. Ngài nhìn chung quanh mình để xem người đã làm điều đó.
33. Người đờn bà biết sự đã xảy đến cho mình, bèn run sợ đến gieo mình dưới chơn
Ngài, tỏ hết tình thật.
34. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi con gái ta, đức tin con đã cứu con; hãy đi cho
bình an và được lành bịnh.
35. Ðương khi Ngài còn phán, có kẻ đến từ nhà người cai nhà hội mà nói với người
rằng: Con gái ông đã chết rồi; còn phiền Thầy làm chi?
36. Nhưng Ðức Chúa Jêsus chẳng màng đến lời ấy, phán cùng cai nhà hội rằng: Ðừng
sợ, chỉ tin mà thôi.
37. Ngài chẳng cho ai theo mình, trừ ra Phi-e-rơ, Gia-cơ, và Giăng là em là
Gia-cơ.
38. Khi đã đến nhà người cai nhà hội, Ngài thấy chúng làm om sòm, kẻ khóc người
kêu lớn tiếng.
39. Vào nhà rồi, Ngài phán cùng chúng rằng: Sao các ngươi làm ồn ào và khóc lóc
vậy? Ðứa trẻ chẳng phải chết, song nó ngủ.
40. Chúng nhạo báng Ngài. Ngài bèn đuổi chúng ra hết, đem cha mẹ đứa trẻ với
những kẻ theo Ngài, cùng vào chỗ nó nằm.
41. Ngài nắm tay nó mà phán rằng: Ta-li-tha Cu-mi; nghĩa là: Hỡi con gái nhỏ, ta
truyền cho mầy, hãy chờ dậy.
42. Tức thì đứa gái chờ dậy mà bước đi, vì đã lên mười hai tuổi. Chúng rất lấy
làm lạ.
43. Ngài cấm ngặt chúng đừng cho ai biết sự ấy, và truyền cho đứa trẻ ăn.
Mác 6 chọn
đoạn khác
1. Ðức Chúa Jêsus đi khỏi đó, đến quê hương mình, có các môn đồ cùng đi theo.
2. Ðến ngày Sa-bát, Ngài bắt đầu dạy dỗ trong nhà hội; thiên hạ nghe Ngài, lấy
làm lạ mà nói rằng: Người bởi đâu được những điều nầy? Sự khôn sáng mà người
được ban cho là gì, và thể nào tay người làm được những phép lạ dường ấy?
3. Có phải người là thợ mộc, con trai Ma-ri, anh em với Gia-cơ, Giô-sê, Giu-đe,
và Si-môn chăng? Chị em người há chẳng phải ở giữa chúng ta đây ư? Chúng bèn vấp
phạm vì cớ Ngài.
4. Song Ðức Chúa Jêsus phán cùng họ rằng: Ðấng tiên tri chỉ bị quê hương mình,
bà con mình và trong nhà mình khinh dể mà thôi.
5. Ở đó, Ngài không làm phép lạ nào được, chỉ đặt tay chữa lành một vài người
đau ốm;
6. và Ngài lấy làm lạ vì chúng chẳng tin. Rồi Ngài đi khắp các làng gần đó mà
giảng dạy.
7. Ngài bèn kêu mười hai sứ đồ, bắt đầu sai đi từng đôi, ban quyền phép trừ tà
ma.
8. Ngài truyền cho sứ đồ đi đường đừng đem chi theo hết, hoặc bánh, hoặc bao,
hoặc tiền bạc trong dây lưng, chỉ đem một cây gậy mà thôi;
9. chỉ mang dép, đừng mặc hai áo.
10. Ngài phán cùng sứ đồ rằng: Hễ nhà nào các ngươi sẽ vào, hãy cứ ở đó, cho đến
khi đi.
11. Nếu có chỗ nào, người ta không chịu tiếp các ngươi, và cũng không nghe các
ngươi nữa, thì hãy đi khỏi đó, và phủi bụi đã dính chơn mình, để làm chứng cho
họ.
12. Vậy, các sứ đồ đi ra, giảng cho người ta phải ăn năn;
13. đuổi nhiều ma quỉ, xức dầu cho nhiều kẻ bịnh và chữa cho được lành.
14. Vả, vua Hê-rốt nghe nói về Ðức Chúa Jêsus (vì danh tiếng Ngài đã nên lừng
lẫy), thì nói rằng: Giăng, là người làm phép báp-tem, đã từ kẻ chết sống lại;
cho nên tự người làm ra các phép lạ.
15. Người thì nói: Ấy là Ê-li; kẻ thì nói: Ấy là đấng tiên tri, như một trong
các đấng tiên tri đời xưa.
16. Nhưng Hê-rốt nghe vậy, thì nói rằng: Ấy là Giăng mà ta đã truyền chém, người
đã sống lại.
17. Số là, Hê-rốt đã sai người bắt Giăng, và truyền xiềng lại cầm trong ngục,
bởi cớ Hê-đô-đia, vợ Phi-líp em vua, vì vua đã cưới nàng,
18. và Giăng có can vua rằng: Vua không nên lấy vợ em mình.
19. Nhơn đó, Hê-rô-đia căm Giăng, muốn giết đi.
20. Nhưng không thể giết, vì Hê-rốt sợ Giăng, biết là một người công bình và
thánh. Vua vẫn gìn giữ người, khi nghe lời người rồi, lòng hằng bối rối, mà vua
bằng lòng nghe.
21. Nhưng, vừa gặp dịp tiện, là ngày sanh nhựt Hê-rốt, vua đãi tiệc các quan lớn
trong triều, các quan võ, cùng các người tôn trưởng trong xứ Ga-li-lê.
22. Chính con gái Hê-rô-đia vào, nhảy múa, đẹp lòng Hê-rốt và các ngươi dự tiệc
nữa. Vua nói cùng người con gái ấy rằng: Hãy xin ta điều chi ngươi muốn, ta sẽ
cho.
23. Vua lại thề cùng nàng rằng: Bất kỳ ngươi xin điều chi, ta cũng sẽ cho, dầu
xin phân nửa nước ta cũng vậy.
24. Nàng ra khỏi đó, nói với mẹ rằng: Tôi nên xin điều chi? Mẹ rằng: Cái đầu của
Giăng Báp-tít.
25. Tức thì nàng vội trở vào nơi vua mà xin rằng: Tôi muốn vua lập tức cho tôi
cái đầu Giăng Báp-tít để trên mâm.
26. Vua lấy làm buồn rầu lắm; nhưng vì cớ lời thề mình và khách dự yến, thì
không muốn từ chối nàng.
27. Vua liền sai một người lính thị vệ truyền đem đầu Giăng đến.
28. Người ấy đi chém Giăng trong ngục; rồi để đầu trên mâm đem cho người con
gái, và người con gái đem cho mẹ mình.
29. Môn đồ Giăng nghe tin, đến lấy xác người chôn trong mả.
30. Các sứ đồ nhóm lại cùng Ðức Chúa Jêsus, thuật cho Ngài mọi điều mình đã làm
và dạy.
31. Ngài phán cùng sứ đồ rằng: Hãy đi tẻ ra trong nơi vắng vẻ, nghỉ ngơi một
chút. Vì có kẻ đi người lại đông lắm, đến nỗi Ngài và sứ đồ không có thì giờ mà
ăn.
32. Vậy, Ngài và sứ đồ xuống thuyền đặng đi tẻ ra trong nơi vắng vẻ.
33. Nhưng nhiều người thấy đi, thì nhận biết; dân chúng từ khắp các thành đều
chạy bộ đến nơi Chúa cùng sứ đồ vừa đi, và đã tới đó trước.
34. Bấy giờ Ðức Chúa Jêsus ở thuyền bước ra, thấy đoàn dân đông lắm, thì Ngài
động lòng thương xót đến, vì như chiên không có người chăn; Ngài bèn khởi sự dạy
dỗ họ nhiều điều.
35. Trời đã chiều, môn đồ tới gần Ngài mà thưa rằng: Chỗ nầy là vắng vẻ, và trời
đã chiều rồi;
36. xin cho dân chúng về, để họ đi các nơi nhà quê và các làng gần đây đặng mua
đồ ăn.
37. Ngài đáp rằng: Chính các ngươi phải cho họ ăn. Môn đồ thưa rằng: chúng tôi
sẽ đi mua đến hai trăm đơ-ni-ê bánh để cho họ ăn hay sao?
38. Ngài hỏi rằng: Các ngươi có bao nhiêu bánh? Hãy đi xem thử. Môn đồ xem xét
rồi, thưa rằng: Năm cái bánh và hai con cá.
39. Ngài bèn truyền cho môn đồ biểu chúng ngồi xuống hết thảy từng chòm trên cỏ
xanh.
40. Chúng ngồi xuống từng hàng, hàng thì một trăm, hàng thì năm chục.
41. Ðức Chúa Jêsus lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn,
rồi bẻ bánh ra mà trao cho môn đồ, đặng phát cho đoàn dân; lại cũng chia hai con
cá cho họ nữa.
42. Ai nấy ăn no nê rồi;
43. người ta lượm được mười hai giỏ đầy những miếng bánh và cá còn thừa lại.
44. Vả, số những kẻ đã ăn chừng năm ngàn người.
45. Rồi Ngài liền giục môn đồ vào thuyền, qua bờ bên kia trước mình, hướng đến
thành Bết-sai-đa, trong khi Ngài cho dân chúng về.
46. Ngài lìa khỏi chúng rồi, thì lên núi mà cầu nguyện.
47. Ðến tối, chiếc thuyền đương ở giữa biển, còn Ngài thì ở một mình trên đất.
48. Ngài thấy môn đồ chèo khó nhọc lắm, vì gió ngược. Lối canh tư đêm ấy, Ngài
đi bộ trên biển mà đến cùng môn đồ; và muốn đi trước.
49. Môn đồ thấy Ngài đi bộ trên mặt biển ngờ là ma, nên la lên;
50. vì ai nấy đều thấy Ngài và sợ hoảng. nhưng Ngài liền nói chuyện với môn đồ
và phán rằng: Hãy yên lòng, ta đây đừng sợ chi.
51. Ngài bèn bước lên trên thuyền với môn đồ, thì gió lặng. Môn đồ càng lấy làm
lạ hơn nữa;
52. vì chẳng hiểu phép lạ về mấy cái bánh, bởi lòng cứng cỏi.
