[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21]
Giăng 1 chọn
đoạn khác
1. Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Ðức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Ðức Chúa
Trời.
2. Ban đầu Ngài ở cùng Ðức Chúa Trời.
3. Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.
4. Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người.
5. Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng.
6. Có một người Ðức Chúa Trời sai đến, tên là Giăng.
7. Người đến để làm chứng về sự sáng, hầu cho bởi người ai nấy đều tin.
8. Chính người chẳng phải là sự sáng, song người phải làm chứng về sự sáng.
9. Sự sáng nầy là sự sáng thật, khi đến thế gian soi sáng mọi người.
10. Ngôi Lời ở thế gian, và thế gian đã làm nên bởi Ngài; nhưng thế gian chẳng
từng nhìn biết Ngài.
11. Ngài đã đến trong xứ mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy.
12. Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Ðức
Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài,
13. là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người,
nhưng sanh bởi Ðức Chúa Trời vậy.
14. Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta
đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi
Cha.
15. Giăng làm chứng về Ngài khi kêu lên rằng: Ấy là về Ngài mà ta đã nói: Ðấng
đến sau ta trổi hơn ta, vì Ngài vốn trước ta.
16. Vả, bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều có nhận được, và ơn càng thêm ơn.
17. Vì luật pháp đã ban cho Môi-se, còn ơn và lẽ thật bởi Ðức Chúa Jêsus Christ
mà đến.
18. Chẳng hề ai thấy Ðức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Ðấng đã
giải bày Cha cho chúng ta biết.
19. Nầy là lời chứng của Giăng, khi dân Giu-đa sai mấy thầy tế lễ, mấy người Lê-vi
từ thành Giê-ru-sa-lem đến hỏi người rằng: Ông là ai?
20. Người xưng ra, chẳng chối chi hết, xưng rằng mình không phải là Ðấng Christ.
21. Họ lại hỏi: Vậy thì ông là ai? phải là Ê-li chăng? Người trả lời: Không phải.
Ông phải là đấng tiên tri chăng: Người trả lời: Không phải.
22. Họ bèn nói: Vậy thì ông là ai? hầu cho chúng tôi trả lời cùng những người đã
sai chúng tôi đến. Ông tự xưng mình là ai:
23. Người trả lời: Ta là tiếng của người kêu trong đồng vắng rằng: Hãy ban đường
của Chúa cho bằng, như đấng tiên tri Ê-sai đã nói.
24. Những kẻ chịu sai đến cùng Giăng đều là người Pha-ra-si.
25. Họ lại hỏi rằng: Nếu ông chẳng phải Ðấng Christ, chẳng phải Ê-li, chẳng phải
đấng tiên tri, thì cớ sao ông làm phép báp tem?
26. Giăng trả lời: Về phần ta, ta làm phép báp tem bằng nước; nhưng có một Ðấng
ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết.
27. Ấy là Ðấng đến sau ta, ta chẳng đáng mở dây giày Ngài.
28. Những việc đó đã xảy ra tại thành Bê-tha-ni, bên kia sông Giô-đanh, là nơi
Giăng làm phép báp tem.
29. Qua ngày sau, Giăng thấy Ðức Chúa Jêsus đến cùng mình, thì nói rằng: Kìa,
Chiên con của Ðức Chúa Trời, là Ðấng cất tội lỗi thế gian đi.
30. Ấy về Ðấng đó mà ta đã nói: Có một người đến sau ta, trổi hơn ta, vì người
vốn trước ta.
31. Về phần ta, ta vốn chẳng biết Ngài; nhưng ta đã đến làm phép báp-tem bằng
nước, để Ngài được tỏ ra cho dân Y-sơ-ra-ên.
32. Giăng lại còn làm chứng nầy nữa: Ta đã thấy Thánh Linh từ trời giáng xuống
như chim bò câu, đậu trên mình Ngài.
33. Về phần ta, ta vốn không biết Ngài; nhưng Ðấng sai ta làm phép báp-tem bằng
nước có phán cùng ta rằng: Ðấng mà ngươi sẽ thấy Thánh Linh ngự xuống đậu lên
trên, ấy là Ðấng làm phép báp-tem bằng Ðức Thánh Linh.
34. Ta đã thấy nên ta làm chứng rằng: Ấy chính Ngài là Con Ðức Chúa Trời.
35. Ngày mai, Giăng lại ở đó với hai môn đồ mình;
36. nhìn Ðức Chúa Jêsus đi ngang qua, bèn nói rằng: Kìa, Chiên con của Ðức Chúa
Trời!
37. Hai môn đồ nghe lời đó, bèn đi theo Ðức Chúa Jêsus.
38. Ðức Chúa Jêsus vừa xây lại, thấy hai người đi theo mình, thì phán rằng: Các
ngươi tìm chi? Thưa rằng: Ra-bi (nghĩa là Thầy), Thầy ở đâu?
39. Ngài phán rằng: Hãy đến xem. Vậy, hai người đi, thấy nơi Ngài ở, và ở lại
cùng Ngài trong ngày đó; lúc bấy giờ độ chừng giờ thứ mười.
40. Trong hai người đã nghe điều Giăng nói và đi theo Ðức Chúa Jêsus đó, một là
Anh-rê, em của Si-môn Phi-e-rơ.
41. Trước hết người gặp anh mình là Si-môn, thì nói rằng: Chúng ta đã gặp Ðấng
Mê-si (nghĩa là Ðấng Christ).
42. Người bèn dẫn Si-môn đến cùng Ðức Chúa Jêsus. Ngài vừa ngó thấy Si-môn, liền
phán rằng: Ngươi là Si-môn, con của Giô-na; ngươi sẽ được gọi là Sê-pha (nghĩa
là Phi-e-rơ).
43. Qua ngày sau, Ðức Chúa Jêsus muốn qua xứ Ga-li-lê, tìm Phi-líp, mà phán
rằng: Hãy theo ta.
44. Vả, Phi-líp là người Bết-sai-đa, đồng thành với Anh-rê và Phi-e-rơ.
45. Phi-líp gặp Na-tha-na-ên, nói với người rằng: Chúng ta đã gặp Ðấng mà Môi-se
có chép trong luật pháp, và các đấng tiên tri cũng có nói đến; ấy là Ðức Chúa
Jêsus ở Na-xa-rét, con của Giô-sép.
46. Na-tha-na-ên nói rằng: Há có vật gì tốt ra từ Na-xa-rét được sao? Phi-líp
nói: Hãy đến xem.
47. Ðức Chúa Jêsus thấy Na-tha-na-ên đến cùng mình, bèn phán về người rằng: Nầy,
một người Y-sơ-ra-ên thật, trong người không có điều dối trá chi hết.
48. Na-tha-na-ên thưa rằng: Bởi đâu thầy biết tôi? Ðức Chúa Jêsus đáp rằng:
Trước khi Phi-líp gọi ngươi, ta đã thấy ngươi lúc ở dưới cây vả.
49. Na-tha-na-ên lại nói: Lạy thầy, thầy là Con Ðức Chúa Trời, thầy là Vua dân
Y-sơ-ra-ên!
50. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Vì ta đã phán cùng ngươi rằng ta thấy ngươi dưới
cây vả, thì ngươi tin; ngươi sẽ thấy việc lớn hơn điều đó!
51. Ngài lại phán: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các ngươi sẽ thấy
trời mở ra, và thiên sứ của Ðức Chúa Trời lên xuống trên Con người.
Giăng 2 chọn
đoạn khác
1. Cách ba ngày sau, có đám cưới tại thành Ca-na, trong xứ Ga-li-lê, và mẹ Ðức
Chúa Jêsus có tại đó.
2. Ðức Chúa Jêsus cũng được mời đến dự đám với môn đồ Ngài.
3. Vừa khi thiếu rượu, mẹ Ðức Chúa Jêsus nói với Ngài rằng: Người ta không có
rượu nữa.
4. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Hỡi đờn bà kia, ta với ngươi có sự gì chăng? Giờ ta
chưa đến.
5. Mẹ Ngài nói với những kẻ hầu bàn rằng: Người biểu chi, hãy vâng theo cả.
6. Vả, tại đó có sáu cái ché đá, định dùng về sự rửa sạch cho người Giu-đa, mỗi
cái chứa hai ba lường nước.
7. Ðức Chúa Jêsus biểu họ rằng: Hãy đổ nước đầy những ché nầy; thì họ đổ đầy tới
miệng.
8. Ngài bèn phán rằng: Bây giờ nước múc đi, đem cho kẻ coi tiệc. Họ bèn đem cho.
9. Lúc kẻ coi tiệc nếm nước đã biến thành rượu (vả, người không biết rượu nầy
đến bởi đâu, còn những kẻ hầu bàn có múc nước thì biết rõ), bèn gọi chàng rể,
10. mà nói rằng: Mọi người đều đãi rượu ngon trước, sau khi người ta uống nhiều
rồi, thì kế đến rượu vừa vừa. Còn ngươi, ngươi lại giữ rượu ngon đến bây giờ.
11. Ấy là tại Ca-na, trong xứ Ga-li-lê, mà Ðức Chúa Jêsus làm phép lạ thứ nhất,
và tỏ bày sự vinh hiển của mình như vậy; môn đồ bèn tin Ngài.
12. Sau việc đó, Ngài với mẹ, anh em, và môn đồ Ngài đều xuống thành
Ca-bê-na-um; và chỉ ở đó ít ngày thôi.
13. Lễ Vượt Qua của dân Giu-đa hầu đến; Ðức Chúa Jêsus lên thành Giê-ru-sa-lem.
14. Trong đền thờ, Ngài thấy có người buôn bán bò, chiên, bò câu, và có người
đổi bạc dọn hàng ở đó.
15. Ngài bện một cái roi bằng dây, bèn đuổi hết thảy khỏi đền thờ, chiên và bò
nữa; vải tiền người đổi bạc và đổ bàn của họ.
16. Ngài phán cùng kẻ bán bò câu rằng: Hãy cất bỏ đồ đó khỏi đây, đừng làm cho
nhà Cha ta thành ra nhà buôn bán.
17. Môn đồ Ngài bèn nhớ lại lời đã chép rằng: Sự sốt sắng về nhà Chúa tiêu nuốt
tôi.
18. Các người Giu-đa cất tiếng thưa cùng Ngài rằng: Thầy làm như vậy thì cho
chúng tôi xem thấy phép lạ chi?
19. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Hãy phá đền thờ nầy đi, trong ba ngày ta sẽ dựng
lại!
20. Người Giu-đa lại nói: Người ta xây đền thờ nầy mất bốn mươi sáu năm, mà thầy
thì sẽ dựng lại trong ba ngày!
21. Nhưng Ngài nói về đền thờ của thân thể mình.
22. Vậy, sau khi Ngài được từ kẻ chết sống lại rồi, môn đồ gẫm Ngài có nói lời
đó, thì tin Kinh Thánh và lời Ðức Chúa Jêsus đã phán.
23. Ðương lúc Ngài ở thành Giê-ru-sa-lem để giữ lễ Vượt Qua, có nhiều người thấy
phép lạ Ngài làm, thì tin danh Ngài.
24. Nhưng Ðức Chúa Jêsus chẳng phó thác mình cho họ, vì Ngài nhận biết mọi
người,
25. và không cần ai làm chứng về người nào, bởi Ngài tự thấu mọi điều trong lòng
người ta.
Giăng 3 chọn
đoạn khác
1. Trong vòng người Pha-ra-si, có người tên là Ni-cô-đem, là một người trong
những kẻ cai trị dân Giu-đa.
2. Ban đêm, người nầy đến cùng Ðức Chúa Jêsus mà nói rằng: Thưa thầy, chúng tôi
biết thầy là giáo sư từ Ðức Chúa Trời đến; vì những phép lạ thầy đã làm đó, nếu
Ðức Chúa Trời chẳng ở cùng, thì không ai làm được.
3. Ðức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu
một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Ðức Chúa Trời.
4. Ni-cô-đem thưa rằng: Người đã già thì sanh lại làm sao được? Có thể nào trở
vào lòng mẹ và sanh lần thứ hai sao?
5. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người
chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Ðức Chúa Trời.
6. Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt; hễ chi sanh bởi Thánh Linh là thần.
7. Chớ lấy làm lạ về điều ta đã nói với ngươi: Các ngươi phải sanh lại.
8. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng động; nhưng chẳng biết gió đến
từ đâu và cũng không biết đi đâu. Hễ người nào sanh bởi Thánh Linh thì cũng như
vậy.
9. Ni-cô-đem lại nói: Ðiều đó làm thể nào được?
10. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ngươi là giáo sư của dân Y-sơ-ra-ên, mà không hiểu
biết những điều đó sao!
11. Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, chúng ta nói điều mình biết, làm
chứng điều mình đã thấy; còn các ngươi chẳng hề nhận lấy lời chứng của chúng ta.
12. Ví bằng ta nói với các ngươi những việc thuộc về đất, các ngươi còn chẳng
tin thay; huống chi ta nói những việc thuộc về trời, thì các ngươi tin sao được?
13. Chưa hề có ai lên trời, trừ ra Ðấng từ trời xuống, ấy là Con người vốn ở
trên trời.
14. Xưa Môi-se treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con người cũng phải
bị treo lên dường ấy,
15. hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời.
16. Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu
cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.
17. Vả, Ðức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian, chẳng phải để đoán xét thế
gian đâu, nhưng hầu cho thế gian nhờ Con ấy mà được cứu.
18. Ai tin Ngài thì chẳng bị đoán xét đâu; ai không tin thì đã bị đoán xét rồi,
vì không tin đến danh Con một Ðức Chúa Trời.
19. Vả, sự đoán xét đó là như vầy: sự sáng đã đến thế gian, mà người ta ưa sự
tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm của họ là xấu xa.
20. Bởi vì phàm ai làm ác thì ghét sự sáng và không đến cùng sự sáng, e rằng
công việc của mình phải trách móc chăng.
21. Nhưng kẻ nào làm theo lẽ thật thì đến cùng sự sáng, hầu cho các việc của
mình được bày tỏ ra, vì đã làm trong Ðức Chúa Trời.
22. Kế đó, Ðức Chúa Jêsus đi với môn đồ đến đất Giu-đê; Ngài ở với môn đồ tại
đó, và làm phép báp tem.
23. Giăng cũng làm phép báp tem tại Ê-nôn, gần Sa-lim, vì ở đó có nhiều nước, và
người ta đến đặng chịu phép báp tem.
24. Bấy giờ Giăng chưa bị bỏ vào ngục.
25. Vả, môn đồ của Giăng có cãi lẫy với một người Giu-đa về lễ tinh sạch.
26. Họ đến cùng Giăng và nói rằng: Thưa thầy, kìa, người ở cùng thầy bên kia
sông Giô-đanh, mà thầy đã làm chứng cho, bây giờ đương làm phép báp tem, và ai
nấy đều đến cùng người.
27. Giăng trả lời rằng: Ví chẳng từ trên trời ban cho, thì không một người nào
có thể lãnh chi được.
28. Chính các ngươi làm chứng cho ta rằng ta đã nói: Ấy không phải ta là Ðấng
Christ, nhưng ta đã được sai đến trước Ngài.
29. Ai mới cưới vợ, nấy là chàng rể, nhưng bạn của chàng rể đứng gần và nghe
người, khi nghe tiếng của chàng rể thì rất đỗi vui mừng; ấy là sự vui mừng trọn
vẹn của ta đó.
30. Ngài phải dấy lên, ta phải hạ xuống.
31. Ðấng từ trên cao đến là trên hết mọi loài. Kẻ từ đất đến là thuộc về đất, và
nói ra cũng như là thuộc về đất; còn Ðấng từ trời đến thì trên hết mọi loài.
32. Ngài làm chứng về điều Ngài đã thấy và nghe; song không có ai nhận lấy lời
chứng của Ngài.
33. Ai đã nhận lấy lời chứng của Ngài thì làm chứng chắc rằng Ðức Chúa Trời là
thật.
34. Vì Ðấng mà Ðức Chúa Trời đã sai đến thì rao truyền lời Ðức Chúa Trời, bởi
Ðức Chúa Trời ban Thánh Linh cho Ngài không chừng mực.
35. Cha yêu Con, và đã giao hết mọi vật trong tay Con.
36. Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy
sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Ðức Chúa Trời vẫn ở trên người đó.
Giăng 4 chọn
đoạn khác
1. Khi Chúa đã hay rằng người Pha-ra-si có nghe đồn Ngài gọi và làm phép báp tem
được nhiều môn đồ hơn Giăng,
2. (kỳ thiệt không phải chính Ðức Chúa Jêsus làm phép báp tem, nhưng là môn đồ
Ngài),
3. thì Ngài lìa xứ Giu-đê trở về xứ Ga-li-lê.
4. Vả, Ngài phải đi ngang qua xứ Sa-ma-ri.
5. Vậy Ngài đến một thành thuộc về xứ Sa-ma-ri, gọi là Si-kha, gần đồng ruộng mà
Gia-cốp cho Giô-sép là con mình.
6. Tại đó có cái giếng Gia-cốp. Nhơn đi đàng mỏi mệt, Ðức Chúa Jêsus ngồi gần
bên giếng; bấy giờ độ chừng giờ thứ sáu.
7. Một người đờn bà Sa-ma-ri đến múc nước. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy cho ta
uống.
8. Vì môn đồ Ngài đã đi ra phố đặng mua đồ ăn.
9. Người đờn bà Sa-ma-ri thưa rằng: Ủi kìa! ông là người Giu-đa, mà lại xin uống
nước cùng tôi, là một người đờn bà Sa-ma-ri sao? (Số là, dân Giu-đa chẳng hề
giao thiệp với dân Sa-ma-ri.)
10. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ví bằng ngươi biết sự ban cho của Ðức Chúa Trời, và
biết người nói: "Hãy cho ta uống" là ai, thì chắc ngươi sẽ xin người cho uống,
và người sẽ cho ngươi nước sống.
11. Người đờn bà thưa: Hỡi Chúa, Chúa không có gì mà múc, và giếng thì sâu, vậy
bởi đâu có nước sống ấy?
12. Tổ phụ chúng tôi là Gia-cốp để giếng nầy lại cho chúng tôi, chính người uống
giếng nầy, cả đến con cháu cùng các bầy vật người nữa, vậy Chúa há lớn hơn
Gia-cốp sao?
13. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi;
14. nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một
mạch nước trong người đó văng ra cho đến sự sống đời đời.
15. Người đờn bà thưa: Lạy Chúa, xin cho tôi nước ấy, để cho tôi không khát và
không đến đây múc nước nữa.
16. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại đây.
17. Người đờn bà thưa rằng: Tôi không có chồng. Ðức Chúa Jêsus lại phán: Ngươi
nói rằng: Tôi không có chồng, là phải lắm;
18. vì ngươi đã có năm đời chồng, còn người mà ngươi hiện có, chẳng phải là
chồng ngươi; điều đó ngươi đã nói thật vậy.
19. Người đờn bà thưa rằng: Lạy Chúa, tôi nhìn thấy Chúa là một đấng tiên tri.
20. Tổ phụ chúng tôi đã thờ lạy trên hòn núi nầy; còn dân Giu-đa lại nói rằng
nơi đáng thờ lạy là tại thành Giê-ru-sa-lem.
21. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi người đờn bà, hãy tin ta, giờ đến, khi các
ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy, cũng chẳng tại thành
Giê-ru-sa-lem.
22. Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà
đến.
23. Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần
và lẽ thật mà thờ phượng Cha: ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy.
24. Ðức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật
mà thờ lạy.
25. Người đờn bà thưa: Tôi biết rằng Ðấng Mê-si (nghĩa là Ðấng Christ) phải đến;
khi Ngài đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta.
26. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Ðấng
đó.
27. Khi đó, môn đồ tới, đều sững sờ về Ngài nói với một người đờn bà; nhưng
chẳng ai hỏi rằng: Thầy hỏi người ấy điều chi? hay là: Sao thầy nói với người?
28. Người đờn bà bèn bỏ cái vò nước của mình lại và vào thành, nói với người tại
đó rằng:
29. Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm; ấy chẳng phải là Ðấng
Christ sao?
30. Chúng bèn từ trong thành ra và đến cùng Ðức Chúa Jêsus.
31. Song le, môn đồ nài nỉ một bên Ngài mà rằng: Thưa thầy, xin hãy ăn.
32. Ngài đáp rằng: Ta có một thứ lương thực để nuôi mình mà các ngươi không
biết.
33. Vậy môn đồ nói với nhau rằng: Có ai đã đem chi cho thầy ăn chăng?
34. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ðồ ăn của ta tức là làm theo ý muốn của Ðấng sai
ta đến, và làm trọn công việc Ngài.
35. Các ngươi há chẳng nói rằng còn bốn tháng nữa thì tới mùa gặt sao? Song ta
nói với các ngươi: Hãy nhướng mắt lên và xem đồng ruộng, đã vàng sẵn cho mùa
gặt.
36. Con gặt đã lãnh tiền công mình và thâu chứa hoa lợi cho sự sống đời đời, hầu
cho người gieo giống và con gặt được cùng nhau vui vẻ.
37. Vì đây người ta có thể nói rằng: Người nầy thì gieo, người kia thì gặt, là
rất phải.
38. Ta đã sai các ngươi gặt nơi mình không làm; kẻ khác đã làm, còn các ngươi
thì đã vào tiếp lấy công lao của họ.
39. Có nhiều người Sa-ma-ri ở thành đó tin Ngài, vì cứ lời đờn bà đã làm chứng
về Ngài mà rằng: Ngài đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm.
40. Vậy, các người Sa-ma-ri đã đến cùng Ngài, xin Ngài vào trọ nơi mình; Ngài
bèn ở lại đó hai ngày.
41. Khi đã nghe lời Ngài rồi, người tin Ngài càng đông hơn nữa.
42. Họ nói với người đờn bà rằng: Ấy không còn phải vì điều ngươi đã nói với
chúng ta mà chúng ta tin đâu; vì chính chúng ta đã nghe Ngài, và biết rằng chính
Ngài thật là Cứu Chúa của thế gian.
43. Khỏi hai ngày ấy, Ðức Chúa Jêsus từ đó đi qua xứ Ga-li-lê
44. (vì chính Ngài đã phán rằng một người tiên tri chẳng bao giờ được tôn kính
trong quê hương mình).
45. Khi đã đến xứ Ga-li-lê, Ngài được dân xứ ấy tiếp rước tử tế, bởi dân đó đã
thấy mọi điều Ngài làm tại thành Giê-ru-sa-lem trong ngày lễ; vì họ cũng có đi
dự lễ.
46. Vậy, Ngài lại đến thành Ca-na, trong xứ Ga-li-lê, là nơi Ngài đã hóa nước
thành rượu. Nguyên ở tại thành Ca-bê-na-um, có một quan thị vệ kia, con trai
người mắc bịnh.
47. Quan đó nghe Ðức Chúa Jêsus đã từ xứ Giu-đê đến xứ Ga-li-lê, bèn tìm đến và
xin Ngài xuống đặng chữa cho con mình gần chết.
48. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Nếu các ngươi không thấy phép lạ và điềm lạ, thì
các ngươi chẳng tin!
49. Quan thị vệ trả lời rằng: Lạy Chúa, xin Chúa xuống trước khi con tôi chưa
chết!
50. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, con của ngươi sống. Người đó tin lời Ðức
Chúa Jêsus đã phán cho mình, bèn đi.
51. Người đang đi dọc đàng, các đầy tớ người đến đón mà rằng: Con trai chủ sống.
52. Người bèn hỏi họ con trai mình đã thấy khá nhằm giờ nào. Họ trả lời rằng:
bữa qua, hồi giờ thứ bảy, cơn rét lui khỏi.
53. Người cha nhận biết rằng ấy là chính giờ đó Ðức Chúa Jêsus đã phán cùng mình
rằng: Con của ngươi sống; thì người với cả nhà đều tin.
54. Ấy là phép lạ thứ hai mà Ðức Chúa Jêsus đã làm, khi Ngài từ xứ Giu-đê trở về
xứ Ga-li-lê.
Giăng 5 chọn
đoạn khác
1. Kế đó, có một ngày lễ của dân Giu-đa, Ðức Chúa Jêsus lên thành Giê-ru-sa-lem.
2. Số là, tại thành Giê-ru-sa-lem, gần cửa Chiên, có một cái ao, tiếng Hê-bơ-rơ
gọi là Bê-tết-đa, xung quanh ao có năm cái vòm cửa.
3. Những kẻ đau ốm, mù quáng, tàn tật, bại xuội nằm tại đó rất đông, chờ khi
nước động;
4. vì một thiên sứ thỉnh thoảng giáng xuống trong ao, làm cho nước động; lúc
nước đã động rồi, ai xuống ao trước hết, bất kỳ mắc bịnh gì, cũng được lành.
5. Nơi đó, có một người bị bịnh đã được ba mươi tám năm.
6. Ðức Chúa Jêsus thấy người nằm, biết rằng đau đã lâu ngày thì phán: Ngươi có
muốn lành chăng?
7. Người bịnh thưa rằng: Lạy Chúa, tôi chẳng có ai để quăng tôi xuống ao trong
khi nước động; lúc tôi đi đến, thì kẻ khác đã xuống ao trước tôi rồi.
8. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đứng dậy, vác giường ngươi và đi.
9. Tức thì người ấy được lành, vác giường mình và đi. Vả, bấy giờ là ngày
Sa-bát.
10. Các người Giu-đa bèn nói với kẻ được chữa lành rằng: Nay là ngày Sa-bát,
ngươi không phép mang giường mình đi.
11. Người trả lời rằng: Chính người đã chữa tôi được lành biểu tôi rằng: Hãy vác
giường ngươi và đi.
12. Họ hỏi rằng: Người đã biểu ngươi: Hãy vác giường và đi, là ai?
13. Nhưng người đã được chữa lành không biết là ai: vì Ðức Chúa Jêsus đã lẫn
trong đám đông tại chỗ đó.
14. Sau lại, Ðức Chúa Jêsus gặp người đó trong đền thờ, bèn phán rằng: Kìa,
ngươi đã lành rồi, đừng phạm tội nữa, e có sự gì càng xấu xa xảy đến cho ngươi
chăng.
15. Người đó đi nói với các người Giu-đa rằng ấy là Ðức Chúa Jêsus đã chữa lành
cho mình.
16. Nhơn đó dân Giu-đa bắt bớ Ðức Chúa Jêsus, vì cớ Ngài làm những sự ấy trong
ngày Sa-bát.
17. Nhưng Ngài phán cùng họ rằng: Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta đây cũng
làm việc như vậy.
18. Bởi cớ đó, dân Giu-đa càng kiếm cách nữa để giết Ngài, chẳng những vì Ngài
phạm ngày Sa-bát thôi, mà lại vì Ngài gọi Ðức Chúa Trời là Thân phụ mình, làm ra
mình bằng Ðức Chúa Trời.
19. Vậy, Ðức Chúa Jêsus cất tiếng phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói
cùng các ngươi, Con chẳng tự mình làm việc gì được; chỉ làm điều chi mà Con thấy
Cha làm; vì mọi điều Cha làm, Con cũng làm y như vậy.
20. Cha yêu Con và tỏ cho Con công việc lớn lao hơn những việc nầy nữa, để các
ngươi lấy làm lạ lùng.
21. Vả, Cha khiến những kẻ chết sống lại và ban sự sống cho họ thể nào, thì Con
cũng ban sự sống cho kẻ Con muốn thể ấy.
22. Cha cũng chẳng xét đoán ai hết, nhưng đã giao trọn quyền phán xét cho Con,
23. đặng ai nấy đều tôn kính Con, cũng như tôn kính Cha vậy. Ai không tôn kính
Con, ấy là không tôn kính Cha, là Ðấng đã sai Con đến.
24. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời ta mà tin Ðấng đã sai
ta, thì được sự sống đời đời, và không đến sự phán xét, song vượt khỏi sự chết
mà đến sự sống.
25. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, giờ đến, và đã đến rồi, khi những
kẻ chết sẽ nghe tiếng của Con Ðức Chúa Trời, và những kẻ nghe sẽ được sống.
26. Vì như Cha có sự sống trong mình, thì Cha cũng đã ban cho Con có sự sống
trong mình vậy.
27. Cha đã ban quyền thi hành sự phán xét cho Con, vì là Con người.
28. Chớ lấy điều đó làm lạ; vì giờ đến, khi mọi người ở trong mồ mả nghe tiếng
Ngài và ra khỏi:
29. ai đã làm lành thì sống lại để được sống, ai đã làm dữ thì sống lại để bị
xét đoán.
30. Ta không thể tự mình làm nổi việc gì; ta xét đoán theo điều ta nghe, và sự
xét đoán ta là công bình, vì ta chẳng tìm ý muốn của ta, nhưng tìm ý muốn của
Ðấng đã sai ta.