53. Khi Ngài và môn đồ đã qua khỏi biển, đến xứ Ghê-nê-xa-rết, thì ghé thuyền
vào bờ.
54. Vừa ở trong thuyền bước ra, có dân chúng nhận biết Ngài,
55. chạy khắp cả miền đó, khiêng những người đau nằm trên giường, hễ nghe Ngài ở
đâu thì đem đến đó.
56. Ngài đến nơi nào, hoặc làng, thành, hay là chốn nhà quê, người ta đem người
đau để tại các chợ, và xin Ngài cho mình ít nữa được rờ đến trôn áo Ngài; những
kẻ đã rờ đều được lành bịnh cả.
Mác 7 chọn
đoạn khác
1. Bấy giờ các người Pha-ra-si và mấy thầy thông giáo từ thành Giê-ru-sa-lem
đến, nhóm lại cùng Ðức Chúa Jêsus,
2. thấy một vài môn đồ Ngài dùng tay chưa tinh sạch mà ăn, nghĩa là không rửa
tay.
3. Vả, người Pha-ra-si và người Giu-đa thường giữ lời truyền khẩu của người xưa,
nếu không rửa tay cẩn thận thì không ăn;
4. khi họ ở chợ về, nếu không rửa cũng không ăn. Họ lại còn theo lời truyền khẩu
mà giữ nhiều sự khác nữa, như rửa chén và bình bằng đất hoặc bằng đồng.
5. Vậy, các người Pha-ra-si và các thầy thông giáo hỏi Ngài rằng: Sao môn đồ
thầy không giữ lời truyền khẩu của người xưa, dùng tay chưa tinh sạch mà ăn như
vậy?
6. Ngài đáp rằng: Hỡi kẻ giả hình, Ê-sai đã nói tiên tri về việc các ngươi phải
lắm, như có chép rằng: Dân nầy lấy môi miếng tôn kính ta; Nhưng lòng chúng nó
cách xa ta lắm.
7. Sự chúng nó thờ lạy ta là vô ích, Vì chúng nó dạy theo những điều răn mà chỉ
bởi người ta đặt ra.
8. Các ngươi bỏ điều răn của Ðức Chúa Trời, mà giữ lời truyền khẩu của loài
người!
9. Ngài cũng phán cùng họ rằng: Các ngươi bỏ hẳn điều răn của Ðức Chúa Trời,
đặng giữ theo lời truyền khẩu của mình.
10. Vì Môi-se có nói: Hãy tôn kính cha mẹ ngươi; lại nói: Ai rủa sả cha mẹ, thì
phải bị giết.
11. Nhưng các ngươi nói rằng: Nếu ai nói với cha hay mẹ mình rằng: Mọi điều tôi
sẽ giúp cha mẹ được, thì đã là co-ban (nghĩa là sự dâng cho Ðức Chúa Trời),
12. vậy người ấy không được phép giúp cha mẹ mình sự gì nữa;
13. dường ấy, các ngươi lấy lời truyền khẩu mình lập ra mà bỏ mất lời Ðức Chúa
Trời. Các ngươi còn làm nhiều việc khác nữa giống như vậy.
14. Bấy giờ, Ngài lại kêu đoàn dân mà phán rằng: Các ngươi ai nấy hãy nghe ta và
hiểu:
15. Chẳng sự gì từ ngoài người vào trong cơ thể làm dơ dáy người được; nhưng sự
gì từ trong người ra, đó là sự làm dơ dáy người.
16. Nếu ai có tai mà nghe, hãy nghe.
17. Khi Ngài vào trong nhà, cách xa đoàn dân rồi, môn đồ hỏi Ngài về lời thí dụ
ấy.
18. Ngài phán rằng: Vậy chớ các ngươi cũng không có trí khôn sao? Chưa hiểu
chẳng có sự gì ở ngoài vào trong người mà làm dơ dáy người được sao?
19. Vả, sự đó không vào lòng người, nhưng vào bụng, rồi bị bỏ ra nơi kín đáo,
như vậy làm cho mọi đồ ăn được sạch.
20. Vậy, Ngài phán: Hễ sự gì từ người ra, đó là sự làm dơ dáy người!
21. Vì thật là tự trong, tự lòng người mà ra những ác tưởng, sự dâm dục, trộm
cướp, giết người,
22. tà dâm, tham lam, hung ác, gian dối, hoang đàng, con mắt ganh đố, lộng ngôn,
kiêu ngạo, điên cuồng.
23. Hết thảy những điều xấu ấy ra từ trong lòng thì làm cho dơ dáy người.
24. Ðoạn, Ngài từ đó đi đến bờ cõi thành Ty-rơ và thành Si-đôn. Ngài vào một cái
nhà, không muốn cho ai biết mình, song không thể ẩn được.
25. Vì có một người đờn bà, con gái người bị tà ma ám, đã nghe nói về Ngài, tức
thì vào gieo mình dưới chơn Ngài.
26. Ðờn bà ấy là người Gờ-réc, dân Sy-rô-phê-ni-xi. Người xin Ngài đuổi quỉ ra
khỏi con gái mình.
27. Ðức Chúa Jêsus phán cùng người rằng: Hãy để con cái ăn no nê trước đã; vì
không lẽ lấy bánh của con cái quăng cho chó.
28. Song người đáp lại rằng: Lạy Chúa, hẳn vậy rồi; nhưng mà chó dưới bàn ăn mấy
miếng bánh vụn của con cái.
29. Ngài bèn phán: Hãy đi, vì lời ấy, quỉ đã ra khỏi con gái ngươi rồi.
30. Khi người trở về nhà, thấy đứa trẻ nằm trên giường, và quỉ đã bị đuổi khỏi.
31. Ðức Chúa Jêsus lìa bờ cõi thành Ty-rơ, qua thành Si-đôn và trải địa phận
Ðê-ca-bô-lơ, đến biển Ga-li-lê.
32. Người ta đem một người điếc và ngọng đến cùng Ngài, xin Ngài đặt tay trên
người.
33. Ngài đem riêng người ra, cách xa đám đông, rồi để ngón tay vào lỗ tai người,
và thấm nước miếng xức lưỡi người.
34. Ðoạn Ngài ngửa mặt lên trời, thở ra mà phán cùng người rằng: Ép-pha-ta!
nghĩa là: Hãy mở ra!
35. Tức thì tai được mở ra, lưỡi được thong thả, người nói rõ ràng.
36. Ðức Chúa Jêsus cấm chúng chớ nói điều đó cùng ai; song Ngài càng cấm người
ta lại càng nói đến nữa.
37. Chúng lại lấy làm lạ quá đỗi mà rằng: Ngài làm mọi việc được tốt lành: khiến
kẻ điếc nghe, kẻ câm nói vậy!
Mác 8 chọn
đoạn khác
1. Những ngày đó, lại có một đoàn dân đông theo Ðức Chúa Jêsus. Vì chúng không
có chi ăn, nên Ngài kêu các môn đồ mà phán rằng:
2. Ta thương xót đoàn dân nầy: vì đã ba ngày nay, không rời bỏ ta, và chẳng có
gì ăn.
3. Nếu ta truyền cho nhịn đói trở về nơi họ ở, dọc đàng chắc sẽ kém sức, vì có
mấy người đã đến từ nơi xa.
4. Môn đồ thưa rằng: Có thể kiếm bánh đâu được trong đồng vắng nầy cho chúng ăn
no ư?
5. Ngài hỏi: Các ngươi có bao nhiêu bánh? Thưa: Có bảy cái.
6. Ngài bèn biểu đoàn dân ngồi xuống đất; đoạn lấy bảy cái bánh, tạ ơn, rồi bẻ
ra trao cho môn đồ để phân phát, thì môn đồ phân phát cho đoàn dân.
7. Môn đồ cũng có mấy con cá nhỏ; Ðức Chúa Jêsus tạ ơn rồi, cũng khiến đem phân
phát như vậy.
8. Ai nấy ăn no nê; rồi người ta thâu được bảy giỏ những miếng thừa.
9. Vả, những người ăn đó ước chừng bốn ngàn người. Ðức Chúa Jêsus cho chúng về;
10. rồi liền vào thuyền với môn đồ, sang xứ Ða-ma-nu-tha.
11. Có mấy người Pha-ra-si đến đó, cãi lẽ với Ngài, muốn thử Ngài, thì xin một
dấu lạ từ trên trời.
12. Ðức Chúa Jêsus than thở trong lòng mà rằng: Làm sao dòng dõi nầy xin dấu lạ?
Quả thật, ta nói cùng các ngươi, họ chẳng được ban cho một dấu lạ nào.
13. Ngài bèn bỏ họ, trở vào thuyền mà qua bờ bên kia.
14. Vả, môn đồ quên đem bánh theo, trong thuyền chỉ có một cái bánh mà thôi.
15. Ngài răn môn đồ rằng: Hãy giữ mình cẩn thận về men người Pha-ra-si, và men
đảng Hê-rốt.
16. Môn-đồ nói cùng nhau rằng: Ấy là vì chúng ta không có bánh.
17. Nhưng Ðức Chúa Jêsus biết điều đó, thì phán rằng: Sao các ngươi nói cùng
nhau rằng đó là tại các ngươi không có bánh? Chớ các ngươi còn chưa nghe, chưa
hiểu sao? Các ngươi có lòng cứng cỏi luôn ư?
18. Các ngươi có mắt mà sao không thấy? Có tai mà sao không nghe? Các ngươi lại
không nhớ hay sao?
19. Khi ta bẻ năm cái bánh cho năm ngàn người, các ngươi thâu được mấy giỏ đầy
bánh vụn? Thưa: Mười hai giỏ.
20. Còn khi ta bẻ bảy cái bánh cho bốn ngàn người, các ngươi thâu được mấy giỏ
đầy bánh vụn? Thưa: Bảy giỏ.
21. Ngài phán: Các ngươi còn chưa hiểu sao?
22. Kế đó, Ðức Chúa Jêsus và môn đồ đi đến làng Bết-sai-đa. Người ta đem cho
Ngài một người mù và cầu xin Ngài rờ đến người.
23. Ngài bèn nắm tay người mù, dắt ra ngoài làng, thấm nước miếng trên mắt
người, đặt tay trên người, và hỏi, có thấy chi không?
24. Người mù ngó lên rồi thưa rằng: Tôi thấy người ta, và nhìn họ đi giống như
cây.
25. Rồi Ðức Chúa Jêsus lại đặt tay trên mắt người; người nhìn xem, được sáng mắt
thấy rõ ràng cả thảy.
26. Ðức Chúa Jêsus khiến người về nhà, và truyền rằng: Ðừng trở vào trong làng.
27. Ðức Chúa Jêsus đi khỏi đó với môn đồ mình, đến trong các làng gần thành
Sê-sa-rê phi-líp. Dọc đàng, Ngài hỏi môn đồ rằng: Người ta nói ta là ai?
28. Thưa rằng: Kẻ thì nói là Giăng Báp-tít; người thì nói là Ê-li; kẻ khác thì
nói một trong các đấng tiên tri.
29. Ngài hỏi: Nhưng các ngươi thì nói ta là ai? Phi-e-rơ thưa rằng: Thầy là Ðấng
Christ.
30. Ðức Chúa Jêsus bèn cấm ngặt môn đồ chớ nói sự mình cùng ai hết.
31. Bấy giờ, Ngài khởi sự dạy môn đồ rằng Con người phải chịu khổ nhiều, phải bị
các trưởng lão, các thầy tế lễ cả, và các thầy thông giáo loại ra, phải chịu
giết, sau ba ngày phải sống lại.
32. Ngài nói tỏ tường điều đó với môn đồ. Phi-e-rơ đem Ngài riêng ra, mà căn
gián Ngài.
33. Nhưng Ðức Chúa Jêsus xây lại ngó môn đồ, và quở Phi-e-rơ rằng: Hỡi quỉ
Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta; vì người chẳng nghĩ đến việc Ðức Chúa Trời, song
nghĩ đến việc người ta.
34. Ðoạn, Ngài kêu dân chúng và môn đồ, mà phán rằng: Nếu ai muốn theo ta, phải
liều mình, vác thập tự giá mình mà theo ta.
35. Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai vì cớ ta và đạo Tin Lành mà
mất sự sống thì sẽ cứu.
36. Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì?
37. Hay là có người nào lấy chi mà đổi linh hồn mình ư?
38. Vì giữa dòng dõi gian dâm tội lỗi nầy, hễ ai hổ thẹn về ta và đạo ta, thì
Con người sẽ hổ thẹn về kẻ ấy, khi ngự trong sự vinh hiển của Cha Ngài mà đến
với các thiên sứ thánh.
Mác 9 chọn
đoạn khác
1. Ngài lại phán cùng môn đồ rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong những
người đứng đây, có mấy kẻ sẽ chẳng chết trước khi chưa thấy nước Ðức Chúa Trời
lấy quyền phép mà đến.
2. Khỏi sáu ngày, Ðức Chúa Jêsus đem Phi-e-rơ, Gia-cơ, và Giăng đi tẻ với Ngài
lên núi cao; và Ngài hóa hình trước mặt ba người.
3. Áo xống Ngài trở nên sáng rực và trắng tinh chói lòa, đến nỗi chẳng có thợ
phiếu nào ở thế gian phiếu được trắng như vậy.
4. Ê-li và Môi-se hiện ra, nói chuyện cùng Ðức Chúa Jêsus.
5. Phi-e-rơ bèn cất tiếng thưa cùng Ðức Chúa Jêsus rằng: Lạy thầy, chúng ta ở
đây tốt lắm; hãy đóng ba trại, một cái cho thầy, một cái cho Môi-se, và một cái
cho Ê-li.
6. Vì Phi-e-rơ không biết mình nói chi, tại cả ba đều sợ hãi.
7. Lại có một đám mây bao phủ lấy; và từ đám mây có tiếng phán rằng: Người nầy
là Con rất yêu dấu của ta, hãy vâng nghe người.
8. Thình lình, các môn đồ ngó quanh quất, chẳng thấy ai nữa, chỉ còn một mình
Ðức Chúa Jêsus ở với mình mà thôi.
9. Khi từ trên núi xuống, Ngài cấm môn đồ đừng nói lại với ai những điều mình đã
thấy, cho đến chừng nào Con người từ kẻ chết sống lại.
10. Vậy, môn đồ ghi nhớ lời ấy, và hỏi nhau sự từ kẻ chết sống lại là gì.
11. Lại hỏi Ngài rằng: Sao các thầy thông giáo nói rằng: Ê-li phải đến trước?
12. Ngài đáp rằng: Thật Ê-li phải đến trước sửa lại mọi việc. Vậy thì sao có
chép về Con người rằng Ngài phải chịu khổ nhiều và bị khinh dể ư?
13. Vả, ta nói cùng các ngươi, Ê-li đã đến rồi, người ta đãi người theo ý muốn
mình, y như lời đã chép về việc người vậy.
14. Ðức Chúa Jêsus với ba người đến cùng các môn đồ khác, thì thấy đoàn dân rất
đông vây chung quanh, và mấy thầy thông giáo đương cãi lẽ với các môn đồ ấy.
15. Cả đoàn dân nầy vừa thấy Ngài, liền lấy làm lạ, thảy đều chạy đến chào Ngài.
16. Ngài bèn hỏi rằng: Các ngươi cãi lẽ với môn đồ về việc gì?
17. Một người trong đám đông thưa rằng: Lạy thầy, tôi đã đem con trai tôi tới
cho thầy; nó bị quỉ câm ám,
18. không cứ chỗ nào quỉ ám vào thì làm cho nổi kinh phong, sôi bọt mồm, nghiến
răng, rồi nó mòn mỏi đi; tôi đã xin môn đồ thầy đuổi quỉ ấy, song đuổi không
được.
19. Ðức Chúa Jêsus bèn đáp rằng: Hỡi dòng dõi chẳng tin kia, ta sẽ ở cùng các
ngươi cho đến chừng nào? Ta sẽ chịu các ngươi cho đến khi nào? Hãy đem con đến
cho ta.
20. Chúng bèn đem đứa trẻ cho Ngài. Ðứa trẻ vừa thấy Ðức Chúa Jêsus, tức thì ngã
xuống đất, rồi lăn lóc sôi bọt miếng ra.
21. Ðức Chúa Jêsus hỏi cha nó rằng: Ðiều đó xảy đến cho nó đã bao lâu? Người cha
thưa rằng: Từ khi nó còn nhỏ.
22. Quỉ đã lắm phen quăng nó trong lửa và dưới nước, để giết nó đi; nhưng nếu
thầy làm được việc gì, xin thương xót chúng tôi và giúp cho!
23. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Sao ngươi nói: Nếu thầy làm được? Kẻ nào tin thì
mọi việc đều được cả.
24. Tức thì cha đứa trẻ la lên rằng: Tôi tin; xin Chúa giúp đỡ trong sự không
tin của tôi!
25. Khi Ðức Chúa Jêsus thấy dân chúng chạy đến đông, thì Ngài quở trách tà ma và
phán cùng nó rằng: Hỡi quỉ câm và điếc, ta biểu mầy phải ra khỏi đứa trẻ nầy,
đừng ám nó nữa.
26. Quỉ bèn la lớn tiếng lên, vật đứa trẻ mạnh lắm mà ra khỏi; đứa trẻ trở như
chết vậy, nên nỗi nhiều người nói rằng: Nó chết rồi.
27. Nhưng Ðức Chúa Jêsus nắm tay nó, nâng lên; thì nó đứng dậy.
28. Khi Ðức Chúa Jêsus vào nhà rồi, môn đồ hỏi riêng Ngài rằng: Sao chúng tôi
đuổi quỉ ấy không được?
29. Ngài đáp rằng: Nếu không cầu nguyện, thì chẳng ai đuổi thứ quỉ ấy ra được.
30. Ðoạn, đi khỏi đó, trải qua xứ Ga-li-lê, Ðức Chúa Jêsus không muốn cho ai
biết.
31. Vì Ngài dạy các môn đồ rằng: Con người sẽ bị nộp trong tay người ta, họ sẽ
giết đi; Ngài bị giết đã ba ngày rồi, thì sẽ sống lại.
32. Nhưng môn đồ không hiểu lời ấy, lại sợ không dám hỏi Ngài.
33. Ðến thành Ca-bê-na-um, đang ở trong nhà, Ngài hỏi môn đồ rằng: Lúc đi đường,
các ngươi nói chi với nhau?
34. Môn đồ đều làm thinh; vì dọc đường đã cãi nhau cho biết ai là lớn hơn trong
bọn mình.
35. Ngài bèn ngồi, kêu mười hai sứ đồ mà phán rằng: Nếu ai muốn làm đầu, thì
phải làm rốt hết và làm tôi tớ mọi người.
36. Ðoạn, Ngài bắt một đứa trẻ để ở giữa môn đồ; rồi ẵm nó trong tay, mà phán
rằng:
37. Hễ ai vì danh ta tiếp một đứa trong những đứa trẻ nầy, tức là tiếp ta; còn
ai tiếp ta, thì chẳng phải tiếp ta, bèn là tiếp Ðấng đã sai ta vậy.
38. Giăng thưa cùng Ngài rằng: Lạy thầy, chúng tôi từng thấy có người lấy danh
thầy mà trừ quỉ, thì chúng tôi đã cấm, vì họ không theo chúng ta.
39. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ðừng cấm làm chi; vì chẳng ai cùng trong một lúc,
vừa nhơn danh ta làm phép lạ, vừa nói xấu ta được.
40. Hễ ai không nghịch cùng ta là thuộc về ta.
41. Còn ai nhơn danh ta mà cho các ngươi một chén nước, vì các ngươi thuộc về
Ðấng Christ, quả thật, ta nói cùng các ngươi, người ấy sẽ không mất phần thưởng
mình đâu.
42. Nhưng hễ ai làm cho một đứa trong những đứa nhỏ nầy đã tin, phải sa vào tội
lỗi, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà bỏ xuống biển còn hơn.
43. Nếu tay ngươi làm cho ngươi phạm tội, hãy chặt nó đi; thà rằng một tay mà
vào sự sống, còn hơn đủ hai tay mà sa xuống địa ngục, trong lửa chẳng hề tắt.
44. Ðó là nơi sâu bọ của chúng nó chẳng hề chết, và là nơi lửa chẳng hề tắt.