31. Nếu ta tự mình làm chứng lấy, thì sự làm chứng ấy không đáng tin.
32. Có người khác làm chứng cho ta, và ta biết rằng chứng người đó làm cho ta là
đáng tin.
33. Các ngươi có sai sứ đến cùng Giăng, thì người đã làm chứng cho lẽ thật.
34. Còn ta, lời chứng mà ta nhận lấy chẳng phải bởi người ta; nhưng ta nói vậy,
đặng các ngươi được cứu.
35. Giăng là đuốc đã thắp và sáng, các ngươi bằng lòng vui tạm nơi ánh sáng của
người.
36. Nhưng ta có một chứng lớn hơn chứng của Giăng; vì các việc Cha đã giao cho
ta làm trọn, tức là các việc ta làm đó, làm chứng cho ta rằng Cha đã sai ta.
37. Chính Cha, là Ðấng đã sai ta, cũng làm chứng về ta. Các ngươi chưa hề nghe
tiếng Ngài, chưa hề thấy mặt Ngài,
38. và đạo Ngài không ở trong các ngươi, vì các ngươi không tin Ðấng mà Ngài đã
sai đến.
39. Các ngươi dò xem Kinh Thánh, vì tưởng bởi đó được sự sống đời đời: ấy là
Kinh Thánh làm chứng về ta vậy.
40. Các ngươi không muốn đến cùng ta để được sự sống!
41. Ta chẳng cầu vinh hiển bởi người ta mà đến đâu;
42. nhưng ta biết rằng các ngươi chẳng có sự yêu mến Ðức Chúa Trời ở trong các
ngươi.
43. Ta nhơn danh Cha ta mà đến, các ngươi không nhận lấy ta. Nếu có kẻ khác lấy
danh riêng mình mà đến, thì các ngươi sẽ nhận lấy.
44. Các ngươi vẫn chịu vinh hiển lẫn của nhau, không tìm kiếm vinh hiển bởi một
mình Ðức Chúa Trời đến, thì thể nào các ngươi tin được?
45. Chớ ngờ rằng ấy là ta sẽ tố cáo các ngươi trước mặt Cha, người sẽ tố cáo các
ngươi là Môi-se, là người mà các ngươi trông cậy.
46. Vì nếu các ngươi tin Môi-se, cũng sẽ tin ta; bởi ấy là về ta mà người đã
chép.
47. Nhưng nếu các ngươi chẳng tin những lời người chép, các ngươi há lại tin lời
ta sao?
Giăng 6 chọn
đoạn khác
1. Rồi đó, Ðức Chúa Jêsus qua bờ bên kia biển Ga-li-lê, là biển Ti-bê-ri-át.
2. Một đoàn dân đông theo Ngài, vì từng thấy các phép lạ Ngài làm cho những kẻ
bịnh.
3. Nhưng Ðức Chúa Jêsus lên trên núi, ngồi đó với môn đồ.
4. Vả, lễ Vượt Qua, là lễ của dân Giu-đa gần tới.
5. Ðức Chúa Jêsus ngước mắt lên, thấy một đoàn dân đông đến cùng mình, bèn phán
với Phi-líp rằng: Chúng ta sẽ mua bánh ở đâu, để cho dân nầy có mà ăn?
6. Ngài phán điều đó đặng thử Phi-líp, chớ Ngài đã biết điều Ngài sẽ làm rồi.
7. Phi-líp thưa rằng: Hai trăm đơ-ni-ê bánh không đủ phát cho mỗi người một ít.
8. Một môn đồ, là Anh-rê, em của Si-môn Phi-e-rơ, thưa rằng:
9. Ðây có một đứa con trai, có năm cái bánh mạch nha và hai con cá; nhưng đông
người dường nầy, thì ngần ấy có thấm vào đâu?
10. Ðức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Hãy truyền cho chúng ngồi xuống. Vả, trong nơi
đó có nhiều cỏ. Vậy, chúng ngồi xuống, số người ước được năm ngàn.
11. Ðức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn rồi, bèn phân phát cho những kẻ đã ngồi; Ngài
cũng lấy cá phát cho chúng nữa, ai muốn bao nhiêu mặc ý.
12. Khi chúng đã ăn được no nê, Ngài phán với môn đồ rằng: Hãy lượm những miếng
còn thừa, hầu cho không mất chút nào.
13. Vậy, môn đồ lượm những miếng thừa của năm cái bánh mạch nha, sau khi người
ta đã ăn rồi, chứa đầy mười hai giỏ.
14. Những người đó thấy phép lạ Ðức Chúa Jêsus đã làm, thì nói rằng: Người nầy
thật là Ðấng tiên tri phải đến thế gian.
15. Bấy giờ Ðức Chúa Jêsus biết chúng có ý đến ép Ngài để tôn làm vua, bèn lui ở
một mình trên núi.
16. Ðến chiều, môn đồ xuống nơi bờ biển,
17. và vào trong một chiếc thuyền, sang thẳng bờ bên kia, hướng về thành
Ca-bê-na-um. Trời chợt tối, mà Ðức Chúa Jêsus còn chưa đến cùng các môn đồ.
18. Gió thổi ào ào, đến nỗi biển động dữ dội.
19. Khi các môn đồ đã chèo ra độ chừng hai mươi lăm hay là ba mươi ếch-ta-đơ,
thấy Ðức Chúa Jêsus đi trên mặt biển, gần tới chiếc thuyền, thì sợ hãi.
20. Nhưng Ngài phán rằng: Ấy là ta đây, đừng sợ chi!
21. Bấy giờ, môn đồ muốn rước Ngài vào thuyền; tức thì chiếc thuyền đậu vào bờ,
là nơi định đi.
22. Ðoàn dân ở bờ biển bên kia, đã nhận rằng ở đó chỉ có một chiếc thuyền với
môn đồ Ngài, chỉ một mình môn đồ đi mà thôi.
23. Qua ngày sau, có mấy chiếc thuyền khác từ thành Ti-bê-ri-át lại gần nơi
chúng đã ăn bánh khi Chúa tạ ơn rồi,
24. đoàn dân thấy Ðức Chúa Jêsus không ở đó môn đồ cũng không, bèn vào mấy
thuyền kia mà đi qua thành Ca-bê-na-um để tìm Ðức Chúa Jêsus.
25. Chúng vừa tìm được Ngài tại bờ bên kia biển, bèn thưa rằng: Lạy thầy, thầy
đến đây bao giờ?
26. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các
ngươi tìm ta chẳng phải vì đã thấy mấy phép lạ, nhưng vì các ngươi đã ăn bánh và
được no.
27. Hãy làm việc, chớ vì đồ ăn hay hư nát, nhưng vì đồ ăn còn lại đến sự sống
đời đời, là thứ Con người sẽ ban cho các ngươi; vì ấy là Con, mà Cha, tức là
chính Ðức Chúa Trời, đã ghi ấn tín của mình.
28. Chúng thưa rằng: Chúng tôi phải làm chi cho được làm công việc Ðức Chúa
Trời?
29. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Các ngươi tin Ðấng mà Ðức Chúa Trời đã sai đến, ấy
đó là công việc Ngài.
30. Chúng bèn nói rằng: Thế thì thầy làm phép lạ gì, để cho chúng tôi thấy và
tin? Thầy làm công việc gì?
31. Tổ phụ chúng ta đã ăn ma-na trong đồng vắng, theo như lời chép rằng: Ngài đã
ban cho họ ăn bánh từ trên trời xuống.
32. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, Môi-se
chưa hề cho các ngươi bánh từ trên trời đâu; nhưng Cha ta ban cho các ngươi bánh
thật, là bánh từ trên trời xuống.
33. Bởi chưng bánh Ðức Chúa Trời là bánh từ trên trời giáng xuống, ban sự sống
cho thế gian.
34. Chúng thưa rằng: Lạy Chúa, xin ban bánh đó cho chúng tôi luôn luôn!
35. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề
đói, và ai tin ta chẳng hề khát.
36. Nhưng ta đã nói: Các ngươi đã thấy ta, mà chẳng tin.
37. Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta, kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra
ngoài đâu.
38. Vì ta từ trên trời xuống, chẳng phải để làm theo ý ta, nhưng làm theo ý Ðấng
đã sai ta đến.
39. Vả, ý muốn của Ðấng đã sai ta đến là hễ sự gì Ngài đã ban cho ta, thì ta chớ
làm mất, nhưng ta phải làm cho sống lại nơi ngày sau rốt.
40. Ðây là ý muốn của Cha ta, phàm ai nhìn Con và tin Con, thì được sự sống đời
đời; còn ta, ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt.
41. Nhưng vì Ngài đã phán: Ta là bánh từ trên trời xuống, nên các người Giu-đa
lằm bằm về Ngài,
42. mà rằng: Ấy chẳng phải là Jêsus, con của Giô-sép, mà chúng ta đều biết cha
mẹ người chăng? Vậy, thể nào người nói được rằng: Ta đã từ trên trời mà xuống?
43. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Các ngươi chớ lằm bằm với nhau.
44. Ví bằng Cha, là Ðấng sai ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng
ta, và ta sẽ làm cho người đó sống lại nơi ngày sau rốt.
45. Các sách tiên tri có chép rằng: Ai nấy đều sẽ được Ðức Chúa Trời dạy dỗ. Hễ
ai đã nghe Cha và học theo Ngài thì đến cùng ta.
46. Ấy chẳng phải kẻ nào đã từng thấy Cha, trừ ra Ðấng từ Ðức Chúa Trời mà đến;
Ðấng ấy đã thấy Cha.
47. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ ai tin thì được sự sống đời
đời.
48. Ta là bánh của sự sống.
49. Tổ phụ các ngươi đã ăn ma-na trong đồng vắng, rồi cũng chết.
50. Ðây là bánh từ trời xuống, hầu cho ai ăn chẳng hề chết.
51. Ta là bánh từ trên trời xuống; nếu ai ăn bánh ấy, thì sẽ sống vô cùng; và
bánh mà ta sẽ ban cho vì sự sống của thế gian tức là thịt ta.
52. Bởi đó, các người Giu-đa cãi lẽ với nhau, mà rằng: Lẽ nào người nầy lấy thịt
mình cho chúng ta ăn sao?
53. Ðức Chúa Jêsus bèn phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các
ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt của Con người, cùng không uống huyết Ngài,
thì chẳng có sự sống trong các ngươi đâu.
54. Ai ăn thịt và uống huyết ta thì được sự sống đời đời; nơi ngày sau rốt, ta
sẽ khiến người đó sống lại.
55. Vì thịt ta thật là đồ ăn, huyết ta thật là đồ uống.
56. Người nào ăn thịt ta và uống huyết ta, thì ở trong ta, và ta ở trong người.
57. Như Cha, là Ðấng hằng sống, đã sai ta đến, và ta sống bởi Cha; cũng một thể
ấy, người nào ăn ta, sẽ sống bởi ta vậy.
58. Ðây là bánh từ trên trời xuống. Bánh đó chẳng phải như ma-na mà tổ phụ các
ngươi đã ăn, rồi cũng sẽ chết; kẻ nào ăn bánh nầy sẽ sống đời đời.
59. Ðức Chúa Jêsus phán những điều đó lúc dạy dỗ trong nhà hội tại thành
Ca-bê-na-um.
60. Có nhiều môn đồ nghe Ngài, thì nói rằng: Lời nầy thật khó; ai nghe được?
61. Nhưng Ðức Chúa Jêsus tự mình biết môn đồ lằm bằm về việc đó, bèn phán rằng:
Ðiều đó xui cho các ngươi vấp phạm sao?
62. Vậy, nếu các ngươi thấy Con người lên nơi Ngài vốn ở khi trước thì thể nào?
63. Ấy là thần linh làm cho sống, xác thịt chẳng ích chi. Những lời ta phán cùng
các ngươi đều là thần linh và sự sống.
64. Song trong vòng các ngươi có kẻ không tin. Vì Ðức Chúa Jêsus biết từ ban
đầu, ai là kẻ không tin, ai là kẻ sẽ phản Ngài.
65. Ngài lại phán rằng: Chính vì cớ đó, mà ta đã nói cùng các ngươi rằng nếu Cha
chẳng ban cho, thì chẳng ai tới cùng ta được.
66. Từ lúc ấy, có nhiều môn đồ Ngài trở lui, không đi với Ngài nữa.
67. Ðức Chúa Jêsus phán cùng mười hai sứ đồ rằng: Còn các ngươi, cũng muốn lui
chăng?
68. Si-môn Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, chúng tôi đi theo ai? Chúa có những lời
của sự sống đời đời;
69. chúng tôi đã tin và nhận biết rằng Chúa là Ðấng thánh của Ðức Chúa Trời.
70. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta há chẳng đã chọn các ngươi là mười hai sứ đồ
sao? Mà một người trong các ngươi là quỉ!
71. Vả, Ngài nói về Giu-đa con Si-môn Ích-ca-ri-ốt; vì chính hắn là một trong
mười hai sứ đồ, sau sẽ phản Ngài.
Giăng 7 chọn
đoạn khác
1. Kế đó, Ðức Chúa Jêsus đi khắp xứ Ga-li-lê. Ngài không ưng đi trong xứ Giu-đê,
bởi dân Giu-đa vẫn tìm phương giết Ngài.
2. Và, ngày lễ của dân Giu-đa, gọi là lễ Lều Tạm gần đến.
3. Anh em Ngài nói rằng: Hãy đi khỏi đây, và qua xứ Giu-đê, để cho các môn đồ
cũng được xem công việc thầy làm.
4. Khi nào người ta muốn tỏ mình ra, thì không làm kín giấu việc gì. Vì thầy làm
những sự đó, hãy tỏ mình cho thiên hạ.
5. Bởi chưng chính các anh em Ngài không tin Ngài.
6. Ðức Chúa Jêsus phán cùng anh em rằng: Thì giờ ta chưa đến; còn về các ngươi,
thì giờ được tiện luôn luôn.
7. Thế gian chẳng ghét các ngươi được; nhưng ghét ta, vì ta làm chứng nầy về họ
rằng công việc họ là ác.
8. Các ngươi hãy lên dự lễ nầy, còn ta chưa lên dự lễ đó, vì thì giờ ta chưa
trọn.
9. Ngài nói xong, cứ ở lại xứ Ga-li-lê.
10. Lúc anh em Ngài đã lên dự lễ rồi, thì Ngài cũng lên, nhưng đi cách kín giấu,
không thố lộ.