45. Lại nếu chơn ngươi làm cho ngươi phạm tội, hãy chặt nó đi; thà rằng què chơn
mà vào sự sống, còn hơn đủ hai chơn mà bị quăng vào địa ngục.
46. Ðó là nơi sâu bọ của chúng nó chẳng hề chết, và là nơi lửa chẳng hề tắt.
47. Còn nếu mắt ngươi làm cho ngươi phạm tội, hãy móc nó đi; thà rằng chỉ một
mắt mà vào nước Ðức Chúa Trời, còn hơn đủ hai mắt mà bị quăng vào địa ngục,
48. đó là nơi sâu bọ của chúng nó chẳng hề chết và là nơi lửa chẳng hề tắt.
49. Vì mỗi người sẽ bị muối bằng lửa.
50. Muối là vật tốt, nhưng nếu muối mất mặn đi, thì lấy chi làm cho mặn lại
được?
51. Các ngươi phải có muối trong lòng mình, lại phải hòa thuận cùng nhau.
Mác 10 chọn
đoạn khác
1. Ðức Chúa Jêsus từ đó mà đi, qua bờ cõi xứ Giu-đê, bên kia sông Giô-đanh. Ðoàn
dân đông lại nhóm họp cùng Ngài, Ngài dạy dỗ chúng y như lệ thường.
2. Các người Pha-ra-si bèn đến gần hỏi để thử Ngài rằng: Người nam có phép để vợ
mình chăng?
3. Ngài trả lời rằng: Vậy chớ Môi-se dạy các ngươi điều chi?
4. Họ thưa rằng: Môi-se có cho phép viết tờ để và cho phép để vợ.
5. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ấy vì cớ lòng các ngươi cứng cỏi, nên người đã
truyền mạng nầy cho.
6. Nhưng từ lúc đầu sáng thế, Ðức Chúa Trời làm ra một người nam và một người
nữ.
7. Vì cớ đó, người nam lìa cha mẹ mình mà dính díu với vợ;
8. và hai người cùng nên một thịt mà thôi. Như thế, vợ chồng chẳng phải là hai
nữa, mà chỉ là một thịt.
9. Vậy, người ta không nên phân rẽ những kẻ mà Ðức Chúa Trời đã phối hiệp.
10. Khi ở trong nhà, môn đồ lại hỏi Ngài về việc ấy;
11. Ngài phán rằng: Ai để vợ mình mà cưới vợ khác, thì phạm tội tà dâm với
người;
12. còn nếu người đờn bà bỏ chồng mình mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội tà
dâm.
13. Người ta đem những con trẻ đến cùng Ngài, đặng Ngài rờ chúng nó; nhưng môn
đồ trách những kẻ đem đến.
14. Ðức Chúa Jêsus thấy vậy, bèn giận mà phán cùng môn đồ rằng: Hãy để con trẻ
đến cùng ta, đừng cấm chúng nó; vì nước Ðức Chúa Trời thuộc về những kẻ giống
như con trẻ ấy.
15. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai chẳng nhận lấy nước Ðức Chúa Trời như
một đứa trẻ, thì chẳng được vào đó bao giờ.
16. Ngài lại bồng những đứa trẻ ấy, đặt tay trên chúng nó mà chúc phước cho.
17. Ngài đang ra đi, có một người chạy lại, quì trước mặt Ngài, mà hỏi rằng:
Thưa thầy nhơn lành, tôi phải làm chi cho được hưởng sự sống đời đời?
18. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Sao ngươi gọi ta là nhơn lành? Chỉ có một Ðấng
nhơn lành, là Ðức Chúa Trời.
19. Ngươi biết các điều răn: Ðừng phạm tội tà dâm; đừng giết người; đừng trộm
cướp; đừng làm chứng dối; đừng làm gian; hãy hiếu kính cha mẹ.
20. Người thưa rằng: Lạy thầy, tôi đã giữ mọi điều đó từ khi còn nhỏ.
21. Ðức Chúa Jêsus ngó người mà yêu, nên phán rằng: Ngươi còn thiếu một điều.
Hãy đi, bán hết gia tài mình, đem thí cho kẻ nghèo khổ, chắc sẽ được của báu ở
trên trời, rồi hãy đến mà theo ta.
22. Song nét mặt người nầy rầu rĩ về lời đó, đi ra rất buồn bã, vì có nhiều của
lắm.
23. Bấy giờ Ðức Chúa Jêsus ngó xung quanh mình, mà phán cùng môn đồ rằng: Kẻ
giàu vào nước Ðức Chúa Trời khó là dường nào!
24. Môn đồ lấy mấy lời đó làm lạ. Nhưng Ðức Chúa Jêsus lại phán rằng: Hỡi các
con, những kẻ cậy sự giàu có vào nước Ðức Chúa Trời khó là dường nào!
25. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Ðức Chúa Trời.
26. Môn đồ lại càng lấy làm lạ, nói cùng nhau rằng: Vậy thì ai được cứu?
27. Ðức Chúa Jêsus ngó môn đồ mà rằng: Sự đó loài người không thể làm được,
nhưng Ðức Chúa Trời thì chẳng thế; vì Ðức Chúa Trời làm mọi sự được cả.
28. Phi-e-rơ liền thưa cùng Ngài rằng: Nầy, chúng tôi đã bỏ hết mà đi theo thầy.
29. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi chẳng một người nào
vì ta và Tin Lành từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng,
30. mà chẳng lãnh được đương bây giờ, trong đời nầy, trăm lần hơn về những nhà
cửa, anh em, chị em, mẹ con, đất ruộng, với sự bắt bớ, và sự sống đời đời trong
đời sau.
31. Nhưng có nhiều kẻ đầu sẽ nên rốt; có kẻ rốt sẽ nên đầu.
32. Ðức Chúa Jêsus và môn đồ đương đi đường lên thành Giê-ru-sa-lem, Ngài thì đi
trước; các môn đồ thất kinh, và những người đi theo đều sợ hãi. Ngài lại kèm
mười hai sứ đồ đi cùng mình mà phán về những việc phải xảy đến cho mình, rằng:
33. Nầy, chúng ta lên thành Giê-ru-sa-lem, Con người sẽ bị nộp cho các thầy tế
lễ cả cùng các thầy thông giáo; họ sẽ định Ngài phải bị tử hình và giao Ngài cho
dân ngoại.
34. Người ta sẽ nhạo báng Ngài, nhổ trên Ngài, đánh đập Ngài mà giết đi; sau ba
ngày, Ngài sẽ sống lại.
35. Bấy giờ, Gia-cơ và Giăng, hai con trai Xê-bê-đê, đến gần Ngài mà thưa rằng:
Lạy thầy, chúng tôi muốn thầy làm thành điều chúng tôi sẽ xin.
36. Ngài hỏi rằng: Các ngươi muốn ta làm chi cho?
37. Thưa rằng: Khi thầy được vinh hiển, xin cho chúng tôi một đứa ngồi bên hữu,
một đứa bên tả.
38. Nhưng Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Các ngươi không biết điều mình xin. Các
ngươi có uống được chén ta uống, và chịu được phép báp-tem ta chịu chăng?
39. Thưa rằng: Ðược. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Các ngươi sẽ uống chén ta uống,
và sẽ chịu phép báp-tem ta chịu;
40. nhưng chí như ngồi bên hữu và bên tả ta thì không phải tự ta cho được: ấy là
thuộc về người nào mà điều đó đã dành cho.
41. Mười sứ đồ kia nghe sự xin đó, thì giận Gia-cơ và Giăng.
42. Nhưng Ðức Chúa Jêsus gọi họ mà phán rằng: Các ngươi biết những người được
tôn làm đầu cai trị các dân ngoại, thì bắt dân phải phục mình, còn các quan lớn
thì lấy quyền thế trị dân.
43. Song trong các ngươi không như vậy; trái lại hễ ai muốn làm lớn trong các
ngươi, thì sẽ làm đầy tớ;
44. còn ai trong các ngươi muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi mọi người.
45. Vì Con người đã đến không phải để người ta hầu việc mình, song để hầu việc
người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều người.
46. Kế đó, Ðức Chúa Jêsus và môn đồ đến thành Giê-ri-cô. Ngài và môn đồ cùng một
đoàn dân đông đang từ đó lại đi, thì có một người ăn mày mù tên là Ba-ti-mê, con
trai của Ti-mê, ngồi bên đường.
47. Vì đã nghe nói ấy là Ðức Chúa Jêsus, người Na-xa-rét, người vùng la lên mà
rằng: Hỡi Ðức Chúa Jêsus, con vua Ða-vít, xin thương tôi cùng!
48. Có nhiều kẻ rầy người, biểu nín đi; song người lại kêu lớn hơn nữa rằng: Hỡi
con vua Ða-vít, xin thương tôi cùng!
49. Ðức Chúa Jêsus dừng lại, phán rằng: Hãy kêu người đến. Chúng kêu người mù
đến, mà nói rằng: Hãy vững lòng, đứng dậy, Ngài gọi ngươi.
50. Người mù bỏ áo ngoài, bước tới đến cùng Ðức Chúa Jêsus.
51. Ðức Chúa Jêsus bèn cất tiếng phán rằng: Ngươi muốn ta làm chi cho ngươi?
Người mù thưa rằng: Lạy thầy, xin cho tôi được sáng mắt.
52. Ðức Chúa Jêsus phán: Ði đi, đức tin ngươi đã chữa lành ngươi rồi.
53. Tức thì người mù được sáng mắt, và đi theo Ðức Chúa Jêsus trên đường.
Mác 11 chọn
đoạn khác
1. Khi tới gần thành Giê-ru-sa-lem, bên làng Bê-pha-giê và làng Bê-tha-ni, ngang
núi ô-li-ve, Ðức Chúa Jêsus sai hai môn đồ đi,
2. và phán rằng: Hãy đi đến làng ngay trước mặt các ngươi; vừa khi vào đó, thấy
một con lừa con đương buộc, chưa có ai cỡi; hãy mở nó ra, dắt về cho ta.
3. Hoặc có ai hỏi các ngươi rằng: Vì sao làm điều đó? hãy đáp lại: Chúa cần dùng
nó, tức thì họ sẽ cho dắt lừa về đây.
4. Hai người đi, thì thấy lừa con đương buộc ở ngoài trước cửa, chỗ đường quẹo,
bèn mở ra.