11. Vậy, các người Giu-đa tìm Ngài trong ngày lễ, và nói rằng: Nào người ở đâu?
12. Trong đám đông có tiếng xôn xao bàn về Ngài. Người thì nói: Ấy là một người
lành; kẻ thì nói: Không phải; người phỉnh dỗ dân chúng!
13. Song chẳng ai dám nói về Ngài tỏ tường, vì sợ dân Giu-đa.
14. Giữa kỳ lễ, Ðức Chúa Jêsus lên đền thờ dạy dỗ.
15. Các người Giu-đa sững sờ mà nói rằng: Người nầy chưa từng học, làm sao biết
được Kinh Thánh?
16. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ðạo lý của ta chẳng phải bởi ta, nhưng bởi Ðấng đã
sai ta đến.
17. Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Ðức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có
phải là bởi Ðức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta.
18. Kẻ nói theo ý mình, thì tìm vinh hiển riêng mình; nhưng kẻ tìm vinh hiển của
Ðấng đã sai mình đến, mới là chân thật, và chắc trong mình không có điều gì
không công bình đâu.
19. Môi-se há chẳng ban luật pháp cho các ngươi sao? Mà trong các ngươi không có
một ai tuân theo luật pháp! Cớ sao các ngươi kiếm thế giết ta?
20. Dân chúng trả lời rằng: Ngươi bị quỉ ám, nào ai là người tìm thế giết ngươi?
21. Ðức Chúa Jêsus đáp lại rằng: Ta đã làm một việc, các ngươi thảy đều lấy làm
lạ.
22. Môi-se đã truyền phép cắt bì cho các ngươi (phép đó không phải bởi Môi-se,
nhưng bởi tổ tông), và các ngươi làm phép cắt bì cho người đờn ông trong ngày
Sa-bát!
23. Nếu người đờn ông chịu phép cắt bì ngày Sa-bát, cho khỏi phạm luật pháp
Môi-se, thì sao ta chữa cho cả mình người bình được lành trong ngày Sa-bát, mà
các ngươi lại nổi giận?
24. Ðừng cứ bề ngoài mà xét đoán, nhưng phải xét đoán theo lẽ công bình.
25. Có mấy kẻ trong dân thành Giê-ru-sa-lem nói rằng: Ðó có phải là người mà
người ta tìm giết chăng?
26. Kìa, người nói tự do, mà không ai nói chi người hết. Dễ thường các quan đã
nhận thật người là Ðấng Christ?
27. Thế mà, chúng ta biết người nầy từ đâu lại; song khi Ðấng Christ sẽ đến, thì
không ai biết Ngài từ đâu đến.
28. Bấy giờ, Ðức Chúa Jêsus đang dạy trong đền thờ, thì kêu lên rằng: Các ngươi
quen ta, các ngươi biết ta từ đâu lại! Ta đã đến chẳng phải tự ta, nhưng Ðấng đã
sai ta đến là thật, mà các ngươi không biết Ngài.
29. Ta thì biết Ngài; vì ta từ Ngài đến, và Ngài là Ðấng đã sai ta đến.
30. Vậy, họ kiếm thế bắt Ngài; nhưng không ai tra tay trên Ngài, vì giờ Ngài
chưa đến.
31. Song trong vòng dân chúng nhiều kẻ tin Ngài, nói rằng: Khi Ðấng Christ đến,
sẽ có làm nhiều phép lạ hơn người nầy đã làm chăng?
32. Người Pha-ra-si nghe lời đoàn dân nghị luận về Ngài, thì mấy thầy tế lễ cả
đồng tình với họ, cắt lính đi bắt Ngài.
33. Ðức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ta còn ở với các ngươi ít lâu nữa; rồi ta đi
về cùng Ðấng sai ta đến.
34. Các ngươi sẽ kiếm ta mà chẳng thấy, và nơi ta ở, các ngươi không thể đến
được.
35. Các người Giu-đa nói với nhau rằng: Thế thì người sẽ đi đâu mà ta không tìm
được? Có phải người sẽ đi đến cùng những kẻ lưu lạc trong dân Gờ-réc và dạy dân
Gờ-réc chăng?
36. Người đã nói rằng: Các ngươi sẽ tìm ta, mà chẳng thấy, và nơi ta ở, các
ngươi không thể đến được, ấy là nghĩa làm sao?
37. Ngày sau cùng, là ngày trọng thể trong kỳ lễ, Ðức Chúa Jêsus ở đó, đứng kêu
lên rằng: Nếu người nào khát, hãy đến cùng ta mà uống.
38. Kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y như Kinh
Thánh đã chép vậy.
39. Ngài phán điều đó chỉ về Ðức Thánh Linh mà người nào tin Ngài sẽ nhận lấy;
bởi bấy giờ Ðức Thánh Linh chưa ban xuống, vì Ðức Chúa Jêsus chưa được vinh
hiển.
40. Trong đoàn dân có nhiều người nghe những lời đó, thì nói: Người nầy thật là
đấng tiên tri. Người khác thì nói: Ấy là Ðấng Christ.
41. Người khác nữa lại nói: Ðấng Christ há từ Ga-li-lê mà đến sao?
42. Kinh Thánh há chẳng nói rằng Ðấng Christ phải ra từ dòng dõi vua Ða-vít sao?
43. Vậy, dân chúng cãi lẽ nhau về Ngài.
44. Có mấy kẻ trong đám dân muốn bắt Ngài, nhưng không ai đặt tay trên mình
Ngài.
45. Vậy bọn lính trở về cùng các thầy tế lễ cả và các người Pha-ra-si. Những
người nầy hỏi họ rằng: Sao các ngươi không điệu người đến?
46. Bọn lính thưa rằng: Chẳng hề có người nào đã nói như người nầy!
47. Những người Pha-ra-si nói rằng: Các ngươi cũng đã bị phỉnh dỗ sao?
48. Có một người nào trong các quan hay là trong những người Pha-ra-si tin đến
người đó chăng?
49. Song lũ dân nầy không biết luật chi cả, thật là dân đáng rủa!
50. Ni-cô-đem (là người trước có đến cùng Ðức Chúa Jêsus và là một người trong
đám họ) nói rằng:
51. Luật chúng ta há bắt tội một người nào chưa tra hỏi đến, và chưa biết điều
người ấy đã làm, hay sao?
52. Họ trả lời rằng: Ngươi cũng là người Ga-li-lê sao? Ngươi hãy tra xét, sẽ
thấy rằng chẳng có tiên tri nào từ xứ Ga-li-lê mà ra hết.
53. Ai nấy đều trở về nhà mình.
Giăng 8 chọn
đoạn khác
1. Ðức Chúa Jêsus lên trên núi ô-li-ve.
2. Nhưng đến tảng sáng, Ngài trở lại đền thờ; cả dân sự đều đến cùng Ngài, Ngài
bèn ngồi dạy dỗ họ.
3. Bấy giờ, các thầy thông giáo và các người Pha-ra-si dẫn lại cho Ngài một
người đờn bà đã bị bắt đang khi phạm tội tà dâm; họ để người giữa đám đông,
4. mà nói cùng Ðức Chúa Jêsus rằng: Thưa thầy, người đờn bà nầy bị bắt quả tang
về tội tà dâm.
5. Vả, trong luật pháp Môi-se có truyền cho chúng ta rằng nên ném đá những hạng
người như vậy; còn thầy, thì nghĩ sao?
6. Họ nói vậy để thử Ngài, hầu cho có thể kiện Ngài. Nhưng Ðức Chúa Jêsus cúi
xuống, lấy ngón tay viết trên đất.
7. Vì họ cứ hỏi nữa, thì Ngài ngước lên và phán rằng: Ai trong các ngươi là
người vô tội, hãy trước nhứt ném đá vào người.
8. Rồi Ngài lại cúi xuống cứ viết trên mặt đất.
9. Khi chúng nghe lời đó, thì kế nhau mà đi ra, những người có tuổi đi trước;
Ðức Chúa Jêsus ở lại một mình với người đờn bà, người vẫn đương đứng chính giữa
đó.
10. Ðức Chúa Jêsus bấy giờ lại ngước lên, không thấy ai hết, chỉ có người đờn
bà, bèn phán rằng: Hỡi mụ kia, những kẻ cáo ngươi ở đâu? Không ai định tội ngươi
sao?
11. Người thưa rằng: Lạy Chúa, không ai hết. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ta cũng
không định tội ngươi; hãy đi, đừng phạm tội nữa.
12. Ðức Chúa Jêsus lại cất tiếng phán cùng chúng rằng: Ta là sự sáng của thế
gian; người nào theo ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự
sống.
13. Người Pha-ra-si bèn nói rằng: Thầy tự làm chứng về mình, thì lời chứng thầy
không đáng tin.
14. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Dẫu ta tự làm chứng về mình, nhưng lời chứng ta là
đáng tin, vì ta biết mình đã từ đâu đến và đi đâu; song các ngươi không biết ta
từ đâu mà đến, cũng chẳng hay ta đi đâu.
15. Các ngươi xét đoán theo xác thịt; ta thì không xét đoán người nào hết.
16. Nếu ta xét đoán ai, sự xét đoán của ta đúng với lẽ thật; vì ta không ở một
mình, nhưng Cha là Ðấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta.
17. Vả, có chép trong luật pháp của các ngươi rằng lời chứng hai người là đáng
tin:
18. ta tự làm chứng cho ta, và Cha là Ðấng đã sai ta đến cũng làm chứng cho ta.
19. Chúng thưa cùng Ngài rằng: Cha của thầy ở đâu? Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Các
ngươi chẳng biết ta, và cũng chẳng biết Cha ta. Nếu các ngươi biết ta, thì cũng
biết Cha ta nữa.
20. Ðức Chúa Jêsus phán mọi lời đó tại nơi Kho, đương khi dạy dỗ trong đền thờ;
và không ai tra tay trên Ngài, vì giờ Ngài chưa đến.
21. Ngài lại phán cùng chúng rằng: Ta đi, các ngươi sẽ tìm ta, và các ngươi sẽ
chết trong tội lỗi mình. Các ngươi không thể đến được nơi ta đi.
22. Người Giu-đa bèn nói rằng: Người đã nói: Các ngươi không thể đến được nơi ta
đi, vậy người sẽ tự tử sao?
23. Ngài phán rằng: Các ngươi bởi dưới mà có; còn ta bởi trên mà có. Các ngươi
thuộc về thế gian nầy; còn ta không thuộc về thế gian nầy.
24. Nên ta đã bảo rằng các ngươi sẽ chết trong tội lỗi mình; vì nếu các ngươi
chẳng tin ta là Ðấng đó, thì chắc sẽ chết trong tội lỗi các ngươi.
25. Chúng bèn hỏi Ngài rằng: Vậy thầy là ai? Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Như lời ta
đã nói với các ngươi từ ban đầu.
26. Ta có nhiều sự nói và đoán xét về các ngươi; nhưng Ðấng đã sai ta đến là
thật, và điều chi ta nghe bởi Ngài, ta truyền lại cho thế gian.
27. Chúng không hiểu rằng Ngài phán về Cha.
28. Vậy Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Khi các ngươi treo Con người lên, bấy giờ sẽ
biết ta là ai, và biết ta không tự mình làm điều gì, nhưng nói điều Cha ta đã
dạy ta.
29. Ðấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta, chẳng để ta ở một mình, vì ta hằng làm sự
đẹp lòng Ngài.
30. Bởi Ðức Chúa Jêsus nói như vậy, nên có nhiều kẻ tin Ngài.
31. Bấy giờ Ngài phán cùng những người Giu-đa đã tin Ngài, rằng: Nếu các ngươi
hằng ở trong đạo ta, thì thật là môn đồ ta;
32. các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi.
33. Người Giu-đa thưa rằng: Chúng tôi là dòng dõi Áp-ra-ham, chưa hề làm tôi mọi
ai, vậy sao thầy nói rằng: Các ngươi sẽ trở nên tự do?
34. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai phạm
tội lỗi là tôi mọi của tội lỗi.
35. Vả, tôi mọi không ở luôn trong nhà, mà con thì ở đó luôn.
36. Vậy nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do.
37. Ta biết rằng các ngươi là dòng dõi Áp-ra-ham, nhưng các ngươi tìm thế để
giết ta, vì đạo ta không được chỗ nào ở trong lòng các ngươi.
38. Ta nói điều ta đã thấy nơi Cha ta; còn các ngươi cứ làm điều đã học nơi cha
mình.
39. Chúng trả lời rằng: Cha chúng tôi tức là Áp-ra-ham, Ðức Chúa Jêsus phán
rằng: Nếu các ngươi là con Áp-ra-ham, thì chắc sẽ làm công việc của Áp-ra-ham.
40. Nhưng hiện nay, các ngươi tìm mưu giết ta, là người lấy lẽ thật đã nghe nơi
Ðức Chúa Trời mà nói với các ngươi; Áp-ra-ham chưa hề làm điều đó!
41. Các ngươi làm công việc của cha mình. Chúng nói rằng: Chúng tôi chẳng phải
là con ngoại tình; chúng tôi chỉ có một Cha, là Ðức Chúa Trời.
42. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ví bằng Ðức Chúa Trời là Cha các ngươi, thì các
ngươi sẽ yêu ta, vì ta bởi Ðức Chúa Trời mà ra và từ Ngài mà đến; bởi chưng ta
chẳng phải đã đến tự mình đâu, nhưng ấy chính Ngài đã sai ta đến.
43. Tại sao các ngươi không hiểu lời ta? Ấy là bởi các ngươi chẳng có thể nghe
được đạo của ta.
44. Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ, mà sanh ra; và các ngươi muốn làm nên sự
ưa muốn của cha mình. Vừa lúc ban đầu nó đã là kẻ giết người, chẳng bền giữ được
lẽ thật, và không có lẽ thật trong nó đâu. Khi nó nói dối, thì nói theo tánh
riêng mình, vì nó vốn là kẻ nói dối và là cha sự nói dối.
45. Nhưng vì ta nói lẽ thật, nên các ngươi không tin ta.
46. Trong các ngươi có ai bắt ta thú tội được chăng? Nếu ta nói lẽ thật, sao các
ngươi không tin ta?
47. Ai ra bởi Ðức Chúa Trời, thì nghe lời Ðức Chúa Trời; cho nên các ngươi chẳng
nghe, tại các ngươi không thuộc về Ðức Chúa Trời.
48. Người Giu-đa thưa rằng: Chúng tôi nói thầy là người Sa-ma-ri, và bị quỉ ám,
há không phải sao?
49. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta chẳng phải bị quỉ ám, nhưng ta tôn kính Cha ta,
còn các ngươi làm nhục ta.
50. Ta chẳng tìm sự vinh hiển ta, có một Ðấng tìm và đoán xét.
51. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu kẻ nào giữ lời ta, sẽ chẳng
thấy sự chết bao giờ.
52. Người Giu-đa nói rằng: Bây giờ chúng tôi thấy rõ thầy bị quỉ ám; Áp-ra-ham
đã chết, các đấng tiên tri cũng vậy, mà thầy nói: Nếu kẻ nào giữ lời ta sẽ chẳng
hề chết!
53. Thầy lại trọng hơn cha chúng tôi, Áp-ra-ham, là người đã chết sao? Các đấng
tiên tri cũng đã chết; thầy mạo xưng mình là ai?
54. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu ta tự tôn vinh, thì sự vinh hiển ta chẳng ra
gì; ấy là Cha ta làm vinh hiển ta, là Ðấng các ngươi xưng là Ðức Chúa Trời của
mình.
55. Dầu vậy, các ngươi chưa biết Ngài đâu; còn ta thì biết. Và nếu ta nói rằng
ta không biết Ngài, ta sẽ cũng nói dối như các ngươi vậy; song ta biết Ngài, và
ta giữ lời Ngài.
56. Cha các ngươi là Áp-ra-ham đã nức lòng nhìn thấy ngày của ta; người đã thấy
rồi, và mừng rỡ.
57. Người Giu-đa nói rằng: Thầy chưa đầy năm mươi tuổi, mà đã thấy Áp-ra-ham!
58. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, trước
khi chưa có Áp-ra-ham, đã có ta.
59. Bấy giờ chúng lấy đá đặng quăng vào Ngài; nhưng Ðức Chúa Jêsus đi lén trong
chúng, ra khỏi đền thờ.
Giăng 9 chọn
đoạn khác
1. Ðức Chúa Jêsus vừa đi qua, thấy một người mù từ thuở sanh ra.
2. Môn đồ hỏi Ngài rằng: Thưa thầy ai đã phạm tội, người hay là cha mẹ người, mà
người sanh ra thì mù như vậy?
3. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ðó chẳng phải tại người hay tại cha mẹ đã phạm tội;
nhưng ấy để cho những việc Ðức Chúa Trời được tỏ ra trong người.
4. Trong khi còn ban ngày, ta phải làm trọn những việc của Ðấng đã sai ta đến;
tối lại, thì không ai làm việc được.
5. Ðương khi ta còn ở thế gian, ta là sự sáng của thế gian.
6. Nói xong Ngài nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, và đem xức trên
mắt người mù.
7. Ðoạn Ngài phán cùng người rằng: Hãy đi, rửa nơi ao Si-lô-ê (nghĩa là chịu sai
đi). Vậy, người đi đến ao đó, rửa, và trở lại, thì được thấy rõ.
8. Xóm giềng người mù và những kẻ trước kia từng thấy người đi ăn mày đều nói
rằng: nầy có phải là người vẫn ngồi ăn xin đó chăng?
9. Người thì nói: Ấy là hắn; kẻ lại nói: Không phải, song một người nào giống
hắn. Người mù nói rằng: Chính tôi đây.
10. Chúng bèn hỏi người rằng: Tại sao mắt ngươi đã mở được?
11. Người trả lời rằng: Người tên gọi là Jêsus kia đã hòa bùn, xức mắt tôi, và
nói tôi rằng: hãy đi đến rửa nơi ao Si-lô-ê. Vậy, tôi đi đến, rửa tại đó, rồi
thấy được.
12. Chúng hỏi rằng: Người ấy ở đâu. Người trả lời rằng: Tôi không biết.
13. Chúng dẫn người trước đã mù đó đến cùng người Pha-ra-si.
14. Vả, ấy là ngày Sa-bát mà Ðức Chúa Jêsus đã hòa bùn và mở mắt cho người đó.
15. Người Pha-ra-si lại hỏi người thế nào được sáng mắt lại. Người rằng: Người
ấy rà bùn vào mắt tôi, tôi rửa rồi thấy được.
16. Có mấy kẻ trong những người Pha-ra-si bèn nói rằng: Người nầy không phải từ
Ðức Chúa Trời đến đâu vì không giữ ngày Sa-bát. Nhưng kẻ khác rằng: Một kẻ có
tội làm phép lạ như vậy thể nào được? Rồi họ bèn chia phe ra.
17. Bấy giờ chúng hỏi người mù nữa rằng: Còn ngươi, về người đã làm sáng mắt
ngươi đó thì ngươi nói làm sao? Người trả lời rằng: Ấy là một đấng tiên tri.
18. Song le, người Giu-đa không tin rằng người ấy trước đã mù mà được sáng lại,
cho đến khi gọi cha mẹ người đến.
19. Họ gạn hỏi rằng: Ðây có quả thật là con trai các ngươi mà các ngươi nói rằng
nó mù từ thuở sanh ra chăng? Thế thì sao bây giờ nó sáng vậy?
20. Cha mẹ người trả lời rằng: Chúng tôi nhìn biết là con trai chúng tôi nó đã
mù từ thuở sanh ra;
21. nhưng hiện nay tại làm sao thấy được, thì chúng tôi không rõ. Chúng tôi cũng
không biết ai mở mắt nó nữa. Hãy hỏi nó, nó đã đủ tuổi, chính nó sẽ nói cho.
22. Cha mẹ người nói vậy, vì sợ dân Giu-đa; bởi dân Giu-đa đã định rằng hễ ai
xưng Ðức Chúa Jêsus là Ðấng Christ thì phải bị đuổi ra khỏi nhà hội.
23. Ấy vì cớ đó cho nên cha mẹ người nói rằng: Nó đã đủ tuổi, hãy hỏi nói.
24. Vậy, người Pha-ra-si gọi người trước đã mù một lần nữa, mà nói rằng: Hãy
ngợi khen Ðức Chúa Trời, chúng ta biết người đó là kẻ có tội.
25. Người trả lời rằng: Tôi chẳng biết người có phải là kẻ có tội chăng, chỉ
biết một điều, là tôi đã mù mà bây giờ lại sáng.
26. Họ lại hỏi rằng: Người đã làm điều gì cho ngươi? Mở mắt ngươi thế nào?
27. Người trả lời rằng: Tôi đã nói với các ông rồi, mà các ông chẳng nghe tôi.
Cớ sao các ông muốn nghe lại lần nữa? Há cũng muốn làm môn đồ người chăng?
28. Họ bèn mắng nhiếc người, mà rằng: Ấy, chính ngươi là môn đồ người; còn chúng
ta là môn đồ của Môi-se.
29. Chúng ta biết Ðức Chúa Trời đã phán cùng Môi-se, nhưng người này thì chúng
ta chẳng biết bởi đâu đến.
30. Người trả lời rằng: Người đã mở mắt tôi, mà các ông chẳng biết người ở đâu
đến, ấy là sự lạ lùng lắm!
31. Chúng ta vẫn biết Ðức Chúa Trời chẳng nhậm lời kẻ có tội, mà nếu ai kính sợ
Ðức Chúa Trời, làm theo ý muốn Ngài, thì Ngài nhậm lời.
32. Người ta chẳng bao giờ nghe nói có ai mở mắt kẻ mù từ thuở sanh ra.
33. Nếu người này chẳng phải đến từ Ðức Chúa Trời, thì không làm gì được hết.
34. Chúng trả lời rằng: Cả mình ngươi sinh ra trong tội lỗi, lại muốn dạy dỗ
chúng ta sao! Ðoạn họ đuổi người ra ngoài.
35. Ðức Chúa Jêsus nghe họ đã đuổi người ra và Ngài có gặp người, bèn phán hỏi
rằng: Ngươi có tin đến Con Ðức Chúa Trời chăng?
36. Người thưa rằng: Thưa Chúa người là ai hầu cho tôi tin đến?
37. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ngươi đã thấy người và ấy là chính người đương nói
cùng ngươi.
38. Người thưa rằng: Lạy Chúa, tôi tin; bèn sấp mình xuống trước mặt Ngài.
39. Ðức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ta đã đến thế gian đặng làm sự phán xét nầy:
Hễ ai chẳng thấy, thì thấy; còn ai thấy, lại hóa mù.
40. Mấy người Pha-ra-si bên cạnh Ngài nghe điều đó, thì nói với Ngài rằng: Còn
chúng ta cũng là kẻ mù chăng?
41. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu các ngươi là kẻ mù, thì không có tội lỗi chi
hết; nhưng vì các ngươi nói rằng: Chúng ta thấy, nên tội lỗi các ngươi vẫn còn
lại.
Giăng 10 chọn
đoạn khác
1. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, kẻ nào chẳng bởi cửa mà vào chuồng
chiên, nhưng trèo vào trước nơi khác, thì người đó là trộm cướp.
2. Nhưng kẻ bởi cửa mà vào, là người chăn chiên.
3. Người canh cửa mở cho chiên nghe tiếng người chăn; người chăn kêu tên chiên
mình mà dẫn ra ngoài.
4. Khi người đã đem chiên ra hết, thì đi trước, chiên theo sau, vì chiên quen
tiếng người.
5. Nhưng chiên chẳng theo người lạ; trái lại nó chạy trốn, vì chẳng quen tiếng
người lạ.
6. Ðức Chúa Jêsus phán lời ví dụ đó, nhưng chúng không hiểu Ngài muốn nói chi.
7. Ðức Chúa Jêsus lại phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các
ngươi, ta là cửa của chiên.
8. Hết thảy những kẻ đã đến trước ta đều là quân trộm cướp; nhưng chiên không
nghe chúng nó.
9. Ta là cái cửa: nếu ai bởi ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi; họ sẽ vào ra và gặp
đồng cỏ.
10. Kẻ trộm chỉ đến để cướp giết và hủy diệt; còn ta đã đến, hầu cho chiên được
sự sống và được sự sống dư dật.
11. Ta là người chăn hiền lành; người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống
mình.
12. Kẻ chăn thuê chẳng phải là người chăn, và chiên không phải thuộc về nó. Nếu
thấy muôn sói đến thì nó bỏ chiên chạy trốn; muôn sói cướp lấy chiên và làm cho
tản lạc.
13. Ấy vì nó là kẻ chăn thuê, chẳng lo lắng chi đến chiên.
14. Ta là người chăn chiên hiền lành, ta quen chiên ta, và chiên ta quen ta,
15. cũng như Cha biết ta và ta biết Cha vậy; ta vì chiên ta phó sự sống mình.
16. Ta còn có chiên khác chẳng thuộc về chuồng này; ta cùng phải dẫn nó về nữa.
Chiên đó sẽ nghe tiếng ta, rồi sẽ chỉ có một bầy, và một người chăn mà thôi.
17. Nầy, tại sao Cha yêu ta: Ấy vì ta phó sự sống mình để được lấy lại.
18. Chẳng có ai cất sự sống ta đi, nhưng tự ta phó cho; ta có quyền phó sự sống,
và có quyền lấy lại; ta đã lãnh mạng lịnh nầy nơi Cha ta.
19. Nhơn những lời đó người Giu-đa lại chia phe ra nữa.
20. Phần nhiều người trong đám họ nói rằng: Người bị quỉ ám, người là điên sao
các ngươi nghe làm chi?
21. Kẻ khác nói rằng: Ấy đó chẳng phải là lời nói của một kẻ bị quỉ ám. Quỉ há
có thể mở mắt kẻ mù được sao?
22. Tại thành Giê-ru-sa-lem có giữ lễ Khánh Thành đền thờ. Bấy giờ là mùa đông;
23. Ðức Chúa Jêsus đi dạo trong đền thờ, dưới hiên cửa Sa-lô-môn.
24. Người Giu-đa nhóm xung quanh Ngài mà nói rằng: Thầy để chúng tôi nghĩ vơ vẫn
mãi cho đến khi nào? Nếu thầy là Ðấng Christ, hãy nói rõ cho chúng tôi.
25. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta đã bảo các ngươi, mà các ngươi không tin; những
việc ta nhơn danh Cha ta mà làm đều làm chứng cho ta.
26. Nhưng các ngươi không tin ta, vì các ngươi chẳng phải là chiên của ta.
27. Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó, và nó theo ta.
28. Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp
nó khỏi tay ta.
29. Cha ta là Ðấng lớn hơn hết đã cho ta chiên đó, và chẳng ai cướp nổi chiên đó
khỏi tay Cha.
30. Ta với Cha là một.
31. Người Giu-đa lại lượm đá đặng ném Ngài
32. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ta đã làm trước mắt các ngươi lắm việc lành bởi
Cha đến; vì việc chi mà các ngươi ném đá ta?
33. Người Giu-đa trả lời rằng: Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá
ngươi, nhưng vì lời lộng ngôn: ngươi là người, mà tự xưng là Ðức Chúa Trời.
34. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Trong luật pháp của các ngươi há chẳng chép rằng:
Ta đã phán: Các ngươi là các thần, hay sao?
35. Nếu luật pháp gọi những kẻ được lời Ðức Chúa Trời phán đến là các thần, và
nếu Kinh Thánh không thể bỏ được,
36. thì ta đây, là Ðấng Cha đã biệt ra thánh, và sai xuống thế gian, nói: Ta là
Con Ðức Chúa Trời, cớ sao các ngươi cáo ta là nói lộng ngôn?
37. Ví bằng ta không làm những việc của Cha ta, thì các ngươi chớ tin ta.
38. Còn nếu ta làm, thì, dầu các ngươi chẳng tin ta, hãy tin những việc ta, để
các ngươi hiểu và biết rằng Cha ở trong ta và ta ở trong Cha.
39. Chúng còn kiếm cách để bắt Ngài nữa; nhưng Ngài tránh khỏi tay họ.
40. Ðoạn, Ngài lại sang bên kia sông Giô-đanh, đến nơi Giăng đã làm phép báp tem
trước hết, và trú tại đó.
41. Có nhiều kẻ đến cùng Ngài, mà nói rằng: Giăng chưa làm một phép lạ nào,
nhưng mọi điều Giăng đã nói về người nầy là thật.
42. Tại đó có nhiều người tin Ngài.
Giăng 11 chọn
đoạn khác
1. Có một người đau, tên là La-xa-rơ, ở Bê-tha-ni, là làng của Ma-ri và chị
người là Ma-thê.