5. Có mấy kẻ trong những người ở đó hỏi rằng: Các ngươi mở lừa con đó làm chi?
6. Hai người trả lời theo Ðức Chúa Jêsus đã dặn; thì họ để cho đi.
7. Hai người dắt lừa con về cho Ðức Chúa Jêsus, lấy áo mình trải trên nó; rồi
Ngài cỡi lên.
8. Nhiều người trải áo mình trên đàng; lại có kẻ rải nhánh cây chặt trong đồng
ruộng.
9. Người đi trước kẻ theo sau đều la lên rằng: Hô-sa-na! Ðáng khen ngợi cho Ðấng
nhơn danh Chúa mà đến!
10. Phước cho nước đến, là nước vua Ða-vít, tổ phụ chúng ta! Hô-sa-na ở trên nơi
rất cao!
11. Ðức Chúa Jêsus vào thành Giê-ru-sa-lem, đến nơi đền thờ; đoạn, liếc mắt xem
mọi sự chung quanh, thì trời đã tối, Ngài bèn ra, đặng đi tới làng Bê-tha-ni với
mười hai sứ đồ.
12. Sáng ngày, khi đã lìa làng Bê-tha-ni rồi, thì Ngài đói.
13. Vừa thấy đàng xa một cây vả có lá, Ngài đến đó xem hoặc có chi chăng; song,
tới gần rồi, chỉ thấy có lá mà thôi, vì bấy giờ không phải mùa vả.
14. Ngài bèn cất tiếng phán cùng cây vả rằng: Chẳng hề có ai ăn trái của mầy
nữa! Các môn đồ đều nghe lời ấy.
15. Ðoạn, đến thành Giê-ru-sa-lem; Ðức Chúa Jêsus vào đền thờ, đuổi những kẻ
buôn bán ở đó, lại lật đổ bàn những người đổi bạc, và ghế những kẻ bán bò câu.
16. Ngài cấm không cho ai được đem đồ gì đi ngang qua đền thờ.
17. Rồi Ngài dạy dỗ chúng mà rằng: há chẳng có lời chép: Nhà ta sẽ gọi là nhà
cầu nguyện của muôn dân hay sao? Nhưng các ngươi đã làm thành cái hang trộm
cướp.
18. Các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo nghe mấy lời, bèn kiếm cách diệt
Ngài; vì họ sợ Ngài, tại cả đoàn dân cảm động sự dạy dỗ của Ngài lắm.
19. Ðến chiều, Ngài và môn đồ ra khỏi thành.
20. Sáng hôm sau, khi đi ngang qua, thấy cây vả đã khô cho tới rễ;
21. bấy giờ Phi-e-rơ nhớ lại chuyện đã qua, thưa cùng Ngài rằng: Thầy, coi kìa!
Cây vả thầy đã rủa nay khô đi rồi.
22. Ðức Chúa Jêsus cất tiếng phán rằng: Hãy có đức tin đến Ðức Chúa Trời.
23. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai sẽ biểu hòn núi nầy rằng: Phải cất mình
lên, và quăng xuống biển, nếu người chẳng nghi ngại trong lòng, nhưng tin chắc
lời mình nói sẽ ứng nghiệm, thì điều đó sẽ thành cho.
24. Bởi vậy ta nói cùng các ngươi: Mọi điều các ngươi xin trong lúc cầu nguyện,
hãy tin đã được, tất điều đó sẽ ban cho các ngươi.
25. Khi các ngươi đứng cầu nguyện, nếu có sự gì bất bình cùng ai, thì hãy tha
thứ, để Cha các ngươi ở trên trời cũng tha lỗi cho các ngươi.
26. Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ
không tha lỗi cho các ngươi.
27. Chúa và môn đồ trở lại thành Giê-ru-sa-lem. Ngài đang đi dạo trong đền thờ,
thì các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo, và các trưởng lão tới gần Ngài,
28. mà hỏi rằng: Thầy lấy quyền phép nào làm những điều nầy, hoặc ai đã cho thầy
quyền phép làm những điều ấy?
29. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ta cũng hỏi các ngươi một câu; hãy trả lời cho ta,
thì ta sẽ nói cho các ngươi biết ta làm những điều đó bởi quyền phép nào.
30. Phép báp-tem của Giăng đến bởi trên trời hay là bởi người ta? Hãy trả lời
cho ta đi.
31. Vả, họ bàn với nhau như vầy: Nếu chúng ta nói: Bởi trên trời, thì người sẽ
nói rằng: Vậy, sao các ngươi không tin lời Giăng?
32. Bằng chúng ta nói trái lại: Bởi người ta? Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều tin
Giăng thật là Ðấng tiên tri.
33. Nên họ thưa lại cùng Ðức Chúa Jêsus rằng: Chúng tôi không biết. Ðức Chúa
Jêsus bèn phán cùng họ rằng: Ta cũng không nói cho các ngươi biết ta nhờ quyền
phép nào mà làm những điều nầy.
Mác 12 chọn
đoạn khác
1. Ðức Chúa Jêsus khởi phán thí dụ cùng họ rằng: Một người kia trồng vườn nho,
rào chung quanh, ở trong đào một cái hầm ép rượu, và dựng một cái tháp; đoạn cho
mấy người làm nghề trồng nho thuê, mà lìa bổn xứ.
2. Tới mùa, chủ vườn sai một đầy tớ đến cùng bọn trồng nho, đặng thâu lấy phần
hoa lợi vườn nho nơi tay họ.
3. Nhưng họ bắt đầy tớ mà đánh rồi đuổi về tay không.
4. Người sai một đầy tớ khác đến; nhưng họ đánh đầu nó và chưởi rủa nữa.
5. Người còn sai đứa khác đến, thì họ giết đi; lại sai nhiều đứa khác nữa, đứa
thì bị họ đánh, đứa thì bị họ giết.
6. Chủ vườn còn đứa con trai một rất yêu dấu, bèn sai đi lần cuối cùng mà nói
rằng: Chúng nó sẽ kính vì con ta!
7. Nhưng bọn trồng nho đó bàn với nhau rằng: Thằng nầy là con kế tự; hè, ta hãy
giết nó, thì phần gia tài nó sẽ về chúng ta.
8. Họ bắt con trai ấy giết đi, ném ra ngoài vườn nho.
9. Vậy thì chủ vườn nho sẽ làm thế nào? Người sẽ đến giết bọn trồng nho đó, rồi
lấy vườn nho lại mà cho người khác.
10. Các người há chưa đọc lời Kinh Thánh nầy: Hòn đá bị thợ xây nhà bỏ ra, Ðã
trở nên đá góc nhà;
11. Ấy là công việc của Chúa, Và là việc rất lạ trước mắt chúng ta, hay sao?
12. Những người đó bèn tìm cách bắt Ngài, vì biết rõ rằng Ngài phán thí dụ ấy
chỉ về mình; song sợ dân chúng, nên bỏ Ngài mà đi.
13. Kế đó, họ sai mấy người thuộc về phe Pha-ra-si và đảng Hê-rốt đến, để bắt
lỗi Ngài trong lời nói.
14. Vậy, mấy người ấy đến, thưa Ngài rằng: Lạy thầy, chúng tôi biết thầy là
người thật, không lo sợ gì ai; vì thầy không xem bề ngoài người ta, nhưng dạy
đạo Ðức Chúa Trời theo mọi lẽ thật. Có nên nộp thuế cho Sê-sa hay không? Chúng
tôi phải nộp hay là không nộp?
15. Nhưng Ngài biết sự giả hình của họ thì phán rằng: Các ngươi thử ta làm chi?
Hãy đem cho ta xem một đồng đơ-ni-ê.
16. Họ đem cho Ngài một đồng, Ngài bèn phán rằng: Hình và hiệu nầy của ai? Họ
trả lời rằng: Của Sê-sa.
17. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Vật chi của Sê-sa hãy trả lại cho Sê-sa, còn vật
chi của Ðức Chúa Trời hãy trả lại cho Ðức Chúa Trời. Họ đều lấy làm lạ về Ngài.
18. Các người Sa-đu-sê, là những kẻ vẫn nói rằng không có sự sống lại, đến gần
mà hỏi Ngài rằng:
19. Thưa thầy, Môi-se đã ban cho chúng tôi luật nầy: Nếu một người kia có anh em
qua đời, để vợ lại, không con, thì người kia phải lấy vợ góa đó đặng nối dòng
dõi cho anh em mình.
20. Vả, có bảy anh em. Người thứ nhứt cưới vợ, rồi chết, không có con.
21. Người thứ hai lấy vợ góa ấy, sau chết, cũng không có con; rồi đến người thứ
ba cũng vậy.
22. Trong bảy người, chẳng ai để con lại. Sau hết, người đờn bà cũng chết.
23. Lúc sống lại, đờn bà đó là vợ ai trong bảy anh em? vì hết thảy đều đã lấy
người làm vợ.
24. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Há chẳng phải các ngươi lầm, vì không biết Kinh
Thánh, cũng không hiểu quyền phép Ðức Chúa Trời sao?
25. Vì đến lúc người ta từ kẻ chết sống lại, thì chẳng cưới vợ, chẳng lấy chồng;
nhưng các người sống lại đó ở như thiên sứ trên trời vậy.
26. Còn về những người chết được sống lại, thì trong sách Môi-se có chép lời Ðức
Chúa Trời phán cùng người trong bụi gai rằng: Ta là Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham,
Ðức Chúa Trời của Y-sác, Ðức Chúa Trời của Gia-cốp, các ngươi há chưa đọc đến
sao?
27. Ngài chẳng phải là Ðức Chúa Trời của kẻ chết, mà là của kẻ sống! Thật các
ngươi lầm to.
28. Bấy giờ, có một thầy thông giáo nghe Chúa và người Sa-đu-sê biện luận với
nhau, biết Ðức Chúa Jêsus đã khéo đáp, bèn đến gần hỏi Ngài rằng: Trong các điều
răn, điều nào là đầu hết?
29. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Nầy là điều đầu nhứt: Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe,
Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, là Chúa có một.
30. Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức mà kính mến Chúa là
Ðức Chúa Trời ngươi.
31. Nầy là điều thứ hai: Ngươi phải yêu kẻ lân cận như mình. Chẳng có điều răn
nào lớn hơn hai điều đó.