2. Ma-ri là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc mình lau chơn Ngài; chính
anh người là La-xa-rơ đương đau.
3. Vậy, hai chị em sai người đến thưa cùng Ðức Chúa Jêsus rằng: Lạy Chúa, nầy,
kẻ Chúa yêu mắc bịnh.
4. Ðức Chúa Jêsus vừa nghe lời đó, bèn phán rằng: Bịnh nầy không đến chết đâu,
nhưng vì sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời, hầu cho Con Ðức Chúa Trời bởi đó được
sáng danh.
5. Vả, Ðức Chúa Jêsus yêu Ma-thê, em người và La-xa-rơ.
6. Khi Ngài nghe người nầy đau, bèn ở lại hai ngày nữa trong nơi Ngài đương ở.
7. Rồi đó, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Chúng ta hãy trở về xứ Giu-đê.
8. Môn đồ thưa rằng: Thưa thầy, hôm trước dân Giu-đa tìm ném đá thầy, thầy còn
trở lại nơi họ sao!
9. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Trong ban ngày há chẳng phải có mười hai giờ sao?
nếu ai đi ban ngày, thì không vấp vì thấy sự sáng của thế gian nầy.
10. Nhưng nếu ai đi ban đêm, thì vấp, vì không có sự sáng.
11. Ngài phán như vậy, rồi tiếp rằng: La-xa-rơ, bạn ta, đương ngủ; nhưng ta đi
đánh thức người.
12. Môn đồ thưa rằng: Thưa Chúa, nếu người ngủ, chắc sẽ được lành.
13. Vả, Ðức Chúa Jêsus phán lời đó chỉ về sự chết của La-xa-rơ; song môn đồ
tưởng nói về giấc ngủ thường.
14. Ðức Chúa Jêsus bèn nói tỏ tường cùng môn đồ rằng: La-xa-rơ chết rồi.
15. Ta vì các ngươi mừng không có ta tại đó, để cho các ngươi tin; nhưng chúng
ta hãy đi đến cùng người.
16. Nhơn đó, Thô-ma, gọi là Ði-đim, nói với môn đồ khác rằng: Chúng ta cũng hãy
đi tới đó đặng chết với Ngài!
17. Khi Ðức Chúa Jêsus đến nơi, thấy đã chôn La-xa-rơ trong mộ bốn ngày rồi.
18. Vả, thành Bê-tha-ni cách thành Giê-ru-sa-lem chỉ độ mười lăm ếch-ta-đơ.
19. Có nhiều người Giu-đa đã đến đó đặng yên ủi Ma-thê và Ma-ri về sự anh chết.
20. Lúc Ma-thê nghe Ðức Chúa Jêsus đến, thì đi đón Ngài; nhưng Ma-ri thì ngồi
tại nhà.
21. Ma-thê thưa cùng Ðức Chúa Jêsus rằng: Lạy Chúa, nếu Chúa có đây, thì anh tôi
không chết;
22. mà bây giờ tôi cùng biết mọi điều Ngài sẽ xin Ðức Chúa Trời, Ðức Chúa Trời
ắt ban cho.
23. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Anh ngươi sẽ sống lại.
24. Ma-thê thưa rằng: Tôi vẫn biết rằng đến sự sống lại ngày cuối cùng, anh tôi
sẽ sống lại.
25. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ
sống, mặc dầu đã chết rồi.
26. Còn ai sống mà tin ta thì không hề chết. Ngươi tin điều đó chăng?
27. Người thưa rằng: Lạy Chúa, phải, tôi tin Chúa là Ðấng Christ, Con Ðức Chúa
Trời, là Ðấng phải đến thế gian.
28. Người nói xong, liền về, lén kêu em là Ma-ri, mà rằng: Thầy ở đằng kia,
đương gọi em lại.
29. Ma-ri vừa nghe mấy lời, vội vàng đứng dậy đến cùng Ngài.
30. Vả, Ðức Chúa Jêsus chưa vào trong làng, nhưng còn đứng nơi Ma-thê đón Ngài.
31. Khi những người Giu-đa đương ở trong nhà với Ma-ri và yên ủi người, thấy
người đứng dậy đi ra vội vả như vậy, thì theo sau, vì nghĩ rằng người đến mộ
đặng khóc.
32. Nhưng Ma-ri, lúc đã tới nơi Ðức Chúa Jêsus đứng, vừa thấy Ngài, thì sấp mình
xuống chơn Ngài mà nói rằng: Lạy Chúa, nếu có Chúa đây, thì anh tôi không chết!
33. Ðức Chúa Jêsus thấy người khóc, và những người Giu-đa đi với người cũng
khóc, bèn đau lòng cảm động mà phán rằng: Các ngươi đã chôn người ở đâu?
34. Chúng thưa rằng: Lạy Chúa, xin hãy lại coi.
35. Ðức Chúa Jêsus khóc.
36. Người Giu-đa bèn nói rằng: Kìa, người yêu La-xa-rơ là dường nào!
37. Có một vài người trong chúng nói: Người đã mở mắt kẻ mù được, há chẳng có
thể cũng làm cho người nầy không chết sao?
38. Bấy giờ, Ðức Chúa Jêsus lại đau lòng nữa, bèn đến phần mộ; mộ bằng một cái
hang, trước cửa hang có một hòn đá chận lại.
39. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy lăn hòn đá đi. Ma-thê, là em gái kẻ chết, thưa
rằng: Lạy Chúa, đã có mùi, vì người nằm đó bốn ngày rồi.
40. Ðức Chúa Jêsus lại phán: Ta há chẳng từng nói với ngươi rằng nếu ngươi tin
thì sẽ thấy sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời sao?
41. Vậy, họ lăn hòn đá đi. Ðức Chúa Jêsus bèn nhướng mắt lên trời mà rằng: Thưa
Cha, tôi tạ ơn Cha, vì đã nhậm lời tôi.
42. Tôi biết rõ rằng Cha nhậm lời tôi luôn, nhưng tôi nói vậy là vì cớ đoàn dân
nầy đứng chung quanh tôi, hầu cho họ tin rằng ấy chính Cha là Ðấng đã sai tôi
đến.
43. Khi Ngài nói xong, bèn kêu lên một tiếng lớn rằng: Hỡi La-xa-rơ, hãy ra!
44. Người chết đi ra, chơn tay buộc bằng vải liệm và mặt thì phủ khăn. Ðức Chúa
Jêsus phán cùng chúng rằng: Hãy mở cho người, và để người đi.
45. Có nhiều người Giu-đa đã đến cùng Ma-ri và thấy sự Ðức Chúa Jêsus làm bèn
tin Ngài.
46. Nhưng một vài người trong bọn đó đi tìm người Pha-ra-si, mách cho họ sự Ðức
Chúa Jêsus đã làm.
47. Các thầy tế lễ cả và người Pha-ra-si nhóm tòa công luận, bàn rằng: Người nầy
làm phép lạ nhiều lắm, chúng ta tính thế nào?
48. Nếu chúng ta để cho người làm, thì thiên hạ tin người, rồi dân Rô-ma sẽ đến
diệt nơi nầy và cả nước chúng ta nữa.
49. Nhưng một người trong bọn họ, tên là Cai-phe, làm thầy cả thượng phẩm đương
niên, nói rằng: Các ngươi chẳng biết gì hết!
50. Các ngươi chẳng xét rằng thà một người vì dân chịu chết, còn hơn cả nước bị
hư mất.
51. Vả, người nói điều đó chẳng phải tự mình, nhưng bởi làm thầy cả thượng phẩm
đương niên, người nói tiên tri về Ðức Chúa Jêsus sẽ vì dân mà chết;
52. và không những vì dân thôi, mà cũng để nhóm con cái Ðức Chúa Trời đã tản lạc
lại làm một đoàn.
53. Từ ngày đó, chúng lập mưu giết Ngài.
54. Cho nên Ðức Chúa Jêsus không tỏ mình rõ ràng trong vòng dân Giu-đa nữa, song
Ngài đi trong miền gần đồng vắng, nơi một thành gọi là Ép-ra-im; và ở lại đó với
môn đồ.
55. Lễ Vượt Qua của dân Giu-đa gần đến, có lắm người trong xứ lên thành
Giê-ru-sa-lem trước ngày lễ để tẩy uế.
56. Vậy, chúng kiếm Ðức Chúa Jêsus, và đứng trong đền thờ, nói với nhau rằng:
Các ngươi tưởng thế nào? Người không đến giữ lễ hay sao?
57. Vả, các thầy tế lễ cả và người Pha-ra-si đã ra lịnh, nếu ai biết Ðức Chúa
Jêsus ở đâu, thì phải mách với họ, để họ bắt Ngài.
Giăng 12 chọn
đoạn khác
1. Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Ðức Chúa Jêsus đến thành Bê-tha-ni, nơi La-xa-rơ
ở, là người Ngài đã khiến sống lại từ kẻ chết.
2. Người ta đãi tiệc Ngài tại đó, và Ma-thê hầu hạ; La-xa-rơ là một người trong
đám ngồi đồng bàn với Ngài.
3. Bấy giờ, Ma-ri lấy một cân dầu cam tùng hương thật, rất quí giá, xức chơn Ðức
Chúa Jesus, và lấy tóc mình mà lau; cả nhà thơm nức mùi dầu đó.
4. Nhưng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, là một môn đồ về sau phản Ngài, nói rằng:
5. Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đơ-ni-ê đặng bố thí cho kẻ nghèo?
6. Người nói vậy, chẳng phải là cho kẻ nghèo đâu, song vì người vốn là tay trộm
cướp, và giữ túi bạc, trộm lấy của người ta để ở trong.
7. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Hãy để mặc người, người đã để dành dầu thơm nầy cho
ngày chôn xác ta.
8. Vì các ngươi thường có kẻ nghèo ở với mình, còn ta, các ngươi không có ta
luôn luôn.
9. Một bọn người Giu-đa nghe Ðức Chúa Jêsus có tại đó, bèn đến, chẳng những vì
Ngài thôi, lại cũng để xem La-xa-rơ, là người Ngài đã khiến từ kẻ chết sống lại.
10. Các thầy tế lễ cả bèn định giết luôn La-xa-rơ nữa,
11. vì có nhiều người Giu-đa nhơn cớ người mà chia rẽ họ và tin theo Ðức Chúa
Jêsus.
12. Qua ngày sau, có một đám dân đông đến đặng dự lễ, biết Ðức Chúa Jêsus lên
thành Giê-ru-sa-lem,
13. bèn lấy những lá kè ra đón Ngài, và reo lên rằng: Hô-sa-na! Chúc phước cho
Ðấng nhơn danh Chúa mà đến, là Vua của Y-sơ-ra-ên!
14. Ðức Chúa Jêsus gặp một con lừa con, bèn lên cỡi, y như lời chép rằng:
15. Hỡi con gái thành Si-ôn, chớ sợ chi, nầy, Vua ngươi đến, cỡi trên lừa con
của lừa cái.
16. Môn đồ trước vốn không hiểu điều đó; nhưng đến khi Ðức Chúa Jêsus đã được
vinh hiển, mới nhớ lại những sự đó đã chép về Ngài, và người ta đã làm thành cho
Ngài.
17. Ðoàn dân ở cùng Ngài, khi Ngài kêu La-xa-rơ ra khỏi mộ và khiến từ kẻ chết
sống lại, đều làm chứng về Ngài.
18. Ấy cũng tại điều đó mà đoàn dân đi đón Ngài, vì có nghe rằng Ngài đã làm
phép lạ ấy.
19. Nhơn đó, người Pha-ra-si nói với nhau rằng: Các ngươi thấy mình chẳng làm
nổi chi hết; kìa, cả thiên hạ đều chạy theo người!
20. Và, trong đám đã lên đặng thờ lạy trong kỳ lễ, có mấy người Gờ-réc,
21. đến tìm Phi-líp, là người ở thành Bết-sai-đa, thuộc xứ Ga-li-lê, mà xin
rằng: Thưa chúa chúng tôi muốn ra mắt Ðức Chúa Jêsus.
22. Phi-líp đi nói với Anh-rê; rồi Anh-rê với Phi-líp đến thưa cùng Ðức Chúa
Jêsus.
23. Ðức Chúa Jêsus bèn đáp rằng: Giờ đã đến, khi Con người sẽ được vinh hiển.
24. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu hột giống lúa mì kia, chẳng
chết sau khi gieo xuống đất, thì cứ ở một mình; nhưng nếu chết đi, thì kết quả
được nhiều.
25. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất đi, ai ghét sự sống mình trong đời nầy thì sẽ
giữ lại đến sự sống đời đời.
26. Nếu ai hầu việc ta, thì phải theo ta, và ta ở đâu, thì kẻ hầu việc ta cũng
sẽ ở đó; nếu ai hầu việc ta, thì Cha ta ắt tôn quí người.
27. Hiện nay tâm thần ta bối rối; ta sẽ nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ
nầy! nhưng ấy cũng vì sự đó mà Con đến giờ nầy!
28. Cha ơi, xin làm sáng danh Cha! Bấy giờ có tiếng từ trên trời phán xuống
rằng: Ta đã làm sáng danh rồi, ta còn làm cho sáng danh nữa!
29. Ðoàn dân ở tại đó nghe tiếng thì nói rằng ấy là tiếng sấm; có kẻ khác nói:
Một vị thiên sứ nào nói với Ngài.
30. Ðức Chúa Jêsus cất tiếng phán rằng: Ấy chẳng phải vì ta mà tiếng nầy vang
ra, nhưng vì các ngươi.
31. Hiện bây giờ, có sự phán xét thế gian nầy, và hiện nay vua chúa của thế gian
nầy phải bị xua đuổi.
32. Còn ta, khi ta đã được treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta.
33. Ngài phán vậy để chỉ mình phải chết cách nào.
34. Ðoàn dân thưa rằng: Chúng tôi có học trong luật pháp rằng Ðấng Christ còn
đời đời, vậy sao thầy nói Con người phải bị treo lên? Con người đó là ai?
35. Ðức Chúa Jêsus bèn đáp rằng: Sự sáng còn ở giữa các ngươi ít lâu; hãy đi
trong khi các ngươi còn có sự sáng, e rằng sự tối tăm đến thình lình cùng các
ngươi chăng; kẻ đi trong nơi tối tăm thì chẳng biết mình đi đâu.
36. Các ngươi đương có sự sáng, hãy tin sự sáng, hầu cho trở nên con cái của sự
sáng. Ðức Chúa Jêsus phán như vậy, rồi đi, và ẩn mình cách xa họ.
37. Vả, dẫu Ngài đã làm bấy nhiêu phép lạ trước mặt chúng, họ cũng không tin
Ngài,
38. để được ứng nghiệm lời nầy của đấng tiên tri Ê-sai: Lạy Chúa, ai đã tin lời
giảng chúng tôi, Và cánh tay Chúa đã tỏ ra cho ai?
39. Vả lại, chúng không thể tin, vì Ê-sai lại có nói rằng:
40. Ngài đã khiến mắt họ mù, lòng họ cứng, Hầu cho mắt chẳng thấy, lòng chẳng
hiểu, Không tự hối cải, Và ta chẳng chữa lành cho.
41. Ê-sai nói điều đó, khi thấy sự vinh hiển của Ngài và nói về Ngài.
42. Nhưng, trong hàng quan trưởng cũng có nhiều người tin Ðức Chúa Jêsus; song
vì cớ người Pha-ra-si, nên không xưng Ngài ra, sợ bị đuổi khỏi nhà hội chăng.
43. Vì họ chuộng danh vọng bởi người ta đến hơn là danh vọng bởi Ðức Chúa Trời
đến.
44. Tuy vậy, Ðức Chúa Jêsus cất tiếng phán rằng: Ai tin ta, chẳng phải tin ta,
nhưng tin Ðấng đã sai ta đến.
45. Còn ai thấy ta, là thấy Ðấng đã sai ta đến.
46. Ta là sự sáng đã đến thế gian, để ai tin ta, chẳng ở nơi tối tăm nữa.
47. Lại nếu kẻ nào nghe lời ta mà không vâng giữ ấy chẳng phải ta xét đoán kẻ
đó; vì ta đến chẳng để xét đoán thế gian, nhưng để cứu chuộc.
48. Người nào bỏ ta ra và không nhận lãnh lời ta, đã có kẻ xét đoán rồi; lời ta
đã rao giảng, chính lời đó sẽ xét đoán họ nơi ngày sau cùng.
49. Bởi ta chẳng nói theo ý riêng ta; nhưng Cha sai ta đến, đã truyền lịnh cho
ta phải nói điều chi và phải nói thể nào.
50. Ta biết mạng lịnh Cha, ấy là sự sống đời đời. Vậy, những điều ta nói, thì
nói theo như Cha ta đã dặn.
Giăng 13 chọn
đoạn khác
1. Trước ngày lễ Vượt Qua, Ðức Chúa Jêsus biết giờ mình phải lìa thế gian đặng
trở về cùng Ðức Chúa Cha đến rồi; Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian,
thì cứ yêu cho đến cuối cùng.
2. Ðương bữa ăn tối (ma quỉ đã để mưu phản Ngài vào lòng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt con
trai Si-môn),
3. Ðức Chúa Jêsus biết rằng Cha đã giao phó mọi sự trong tay mình, và mình sẽ về
với Ðức Chúa Trời,
4. nên đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ra, lấy khăn vấn ngang lưng mình.
5. Kế đó, Ngài đổ Nước vào chậu, và rửa chơn cho môn đồ, lại lấy khăn mình đã
vấn mà lau chơn cho.
6. Vậy, Ngài đến cùng Si-môn Phi-e-rơ, thì người thưa rằng: Chúa ôi, chính Chúa
lại rửa chơn cho tôi sao!
7. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Hiện nay ngươi chẳng biết sự ta làm; nhưng về sau sẽ
biết.
8. Phi-e-rơ thưa rằng: Chúa sẽ chẳng rửa chơn tôi bao giờ! Ðức Chúa Jêsus đáp
rằng: Nếu ta không rửa cho ngươi, ngươi chẳng có phần chi với ta hết.
9. Si-môn Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, chẳng những rửa chơn mà thôi, lại cũng
rửa tay và đầu nữa!
10. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ai đã tắm rồi, chỉ cần rửa chơn, thì được sạch cả.
Vả, các ngươi đã được tinh sạch, nhưng chưa được tinh sạch đều.
11. Vì Ngài đã biết ai sẽ phản Ngài; tại thế cho nên Ngài phán rằng: các ngươi
chẳng phải hết thảy đều được tinh sạch.
12. Sau khi đã rửa chơn cho môn đồ, Ngài mặc áo lại; đoạn ngồi vào bàn mà phán
rằng: các ngươi có hiểu điều ta đã làm cho các ngươi chăng?
13. Các ngươi gọi ta bằng Thầy bằng Chúa; Các ngươi nói phải, vì ta thật vậy.
14. Vậy, nếu ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chơn cho các ngươi, thì các ngươi
cũng nên rửa chơn lẫn cho nhau.
15. Vì ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng làm như ta đã làm cho
các ngươi.
16. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình, sứ
giả cũng chẳng lớn hơn kẻ sai mình.
17. Ví bằng các ngươi biết những sự nầy, thì có phước, miễn là các ngươi làm
theo.
18. Ta không nói về các ngươi hết thảy, ta biết những kẻ ta đã lựa chọn; nhưng
lời nầy trong Kinh Thánh phải được ứng nghiệm: Người ăn bánh ta, dở gót nghịch
cùng ta.
19. Hiện bây giờ, ta nói điều nầy cùng các ngươi trước việc chưa xảy đến; để khi
việc xảy đến rồi, các ngươi sẽ tin ta là Ðấng đó.
20. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai tiếp người mà ta đã sai, tức
là tiếp ta; hễ ai tiếp ta, tức là tiếp Ðấng đã sai ta đến.
21. Khi Ðức Chúa Jêsus đã phán như vậy rồi, thì tâm thần Ngài bối rối, bèn tỏ ra
rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, một người trong các ngươi sẽ
phản ta.
22. Các môn đồ ngó nhau, không biết Ngài nói về ai đó.
23. Vả, có một môn đồ dựa vào ngực Ðức Chúa Jêsus, tức là người mà Ngài yêu.
24. Si-môn Phi-e-rơ ra dấu cho người đó rằng: Hãy nói cho chúng ta biết thầy
phán về ai.
25. Vậy, người nghiêng mình trên ngực Ðức Chúa Jêsus, hỏi rằng: Lạy Chúa, ấy là
ai?
26. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ấy là kẻ mà ta trao cho miếng bánh ta sẽ nhúng đây.
Ðoạn, Ngài nhúng một miếng, rồi lấy cho Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, con trai của
Si-môn.
27. Liền khi Giu-đa đã lấy miếng bánh, thì quỉ Sa-tan vào lòng người. Ðức Chúa
Jêsus bèn phán cùng người rằng: Sự ngươi làm hãy làm mau đi.
28. Nhưng các ngươi ngồi đồng bàn đó chẳng ai hiểu vì sao Ngài phán cùng người
như vậy.
29. Có kẻ tưởng rằng tại Giu-đa có túi bạc, nên Ðức Chúa Jêsus biểu người: Hãy
mua đồ chúng ta cần dùng về kỳ lễ; hay là Hãy bố thí cho kẻ nghèo.
30. Còn Giu-đa, khi lãnh lấy miếng bánh rồi, liền đi ra. Khi ấy đã tối.
31. Khi Giu-đa đã ra rồi, Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hiện bây giờ Con người được
vinh hiển, và Ðức Chúa Trời được vinh hiển nơi Con người.
32. Ðức Chúa Trời cũng sẽ làm cho Con người vinh hiển nơi chính mình Ngài, và
Ngài sẽ kíp làm cho vinh hiển.
33. Hỡi các con trẻ ta, ta còn tạm ở với các ngươi; các ngươi sẽ tìm ta, và như
ta đã nói với người Giu-đa rằng: Các ngươi không thể đến nơi ta đi, thì bây giờ
ta cũng nói với các ngươi như vậy.
34. Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau; như
ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy.
35. Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các
ngươi là môn đồ ta.
36. Si-môn Phi-e-rơ thưa cùng Ngài rằng: Lạy Chúa, Chúa đi đâu? Ðức Chúa Jêsus
đáp rằng: Nơi ta đi, bây giờ ngươi chẳng có thể theo ta được; nhưng rồi sau
ngươi sẽ theo ta.
37. Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, sao hiện bây giờ tôi không thể theo Chúa được?
Tôi liều sự sống tôi vì Chúa!
38. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ngươi liều sự sống ngươi vì ta sao! Quả thật, quả
thật, ta nói cùng ngươi, khi gà chưa gáy, ngươi đã chối ta ba lần!
Giăng 14 chọn
đoạn khác
1. Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Ðức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa.
2. Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, ta đã nói cho các ngươi rồi.
Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ.
3. Khi ta đã đi, và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các
ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó.
4. Các ngươi biết ta đi đâu, và biết đường đi nữa.
5. Thô-ma thưa rằng: Lạy Chúa, chúng tôi chẳng biết Chúa đi đâu; làm sao biết
đường được?
6. Vậy Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi
ta thì không ai được đến cùng Cha.
7. Ví bằng các ngươi biết ta, thì cũng biết Cha ta; và từ bây giờ các ngươi biết
và đã thấy Ngài.
8. Phi-líp thưa rằng: Lạy Chúa, xin chỉ Cha cho chúng tôi, thì đủ rồi.
9. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Hỡi Phi-líp, ta ở cùng các ngươi đã lâu thay, mà
ngươi chưa biết ta! Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha. Sao ngươi lại nói rằng:
Xin chỉ Cha cho chúng tôi?
10. Ngươi há không tin rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta, hay sao? Những lời
ta nói với các ngươi, chẳng phải ta tự nói; ấy là Cha ở trong ta, chính Ngài làm
trọn việc riêng của Ngài.
11. Khi ta nói rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta, thì hãy tin ta; bằng
chẳng, hãy tin bởi công việc ta.
12. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, kẻ nào tin ta, cũng sẽ làm việc
ta làm; lại cũng làm việc lớn hơn nữa, vì ta đi về cùng Cha.
13. Các ngươi nhơn danh ta mà cầu xin điều chi mặc dầu, ta sẽ làm cho, để Cha
được sáng danh nơi Con.
14. Nếu các ngươi nhơn danh ta xin điều chi, ta sẽ làm cho.
15. Nếu các ngươi yêu mến ta, thì giữ gìn các điều răn ta.
16. Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Ðấng Yên ủi khác, để ở
với các ngươi đời đời,
17. tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và
chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở
trong các ngươi.
18. Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu, ta sẽ đến cùng các ngươi.
19. Còn ít lâu, thế gian chẳng thấy ta nữa, nhưng các ngươi sẽ thấy ta; vì ta
sống thì các ngươi cũng sẽ sống.
20. Nội ngày đó, các ngươi sẽ nhận biết rằng ta ở trong Cha ta; các ngươi ở
trong ta, và ta ở trong các ngươi.
21. Ai có các điều răn của ta và vâng giữ lấy, ấy là kẻ yêu mến ta; người nào
yêu mến ta sẽ được Cha ta yêu lại, ta cũng sẽ yêu người, và tỏ cho người biết
ta.
22. Giu-đe, chớ không phải là Ích-ca-ri-ốt, thưa Ngài rằng: Lạy Chúa, vì sao
Chúa sẽ tỏ mình cho chúng tôi, mà không tỏ mình cho thế gian:
23. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu ai yêu mến ta, thì vâng giữ lời ta, Cha ta sẽ
thương yêu người, chúng ta đều đến cùng người và ở trong người.
24. Còn kẻ nào chẳng yêu mến ta, thì không vâng giữ lời ta; và lời các ngươi
nghe đó, chẳng phải bởi ta, nhưng bởi Cha, là Ðấng đã sai ta đến.
25. Ta đã nói những điều đó với các ngươi đang khi ta còn ở cùng các ngươi.
26. Nhưng Ðấng Yên ủi, tức là Ðức Thánh Linh mà Cha sẽ nhơn danh ta sai xuống,
Ðấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi điều ta đã
phán cùng các ngươi.
27. Ta để sự bình an lại cho các ngươi; ta ban sự bình an ta cho các ngươi; ta
cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối
và đừng sợ hãi.
28. Các ngươi từng nghe ta nói rằng: Ta đi, và ta trở lại cùng các ngươi. Nếu
các ngươi yêu mến ta, thì sẽ vui mừng về điều ta đi đến cùng Cha, bởi vì Cha tôn
trọng hơn ta.
29. Hiện nay ta đã nói những điều đó với các ngươi trước khi xảy đến, để khi
những điều đó xảy đến thì các ngươi tin.
30. Ta sẽ chẳng nói chi với các ngươi nữa, vì vua chúa thế gian nầy hầu đến;
người chẳng có chi hết nơi ta.
31. Nhưng thế gian phải biết rằng ta yêu mến Cha, và làm theo điều Cha đã phán
dặn. Hãy đứng dậy, chúng ta phải đi khỏi đây.
Giăng 15 chọn
đoạn khác
1. Ta là gốc nho thật, Cha ta là người trồng nho.
2. Hễ nhánh nào trong ta mà không kết quả thì Ngài chặt hết; và Ngài tỉa sửa
những nhánh nào kết quả, để được sai trái hơn.
3. Các ngươi đã được trong sạch, vì lời ta đã bảo cho.
4. Hãy cứ ở trong ta, thì ta sẽ ở trong các ngươi. Như nhánh nho, nếu không dính
vào gốc nho, thì không tự mình kết quả được, cũng một lẽ ấy, nếu các ngươi chẳng
cứ ở trong ta, thì cũng không kết quả được.
5. Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong ta và ta trong họ thì sinh
ra lắm trái; vì ngoài ta, các ngươi chẳng làm chi được.
6. Nếu ai chẳng cứ trong ta thì phải ném ra ngoài, cũng như nhánh nho; nhánh khô
đi, người ta lượm lấy, quăng vào lửa, thì nó cháy.
7. Ví bằng các ngươi cứ ở trong ta, và những lời ta ở trong các ngươi, hãy cầu
xin mọi điều mình muốn, thì sẽ được điều đó.
8. Nầy, Cha ta sẽ được sáng danh là thể nào: ấy là các ngươi được kết nhiều quả,
thì sẽ làm môn đồ của ta vậy.
9. Như Cha đã yêu thương ta thể nào, ta cũng yêu thương các ngươi thể ấy; hãy cứ
ở trong sự yêu thương của ta.
10. Nếu các ngươi vâng giữ các điều răn của ta, thì sẽ ở trong sự yêu thương ta,
cũng như chính ta đã vâng giữ các điều răn của Cha ta, và cứ ở trong sự yêu
thương Ngài.