32. Thầy thông giáo trả lời rằng: Thưa thầy, thầy nói phải, hiệp lý lắm, thật
Ðức Chúa Trời là có một, ngoài Ngài chẳng có Chúa nào khác nữa;
33. thật phải kính mến Chúa hết lòng, hết trí, hết sức và yêu kẻ lân cận như
mình, ấy là hơn mọi của lễ thiêu cùng hết thảy các của lễ.
34. Ðức Chúa Jêsus thấy người trả lời như người khôn, thì phán rằng: Ngươi chẳng
cách xa nước Ðức Chúa Trời đâu. Rồi không ai dám hỏi Ngài nữa.
35. Ðức Chúa Jêsus đương dạy dỗ trong đền thờ, bèn cất tiếng phán những lời nầy:
Sao các thầy thông giáo nói Ðấng Christ là con Ða-vít?
36. Chính Ða-vít đã cảm Ðức Thánh Linh mà nói rằng: Chúa phán cùng Chúa tôi; Hãy
ngồi bên hữu ta, Cho đến chừng nào ta để kẻ thù nghịch ngươi làm bệ dưới chơn
ngươi.
37. Vì chính Ða-vít xưng Ngài bằng Chúa, thì lẽ nào Ngài là con vua ấy? Ðoàn dân
đông vui lòng mà nghe Ngài.
38. Trong lúc dạy dỗ, Ngài lại phán rằng: Hãy giữ mình về các thầy thông giáo,
là kẻ ưa mặc áo dài đi chơi, thích người ta chào mình giữa chợ
39. muốn ngôi cao nhứt trong các nhà hội cùng trong các đám tiệc,
40. nuốt các nhà đờn bà góa, mà làm bộ đọc lời cầu nguyện dài. Họ sẽ bị phạt
càng nặng hơn nữa.
41. Ðức Chúa Jêsus ngồi đối ngang cái rương đựng tiền dâng, coi dân chúng bỏ
tiền vào thể nào.
42. Có lắm người giàu bỏ nhiều tiền; cũng có một mụ góa nghèo kia đến bỏ hai
đồng tiền ăn một phần tư xu.
43. Ngài bèn kêu môn đồ mà phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, mụ góa
nghèo nầy đã bỏ tiền vào rương nhiều hơn hết thảy những người đã bỏ vào.
44. Vì mọi kẻ khác lấy của dư mình bỏ vào, còn mụ nầy nghèo cực lắm, đã bỏ hết
của mình có, là hết của có để nuôi mình.
Mác 13 chọn
đoạn khác
1. Ðức Chúa Jêsus vừa ra khỏi đền thờ, có một người môn đồ thưa cùng Ngài rằng:
Thưa thầy, hãy xem đá và các nhà nầy là dường nào!
2. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ngươi thấy các nhà lớn nầy ư? Rồi ra sẽ không còn
một hòn đá sót lại trên một hòn khác nữa; cả thảy đều đổ xuống.
3. Ngài đương ngồi trên núi ô-li-ve, đối ngang đền thờ, thì Phi-e-rơ, Gia-cơ,
Giăng và Anh-rê hỏi riêng Ngài rằng:
4. Xin thầy nói cho chúng tôi biết lúc nào các điều đó xảy đến, và có điềm chi
cho người ta biết các sự đó sẽ hoàn thành?
5. Ðức Chúa Jêsus khởi phán rằng: Hãy giữ mình kẻo có ai lừa dối các ngươi
chăng.
6. Có nhiều kẻ sẽ lấy danh ta mà đến, xưng rằng: Chính ta là Ðấng Christ! Họ sẽ
dỗ dành nhiều người.
7. Khi các ngươi nghe nói về giặc và nghe tiếng đồn về giặc, thì đừng bối rối:
những sự ấy phải xảy đến; nhưng chưa là cuối cùng.
8. Vì dân nầy sẽ dấy lên nghịch cùng dân khác, nước nọ nghịch cùng nước kia;
cũng sẽ có động đất nhiều nơi, và đói kém. Ðó chỉ là đầu sự khốn khổ mà thôi.
9. Còn các ngươi, phải giữ mình; họ sẽ nộp các ngươi trước tòa án; các ngươi sẽ
bị đánh trong các nhà hội, và vì cớ ta, sẽ đứng trước mặt các quan tổng đốc và
các vua, để làm chứng trước mặt họ.
10. Nhưng trước hết Tin Lành phải được giảng ra cho khắp muôn dân đã.
11. Vả, khi họ điệu các ngươi đi nộp, chớ có ngại trước về điều mình sẽ nói,
nhưng đến giờ đó, hãy nói theo lời sẽ ban cho; vì ấy không phải các ngươi nói,
bèn là Ðức Thánh Linh vậy.
12. Bấy giờ, anh sẽ nộp em cho phải chết, cha sẽ nộp con; con cái sẽ dấy lên
nghịch cùng cha mẹ mình mà làm cho phải chết.
13. Các ngươi sẽ bị mọi người ghen ghét vì danh ta; song ai cứ bền lòng đến cuối
cùng, người ấy sẽ được cứu.
14. Khi các ngươi sẽ xem thấy sự tàn nát gớm ghiếc lập ra nơi không nên lập (ai
đọc phải để ý), bấy giờ những kẻ ở trong xứ Giu-đê hãy trốn lên núi;
15. ai ở trên mái nhà chớ xuống, và chớ vào trong nhà mà chuyên bất luận vật gì;
16. ai ở ngoài đồng chớ trở về lấy áo xống mình.
17. Trong những ngày đó, khốn cho đờn bà có thai cùng đờn bà cho con bú!
18. Hãy cầu nguyện cho điều đó chớ xảy ra lúc mùa đông.
19. Vì trong những ngày ấy có tại nạn, đến nỗi từ ban đầu Ðức Chúa Trời dựng nên
trời đất cho đến bây giờ chưa hề có như vậy, và về sau cũng sẽ chẳng hề có nữa.
20. Nếu Chúa chẳng giảm bớt các ngày ấy, thì không có sanh vật nào được cứu;
song vì cớ những kẻ Ngài đã chọn, nên Ngài đã giảm bớt các ngày ấy.
21. Khi ấy, dầu có ai bảo các ngươi rằng: Kìa, Ðấng Christ ở đây, hay là Ngài ở
đó, thì chớ tin.
22. Những christ giả, tiên tri giả sẽ nổi lên, làm những dấu lạ phép lạ, nếu có
thể được thì họ cũng dỗ dành chính những người được chọn.
23. Hãy giữ lấy, ta đã nói trước cho các ngươi cả.
24. Trong những ngày ấy, sau kỳ tại nạn, mặt trời sẽ tối tăm, mặt trăng chẳng
chiếu sáng nữa,
25. các ngôi sao sẽ tự trên trời rớt xuống, và thế lực các từng trời sẽ rúng
động.
26. Bấy giờ người ta sẽ thấy Con người lấy đại quyền đại vinh ngự đến trên đám
mây;
27. Ngài sẽ sai các thiên sứ đặng nhóm những kẻ được chọn ở bốn phương, từ đầu
cùng đất cho đến đầu cùng trời.
28. Hãy nghe lời thí dụ về cây vả. Vừa khi nhánh nó trở nên non và nứt lộc, thì
biết mùa hạ gần tới.
29. Cũng một lẽ ấy, khi các ngươi thấy các điều đó xảy đến, hãy biết Con người
đã tới gần, ở nơi cửa.
30. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, dòng dõi nầy chẳng qua trước khi mọi sự kia
xảy tới.
31. Trời đất sẽ qua đi, song lời ta không bao giờ qua đâu.
32. về ngày và giờ đó, chẳng ai biết chi hết, các thiên sứ trên trời, hay là Con
cũng chẳng biết nữa; song chỉ Cha mà thôi.
33. Hãy giữ mình, tỉnh thức; vì các ngươi chẳng biết kỳ đó đến khi nào.
34. Ấy cũng như một người kia đi đường xa, bỏ nhà, giao cho đầy tớ mỗi đứa cai
quản một việc, và cũng biểu đứa canh cửa thức canh.
35. Vậy, các ngươi hãy thức canh, vì không biết chủ nhà về lúc nào, hoặc chiều
tối, nửa đêm, lúc gà gáy, hay là sớm mai,
36. e cho người về thình lình, gặp các ngươi ngủ chăng.
37. Ðiều mà ta nói cùng các ngươi, ta cũng nói cho mọi người: Hãy tỉnh thức!
Mác 14 chọn
đoạn khác
1. Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ ăn bánh không men, các thầy tế lễ cả cùng
các thầy thông giáo tìm mưu đặng bắt Ðức Chúa Jêsus và giết đi.
2. Vì họ nói rằng: Chẳng nên làm việc nầy trong này lễ, sợ sanh sự xôn xao trong
dân chúng.
3. Ðức Chúa Jêsus ở tại làng Bê-tha-ni, trong nhà Si-môn là kẻ phung. Ngài đương
ngồi bàn ăn, có một người đờn bà vào, đem một cái bình bằng ngọc, đựng đầy dầu
cam tòng thật rất quí giá, đập bể ra mà đổ dầu thơm trên đầu Ðức Chúa Jêsus.
4. Có vài người nổi giận nói cùng nhau rằng: Sao xài phí dầu thơm ấy như vậy?
5. Vì có thể bán dầu đó được hơn ba trăm đơ-ni-ê, mà bố thí cho kẻ khó khăn.
Vậy, họ oán trách người.
6. Nhưng Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy để mặc người; sao các ngươi làm rầy người
mà chi? Người đã làm một việc tốt cho ta.
7. Vì các ngươi hằng có kẻ khó khăn ở cùng mình, khi nào muốn làm phước cho họ
cũng được; nhưng các ngươi chẳng có ta ở luôn với đâu.
8. Người đã làm điều mình có thể làm được, đã xức xác ta trước để chôn.
9. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong khắp cả thế gian, hễ nơi nào Tin Lành
nầy được giảng ra, việc người đã làm cũng sẽ được nhắc lại để nhớ đến người.
10. Bấy giờ, Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là một trong mười hai sứ đồ, đến nơi các thầy
tế lễ cả, để nộp Ðức Chúa Jêsus cho.
11. họ vui lòng mà nghe và hứa cho nó tiền bạc; rồi Giu-đa tìm dịp tiện để nộp
Ngài.
12. Ngày thứ nhứt về lễ ăn bánh không men, là ngày giết chiên con làm lễ Vượt
Qua, các môn đồ thưa cùng Ðức Chúa Jêsus rằng: Thầy muốn chúng tôi đi dọn cho
thầy ăn lễ Vượt Qua tại đâu?
13. Ngài sai hai môn đồ đi, và dặn rằng: Hãy vào thành, sẽ gặp một người xách vò
nước; cứ theo sau,
14. hễ người vào nhà nào, các ngươi sẽ nói cùng chủ nhà ấy rằng: Thầy phán: Cái
phòng ta sẽ dùng ăn lễ Vượt Qua với môn đồ ta ở đâu?
15. Chính kẻ đó sẽ chỉ cho các ngươi một cái phòng lớn trên lầu có đồ đạc sẵn
sàng, hãy dọn tại đó cho chúng ta.
16. Vậy, hai môn đồ đi ra mà vào thành, gặp mọi điều như lời Ngài đã phán, rồi
dọn lễ Vượt Qua.
17. Buổi chiều, Ngài đến với mười hai sứ đồ.
18. Ðang ngồi ăn, Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi,
trong vòng các ngươi có một kẻ ngồi ăn cùng ta, sẽ phản ta.
19. Các môn đồ bèn buồn rầu lắm, cứ lần lượt mà thưa cùng Ngài rằng: Có phải tôi
chăng?
20. Ngài đáp rằng: Ấy là một trong mười hai người, là người thò tay vào mâm cùng
ta.
21. Vì Con người đi, y như lời đã chép về Ngài; song khốn cho kẻ phản Con người!
Thà nó chẳng sanh ra thì hơn.
22. Khi đang ăn, Ðức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn, đoạn bẻ ra trao cho các môn đồ,
mà phán rằng: Hãy lấy, nầy là thân thể ta.
23. Ngài lại cầm chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đồ, và ai nấy đều uống.
24. Ngài phán rằng: Nầy là huyết ta, huyết của sự giao ước đổ ra cho nhiều
người.
25. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến
ngày ta sẽ uống trái nho mới trong nước Ðức Chúa Trời.
26. Khi đã hát thơ thánh rồi, Chúa và môn đồ đi ra đặng lên núi ô-li-ve.
27. Ðức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ rằng: Hết thảy các ngươi sẽ gặp dịp vấp
phạm; vì có chép rằng: Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên, thì bầy chiên sẽ tan lạc.
28. Nhưng khi ta sống lại rồi, ta sẽ đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi.
29. Phi-e-rơ thưa rằng: Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, nhưng tôi chẳng hề
làm vậy.
30. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay, cũng trong
đêm nay, trước khi gà gáy hai lượt, ngươi sẽ chối ta ba lần.
31. Nhưng Phi-e-rơ lại thưa cách quả quyết hơn rằng: Dầu tôi phải chết cùng
thầy, tôi cũng chẳng chối thầy đâu. Hết thảy các môn đồ khác cũng đều nói như
vậy.
32. Kế đó, đi đến một nơi kia, gọi là Ghết-sê-ma-nê, Ðức Chúa Jêsus phán cùng
môn đồ rằng: Các ngươi hãy ngồi đây, đợi ta cầu nguyện.
33. Ngài bèn đem Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng đi, thì Ngài khởi sự kinh hãi và sầu
não.
34. Ngài phán cùng ba người rằng: Linh-hồn ta buồn rầu lắm cho đến chết; các
ngươi hãy ở đây, và tỉnh thức.
35. Rồi Ngài đi một đỗi xa hơn, sấp mình xuống đất mà cầu nguyện rằng: nếu có
thể được, xin giờ nầy qua khỏi mình.
36. Ngài rằng: A-ba lạy Cha, mọi việc Cha làm được cả; xin Cha cất chén nầy khỏi
con; nhưng không theo điều con muốn, mà theo điều Cha muốn.
37. Rồi Ngài trở lại, thấy ba người ngủ; bèn phán cùng Phi-e-rơ rằng: Si-môn,
ngủ ư! Ngươi không thức được một giờ sao?
38. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để các ngươi khỏi sa vào chước cám dỗ; tâm thần
thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối.
39. Ngài lại đi lần nữa, và cầu nguyện, y như lời trước.
40. Ngài trở lại, thấy môn đồ còn ngủ, vì con mắt đã đừ quá; và không biết trả
lời cùng Ngài thể nào.
41. Ngài trở lại lần thứ ba, phán cùng môn đồ rằng: Bây giờ các ngươi ngủ và
nghỉ ngơi ư! thôi, giờ đã tới rồi; nầy, Con người hầu bị nộp trong tay kẻ có
tội.
42. Hãy chờ dậy, đi hè; kìa, đứa phản ta đã đến gần.
43. Ngài đương còn phán, tức thì Giu-đa, là một trong mười hai sứ đồ thoạt đến
với một toán đông cầm gươm và gậy, bởi các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo,
và các trưởng lão phái đến.
44. Vả, đứa phản Ngài đã cho chúng dấu hiệu nầy: Hễ tôi hôn ai, ấy là người đó;
hãy bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận.
45. Vậy, khi Giu-đa đến rồi, liền lại gần Ngài mà nói rằng: Lạy thầy! Rồi nó hôn
Ngài.
46. Chúng bèn tra tay bắt Ðức Chúa Jêsus.
47. Có một người trong những kẻ ở đó rút gươm ra, đánh một đứa đầy tớ của thầy
cả thượng phẩm, chém đứt tai đi.
48. Ðức Chúa Jêsus cất tiếng phán cùng chúng rằng: Các ngươi đem gươm và gậy đến
bắt ta như ta là kẻ trộm cướp.
49. Ta hằng ngày ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ, mà các ngươi không
bắt ta; nhưng điều ấy xảy đến, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm.
50. Bấy giờ, mọi người đều bỏ Ngài và trốn đi cả.
51. Có một người trẻ tuổi kia theo Ngài, chỉ có cái khăn bằng gai trùm mình;
chúng bắt người.
52. Nhưng người bỏ khăn lại, ở truồng chạy trốn khỏi tay chúng.
53. Chúng điệu Ðức Chúa Jêsus đến nơi thầy cả thượng phẩm, có hết thảy thầy tế
lễ cả, trưởng lão, và thầy thông giáo nhóm họp tại đó.
54. Phi-e-rơ theo sau Ngài xa xa, cho đến nơi sân trong của thầy cả thượng phẩm;
rồi ngồi với quân lính gần đống lửa mà sưởi.
55. Vả, các thầy tế lễ cả, cùng cả tòa công luận đều tìm chứng gì để nghịch cùng
Ðức Chúa Jêsus đặng giết Ngài, song không kiếm được chi hết.
56. Vì có nhiều kẻ làm chứng dối nghịch cùng Ngài; nhưng lời họ khai chẳng hiệp
nhau.
57. Bấy giờ có mấy người đứng lên làm chứng dối nghịch cùng Ngài rằng:
58. Chúng tôi có nghe người nói: Ta sẽ phá đền thờ nầy bởi tay người ta cất lên,
khỏi ba ngày, ta sẽ cất một đền thờ khác không phải bởi tay người ta cất.
59. Song về điều nầy, lời chứng của họ cũng chẳng hiệp nhau nữa.
60. Khi ấy, thầy cả thượng phẩm đứng dậy giữa hội đồng, tra hỏi Ðức Chúa Jêsus
mà rằng: Ngươi chẳng đối đáp chi hết về những điều các kẻ nầy cáo ngươi sao?
61. Nhưng Ðức Chúa Jêsus làm thinh, không trả lời chi hết. Thầy cả thượng phẩm
lại hỏi: Ấy chính ngươi là Ðấng Christ, Con Ðức Chúa Trời đáng ngợi khen phải
không?
62. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ta chính phải đó; các ngươi sẽ thấy Con người ngồi
bên hữu quyền phép Ðức Chúa Trời, và ngự giữa đám mây trên trời mà đến.
63. Bấy giờ thầy cả thượng phẩm xé áo mình ra mà rằng: Chúng ta có cần kiếm
chứng cớ khác nữa làm chi?
64. Các ngươi có nghe lời lộng ngôn chăng? Các ngươi nghĩ thế nào: Ai nấy đều
đoán Ngài đáng chết.
65. Có kẻ nhổ trên Ngài, đậy mặt Ngài lại, đấm Ngài, và nói với Ngài rằng: Hãy
nói tiên tri đi! Các lính canh lấy gậy đánh Ngài.
66. Phi-e-rơ đương ở dưới nơi sân, có một đầy tớ gái của thầy cả thượng phẩm
đến,
67. thấy Phi-e-rơ đương sưởi, ngó người mà rằng: ngươi trước cũng ở với Jêsus
Na-xa-rét!
68. Nhưng người chối rằng: Ta không biết, ta không hiểu ngươi nói chi. Ðoạn,
người bước ra tiền đàng, thì gà gáy.
69. Ðầy tớ gái đó thấy người, lại nói cùng những người ở đó rằng: Người nầy cũng
là bọn đó.
70. Nhưng người lại chối một lần nữa. Khỏi một chặp, những kẻ đứng đó nói cùng
Phi-e-rơ rằng: Chắc thật, ngươi cũng là bọn đó, vì ngươi là người Ga-li-lê.
71. Người bèn rủa mà thề rằng: Ta chẳng hề quen biết với người mà các ngươi nói
đó!
72. Tức thì gà gáy lần thứ hai; Phi-e-rơ bèn nhớ lại lời Ðức Chúa Jêsus đã phán
rằng: Trước khi gà gáy hai lượt, ngươi sẽ chối ta ba lần. Người tưởng đến thì
khóc.
Mác 15 chọn
đoạn khác
1. Vừa lúc ban mai, các thầy tế lễ cả bàn luận với các trưởng lão, các thầy
thông giáo cùng cả tòa công luận; khi đã trói Ðức Chúa Jêsus rồi, thì giải nộp
cho Phi-lát.
2. Phi-lát hỏi Ngài rằng: Ấy chính ngươi là Vua dân Giu-đa phải không? Ðức Chúa
Jêsus đáp rằng: Thật như lời.
3. Các thầy tế lễ cả cáo Ngài nhiều điều.
4. Phi-lát lại tra gạn Ngài, mà rằng: Ngươi chẳng đối đáp chi hết sao? Hãy coi
họ cáo tội ngươi biết bao nhiêu!
5. Nhưng Ðức Chúa Jêsus chẳng trả lời chi nữa, nên mỗi Phi-lát lấy làm lạ.
6. Vả, hễ đến ngày lễ Vượt Qua, quan vốn quen thói tha cho dân một tên tù, tùy
theo dân xin.
7. Bấy giờ có một đứa tên là Ba-ra-ba bị tù với kẻ làm loạn, vì trong khi nổi
loạn, chúng nó phạm tội giết người.
8. Ðoàn dân đã lên, bèn xin Phi-lát làm cho mình theo như lệ thường.
9. Phi-lát trả lời rằng: Các ngươi muốn ta tha Vua dân Giu-đa cho chăng?
10. Vì người biết rõ các thầy tế lễ cả đã nộp Ngài bởi lòng ghen ghét.
11. Nhưng các thầy tế lễ cả xui dân xin người tha tên Ba-ra-ba cho mình thì hơn.
12. Phi-lát lại cất tiếng hỏi rằng: Vậy thì các ngươi muốn ta dùng cách nào xử
người mà các ngươi gọi là Vua dân Giu-đa?
13. Chúng lại kêu lên rằng: Hãy đóng đinh nó vào thập tự giá!
14. Phi-lát nói cùng chúng rằng: Song người nầy đã làm điều ác gì? Chúng lại kêu
lớn tiếng hơn rằng: Hãy đóng đinh nó vào thập tự giá!
15. Phi-lát muốn cho đẹp lòng dân, bèn tha tên Ba-ra-ba; và sai đánh đòn Ðức
Chúa Jêsus, rồi giao Ngài cho chúng đem đóng đinh trên cây thập tự.
16. Lính điệu Ðức Chúa Jêsus vào sân trong, tức là trong chỗ trường án; và nhóm
cả cơ binh lại đó.
17. Họ choàng cho Ngài một cái áo điều, và đội trên đầu Ngài một cái mão bằng
gai họ đã đương,
18. rồi chào Ngài rằng: Kính lạy Vua dân Giu-đa!
19. Lại lấy cây sậy đánh đầu Ngài, nhổ trên Ngài, và quì xuống trước mặt Ngài mà
lạy.
20. Khi họ đã nhạo cười Ngài như vậy rồi, thì cổi áo điều ra, mặc áo của Ngài
lại cho Ngài, và đem ra để đóng đinh trên cây thập tự.
21. Có một tên Si-môn kia, người thành Sy-ren, là cha A-léc-xan-đơ và Ru-phu, ở
ngoài ruộng về, đi ngang qua đó; họ bắt phải vác cây thập tự.
22. Họ đem Ðức Chúa Jêsus đến nơi kia, gọi là Gô-gô-tha, nghĩa là chỗ Sọ.
23. Họ cho Ngài uống rượu hòa với một dược; song Ngài không uống.
24. Khi đóng đinh Ngài trên cây thập tự rồi, họ chia áo xống Ngài cho nhau, bắt
thăm để biết ai được gì.
25. Lúc đóng đinh Ngài, là giờ thứ ba.
26. Án Ngài có ghi vào cái bảng rằng: Vua dân Giu-đa.
27. Cũng có hai đứa ăn cướp bị đóng đinh với Ngài, một đứa tại cây thập tự bên
hữu Ngài, một đứa tại cây thập tự bên tả.
28. Như vậy được ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: Ngài đã bị kể vào hàng kẻ dữ.
29. Những kẻ đi ngang qua đó chế báng Ngài, lắc đầu mà nói rằng: Ê! ngươi là kẻ
phá đền thờ, và cất lại trong ba ngày,
30. hãy cứu lấy mình, xuống khỏi cây thập tự đi!
31. Các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo cũng nói với nhau như vậy, mà nhạo
cười Ngài rằng: Hắn đã cứu kẻ khác; mà cứu mình không được!
32. Hỡi Ðấng Christ, Vua dân Y-sơ-ra-ên, bây giờ hãy xuống khỏi cây thập tự, để
cho chúng ta thấy và tin! Hai đứa bị đóng đinh cùng Ngài cũng nhiếc móc Ngài
nữa.
33. Ðến giờ thứ sáu, khắp đất đều tối tăm mù mịt cho tới giờ thứ chín.
34. Ðến giờ thứ chín, Ðức Chúa Jêsus kêu lớn tiếng rằng: Ê-lô-i, Ê-lô-i,
lam-ma-sa-bách-ta-ni? nghĩa là: Ðức Chúa Trời tôi ơi, Ðức Chúa Trời tôi ơi, sao
Ngài lìa bỏ tôi?
35. Có mấy người đứng đó nghe vậy, thì nói rằng: Coi kìa, hắn kêu Ê-li.
36. Có một người trong bọn họ chạy lấy bông đá thấm đầy giấm, để trên đầu cây
sậy, đưa cho Ngài uống, mà nói rằng: Hãy để, chúng ta coi thử Ê-li có đến đem
hắn xuống chăng!
37. Nhưng Ðức Chúa Jêsus kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.
38. Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên chí dưới.
39. Thầy đội đứng đối ngang Ngài, thấy Ngài trút linh hồn như vậy, thì nói rằng:
Người nầy quả thật là Con Ðức Chúa Trời.
40. Lại có những đờn bà đứng xa xa mà xem. Trong số ấy có Ma-ri, Ma-đơ-len,
Ma-ri là mẹ Gia-cơ nhỏ, và Giô-sê, cùng Sa-lô-mê,
41. là ba người đã theo hầu việc Ngài khi Ngài ở xứ Ga-li-lê; cũng có nhiều đờn
bà khác nữa, là những người đã theo Ngài lên thành Giê-ru-sa-lem.
42. Bấy giờ là ngày sắm sửa, nghĩa là hôm trước ngày Sa-bát; khi đã chiều tối,
43. có một người tên là Giô-sép, Ở thành A-ri-ma-thê, là nghị viên tòa công luận
có danh vọng, cũng trông đợi nước Ðức Chúa Trời. Người bạo gan đến Phi-lát mà
xin xác Ðức Chúa Jêsus.
44. Phi-lát lấy làm lạ về Ngài chết mau như vậy, bèn đòi thầy đội đến mà hỏi thử
Ngài chết đã lâu chưa.
45. Vừa nghe tin thầy đội trình, thì giao xác cho Giô-sép.
46. Người đã mua vải liệm, cất xác Ðức Chúa Jêsus xuống khỏi cây thập tự, dùng
vải liệm vấn lấy Ngài, rồi để xác trong huyệt đã đục trong hòn đá lớn, đoạn, lăn
một hòn đá chận cửa huyệt lại.
47. Vả, Ma-ri Ma-đơ-len cùng Ma-ri mẹ Giô-sê, đều thấy chỗ táng Ngài.
Mác 16 chọn
đoạn khác
1. Ngày Sa-bát qua rồi, Ma-ri ma-đơ-len, Ma-ri mẹ Gia-cơ, cùng Sa-lô-mê mua
thuốc thơm đặng đi xức xác Ðức Chúa Jêsus.
2. Ngày thứ nhứt trong tuần lễ, sáng sớm, mặt trời mới mọc, ba người đến nơi mộ,
3. nói cùng nhau rằng: Ai sẽ lăn hòn đá lấp cửa mộ ra cho chúng ta?
4. Khi ngó xem, thấy hòn đá đã lăn ra rồi; vả, hòn đá lớn lắm.
5. Ðoạn, họ vào nơi mộ, thấy một người trẻ tuổi ngồi bên hữu, mặc áo dài trắng,
thì thất kinh.
6. Song người nói cùng họ rằng: Ðừng sợ chi, các ngươi tìm Ðức Chúa Jêsus
Na-xa-rét, là Ðấng đã chịu đóng đinh; Ngài sống lại rồi, chẳng còn ở đây; hãy
xem nơi đã táng xác Ngài.
7. Nhưng hãy đi nói cho các môn đồ Ngài và cho Phi-e-rơ rằng: Ngài đi đến xứ
Ga-li-lê trước các ngươi; các ngươi sẽ thấy Ngài tại đó, như Ngài đã phán cùng
các ngươi vậy.
8. Các bà ấy ra khỏi mồ, trốn đi, vì run sợ sửng sốt; chẳng dám nói cùng ai hết,
bởi kinh khiếp lắm.
9. Vả, Ðức Chúa Jêsus đã sống lại buổi sớm mai ngày thứ nhứt trong tuần lễ, thì
trước hết hiện ra cho Ma-ri Ma-đơ-len, là người mà Ngài đã trừ cho khỏi bảy quỉ
dữ.
10. Người đi đem tin cho những kẻ theo Ngài khi trước, và nay đang tang chế khóc
lóc.
11. Nhưng các người ấy vừa nghe nói Ngài sống, và người từng thấy Ngài, thì
không tin.
12. Kế đó, Ðức Chúa Jêsus lấy hình khác hiện ra cho hai người trong bọn môn đồ
đang đi đường về nhà quê.
13. Hai người nầy đi báo tin cho các môn đồ khác, nhưng ai nấy cũng không tin.
14. Sau nữa, Ngài hiện ra cho mười một sứ đồ đang khi ngồi ăn, mà quở trách về
sự không tin và lòng cứng cỏi, vì chẳng tin những kẻ từng thấy Ngài đã sống lại.
15. Ngài phán cùng các sứ đồ rằng: Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin Lành cho mọi
người.
16. Ai tin và chịu phép báp-tem, sẽ được rỗi; nhưng ai chẳng tin, sẽ bị đoán
phạt.
17. Vậy những kẻ tin sẽ được các dấu lạ nầy: lấy danh ta mà trừ quỉ; dùng tiếng
mới mà nói;
18. bắt rắn trong tay; nếu uống giống chi độc, cũng chẳng hại gì; hễ đặt tay
trên kẻ đau, thì kẻ đau sẽ lành.
19. Ðức Chúa Jêsus phán như vậy rồi, thì được đem lên trời, ngồi bên hữu Ðức
Chúa Trời.
20. Về phần các môn đồ, thì đi ra giảng đạo khắp mọi nơi, Chúa cùng làm với môn
đồ, và lấy các phép lạ cặp theo lời giảng mà làm cho vững đạo.