11. Ta nói cùng các ngươi những điều đó, hầu cho sự vui mừng của ta trong các
ngươi, và sự vui mừng các ngươi được trọn vẹn.
12. Ðiều răn của ta đây nầy: Các ngươi hãy yêu nhau, cũng như ta đã yêu các
ngươi.
13. Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình.
14. Ví thử các ngươi làm theo điều ta dạy, thì các ngươi là bạn hữu ta.
15. Ta chẳng gọi các ngươi là đầy tớ nữa, vì đầy tớ chẳng biết điều chủ mình làm
nhưng ta đã gọi các ngươi là bạn hữu ta, vì ta từng tỏ cho các ngươi biết mọi
điều ta đã nghe nơi Cha ta.
16. Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi, để
các ngươi đi và kết quả, hầu cho trái các ngươi thường đậu luôn: lại cũng cho
mọi điều các ngươi sẽ nhơn danh ta cầu xin Cha, thì Ngài ban cho các ngươi.
17. Ta truyền cho các ngươi những điều răn đó, đặng các ngươi yêu mến lẫn nhau
vậy.
18. Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét ta trước các
ngươi.
19. Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình;
nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế
gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi.
20. Hãy nhớ lời ta đã nói cùng các ngươi: Ðầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình. Nếu họ
đã bắt bớ ta, ắt cũng bắt bớ các ngươi; bằng họ đã giữ lời ta, ắt cũng giữ lời
các ngươi.
21. Nhưng vì danh ta họ sẽ lấy mọi điều đó đãi các ngươi, bởi họ không biết Ðấng
đã sai ta đến.
22. Nếu ta không đến và không phán dạy họ, thì họ chẳng có tội lỗi gì; song bây
giờ họ không có thể chữa chối được tội lỗi mình.
23. Kẻ nào ghét ta cũng ghét Cha ta nữa.
24. Ví thử ta không làm giữa họ những việc mà chưa có người khác làm, thì họ vô
tội, nhưng bây giờ họ đã thấy các việc ấy, và lại ghét ta cùng Cha ta.
25. Dường ấy, để cho ứng nghiệm lời đã chép trong luật pháp họ rằng: Họ ghét ta
vô cớ.
26. Khi nào Ðấng Yên ủi sẽ đến, là Ðấng ta sẽ bởi Cha sai xuống, tức là Thần lẽ
thật ra từ Cha, ấy chính Ngài sẽ làm chứng về ta.
27. Còn các ngươi cũng sẽ làm chứng về ta, vì các ngươi đã ở cùng ta từ lúc ban
đầu vậy.
Giăng 16 chọn
đoạn khác
1. Ta bảo các ngươi những điều đó, để cho các ngươi khỏi vấp phạm.
2. Họ sẽ đuổi các ngươi ra khỏi nhà hội; vả lại, giờ đến, khi ai giết các ngươi,
tưởng rằng thế là hầu việc Ðức Chúa Trời.
3. Họ sẽ làm điều đó, vì không biết Cha, cũng không biết ta nữa.
4. Nhưng ta đã bảo những điều đó cho các ngươi, để khi giờ sẽ đến, các ngươi nhớ
lại rằng ta đã nói những điều đó rồi. Từ lúc ban đầu ta chưa nói cho các ngươi,
vì ta đương ở cùng các ngươi.
5. Hiện nay ta về cùng Ðấng đã sai ta đến, và trong các ngươi chẳng một ai hỏi
ta rằng: Thầy đi đâu?
6. Nhưng vì ta đã nói những điều đó cho các ngươi, thì lòng các ngươi chứa chan
sự phiền não.
7. Dầu vậy, ta nói thật cùng các ngươi: Ta đi là ích lợi cho các ngươi; vì nếu
ta không đi, Ðấng Yên ủi sẽ không đến cùng các ngươi đâu; song nếu ta đi, thì ta
sẽ sai Ngài đến.
8. Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự công bình và về
sự phán xét.
9. Về tội lỗi, vì họ không tin ta;
10. về sự công bình, vì ta đi đến cùng Cha và các ngươi chẳng thấy ta nữa;
11. về sự phán xét, vì vua chúa thế gian nầy đã bị đoán xét.
12. Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó
cao quá sức các ngươi.
13. Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài
không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi
những sự sẽ đến.
14. Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao
bảo cho các ngươi.
15. Mọi sự Cha có, điều là của ta; nên ta nói rằng Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta
mà rao bảo cho các ngươi vậy.
16. Còn ít lâu các ngươi sẽ chẳng thấy ta; rồi ít lâu nữa các ngươi lại thấy ta,
vì ta đi về cùng Cha.
17. Bấy giờ, một vài môn đồ nói với nhau rằng: Ngài dạy: Còn ít lâu các ngươi sẽ
chẳng thấy ta; rồi ít lâu nữa các ngươi lại thấy ta; và rằng: Vì ta về cùng Cha;
thế là làm sao?
18. Vậy, môn đồ nói rằng: Ngài nói: Ít lâu, là nghĩa gì? Chúng ta không hiểu
Ngài nói về việc chi.
19. Ðức Chúa Jêsus hiểu ý môn đồ muốn hỏi, bèn phán rằng: Ta vừa nói: Còn ít lâu
các ngươi sẽ chẳng thấy ta; rồi ít lâu nữa các ngươi lại thấy ta; các ngươi
đương hỏi nhau về nghĩa câu ấy đó chi.
20. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các ngươi sẽ khóc lóc, than vãn,
còn người đời sẽ mừng rỡ; các ngươi sẽ ở trong sự lo buồn, nhưng sự lo buồn các
ngươi sẽ đổi làm vui vẻ.
21. Người đờn bà, lúc sanh đẻ thì đau đớn, vì giờ mình đến rồi; song khi đứa con
đã lọt lòng, người không còn nhớ sự khốn khổ mình nữa, mừng rằng mình đã sanh ra
một người trong thế gian.
22. Khác nào như các ngươi hiện ở trong cơn đau đớn, nhưng ta sẽ lại thấy các
ngươi, thì lòng các ngươi vui mừng, và chẳng ai cướp lấy sự vui mừng các ngươi
được.
23. Trong ngày đó, các ngươi không còn hỏi ta về điều chi nữa. Quả thật, quả
thật, ta nói cùng các ngươi, điều chi các ngươi sẽ cầu xin nơi Cha, thì Ngài sẽ
nhơn danh ta mà ban cho các ngươi.
24. Ðến bây giờ, các ngươi chưa từng nhơn danh ta mà cầu xin điều chi hết. Hãy
cầu xin đi, các ngươi sẽ được, hầu cho sự vui mừng các ngươi được trọn vẹn.
25. Ta đã dùng ví dụ mà nói cho các ngươi mọi điều đó. Giờ đến, là khi ta chẳng
còn dùng ví dụ mà nói cùng các ngươi nữa, nhưng khi ấy ta sẽ nói rõ ràng về Cha
cho các ngươi.
26. Trong ngày đó, các ngươi sẽ nhơn danh ta mà cầu xin, ta chẳng nói rằng ta vì
các ngươi sẽ cầu xin Cha đâu;
27. vì chính Cha yêu thương các ngươi, nhơn các ngươi đã yêu mến ta, và tin rằng
ta từ nơi Cha mà đến.
28. Ta ra từ Cha mà đến thế gian; nay ta lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha.
29. Các môn đồ thưa rằng: Bây giờ thầy phán rõ ràng, và không phán bằng lời ví
dụ.
30. Bây giờ chúng tôi biết thầy thông biết mọi điều, không cần phải có ai hỏi
thầy; bởi đó nên chúng tôi tin thầy ra từ Ðức Chúa Trời.
31. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Bây giờ các ngươi tin chăng?
32. Nầy, giờ đến, đã đến rồi, là khi các ngươi sẽ tản lạc, ai đi đường nấy, và
để ta lại một mình; nhưng ta không ở một mình, vì Cha ở cùng ta.
33. Ta đã bảo các ngươi những điều đó, hầu cho các ngươi có lòng bình yên trong
ta. Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã
thắng thế gian rồi!
Giăng 17 chọn
đoạn khác
1. Ðức Chúa Jêsus phán như vậy, đoạn, ngước mắt lên trời mà rằng: Thưa Cha, giờ
đã đến; xin làm vinh hiển Con, hầu cho Con cũng làm vinh hiển Cha,
2. và nhơn quyền phép Cha đã ban cho Con cai trị loài xác thịt, Con được ban sự
sống đời đời cho những kẻ mà Cha đã giao phó cho Con.
3. Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Ðức Chúa Trời có một và thật,
cùng Jêsus Christ, là Ðấng Cha đã sai đến.
4. Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm.
5. Cha ôi! bây giờ xin lấy sự vinh hiển Con vốn có nơi Cha trước khi chưa có thế
gian mà làm vinh hiển Con nơi chính mình Cha.
6. Con đã tỏ danh Cha ra cho những người Cha giao cho Con từ giữa thế gian; họ
vốn thuộc về Cha, Cha giao họ cho Con, và họ đã giữ lời Cha.
7. Hiện nay họ đã biết rằng mọi sự Cha đã giao cho Con đều là từ Cha mà đến.
8. Vì Con đã truyền cho họ những lời Cha đã truyền cho Con, và họ đã nhận lấy;
nhìn biết quả thật rằng Con đến từ nơi Cha, và tin rằng ấy là Cha sai Con đến.
9. Con vì họ mà cầu nguyện; chẳng phải vì thế gian mà cầu nguyện, nhưng vì kẻ
Cha đã giao cho Con, bởi chưng họ thuộc về Cha.
10. Phàm mọi điều thuộc về Con tức là thuộc về Cha, mọi điều thuộc về Cha tức là
thuộc về Con, và Con nhơn họ được tôn vinh.
11. Con không ở thế gian nữa, nhưng họ còn ở thế gian, và Con về cùng Cha. Lạy
Cha thánh, xin gìn giữ họ trong danh Cha, là danh Cha đã ban cho Con, để họ cũng
hiệp làm một như chúng ta vậy.
12. Ðang khi Con còn ở với họ, Con gìn giữ họ, trừ đứa con của sự hư mất ra, thì
trong đám họ không một người nào bị thất lạc, hầu cho lời Kinh Thánh được ứng
nghiệm.
13. Nhưng bây giờ Con về cùng Cha, và đương khi còn ở thế gian, Con nói những
điều đó, hầu cho trong lòng họ được đầy dẫy sự vui mừng của Con.
14. Con đã truyền lời Cha cho họ, và thế gian ghen ghét họ, vì họ không thuộc về
thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian vậy.
15. Con chẳng cầu Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ cho khỏi
điều ác.
16. Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian.
17. Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; lời Cha tức là lẽ thật.
18. Như Cha đã sai Con trong thế gian, thì Con cũng sai họ trong thế gian.
19. Con vì họ tự làm nên thánh, hầu cho họ cũng nhờ lẽ thật mà được nên thánh
vậy.
20. Ấy chẳng những vì họ mà Con cầu xin thôi đâu, nhưng cũng vì kẻ sẽ nghe lời
họ mà tin đến Con nữa,
21. để cho ai nấy hiệp làm một, như Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha; lại để
cho họ cũng ở trong chúng ta, đặng thế gian tin rằng chính Cha đã sai Con đến.
22. Con đã ban cho họ sự vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để hiệp làm một cũng
như chúng ta vẫn là một:
23. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để cho họ toàn vẹn hiệp làm một, và cho
thế gian biết chính Cha đã sai Con đến, và Cha đã yêu thương Con.
24. Cha ôi, Con muốn Con ở đâu thì những kẻ Cha đã giao cho Con cũng ở đó với
Con, để họ ngắm xem sự vinh hiển của Con, là vinh hiển Cha đã ban cho Con, vì
Cha đã yêu Con trước khi sáng thế.
25. Hỡi Cha công bình, thế gian chẳng từng nhận biết Cha; song Con đã nhận biết
Cha, và những kẻ nầy nhận rằng chính Cha đã sai Con đến.
26. Con đã tỏ danh Cha ra cho họ, Con lại sẽ tỏ ra nữa, để cho tình yêu thương
của Cha dùng yêu thương Con ở trong họ, và chính mình Con cũng ở trong họ nữa.
Giăng 18 chọn
đoạn khác
1. Sau khi phán những điều ấy, Ðức Chúa Jêsus đi với môn đồ mình sang bên kia
khe Xết-rôn; tại đó có một cái vườn, Ngài bèn vào, môn đồ cũng vậy.
2. Vả, Giu-đa là kẻ phản Ngài, cũng biết chỗ nầy, vì Ðức Chúa Jêsus thường cùng
môn đồ nhóm họp tại đó.
3. Vậy, Giu-đa lãnh một cơ binh cùng những kẻ bởi các thầy tế lễ cả và người
Pha-ra-si sai đến, cầm đèn đuốc khí giới vào nơi đó.
4. Ðức Chúa Jêsus biết mọi điều sẽ xảy đến cho mình, bèn bước tới mà hỏi rằng:
Các ngươi tìm ai?
5. Chúng trả lời rằng: Tìm Jêsus người Na-xa-rét. Ðức Chúa Jêsus phán rằng:
Chính ta đây! Giu-đa là kẻ phản Ngài cũng đứng đó với họ.
6. Vừa khi Ðức Chúa Jêsus phán: Chính ta đây, chúng bèn thối lui và té xuống
đất.
7. Ngài lại hỏi một lần nữa: Các ngươi tìm ai? Chúng trả lời rằng: Tìm Jêsus
người Na-xa-rét.
8. Ðức Chúa Jêsus lại phán: Ta đã nói với các ngươi rằng chính ta đây; vậy nếu
các ngươi tìm bắt ta, thì hãy để cho những kẻ nầy đi.
9. Ấy để được ứng nghiệm lời Ngài đã phán: Con chẳng làm mất một người nào trong
những kẻ mà Cha đã giao cho Con.
10. Bấy giờ, Si-môn Phi-e-rơ có một thanh gươm, bèn rút ra, đánh đầy tớ của thầy
cả thượng phẩm, chém đứt tai bên hữu. Ðầy tớ đó tên là Man-chu.
11. Nhưng Ðức Chúa Jêsus phán cùng Phi-e-rơ rằng: Hãy nạp gươm ngươi vào vỏ; ta
há chẳng uống chén mà Cha đã ban cho ta uống sao?
12. Bấy giờ, cả cơ binh, người quản cơ và những kẻ sai của dân Giu-đa bắt Ðức
Chúa Jêsus trói lại.
13. Trước hết chúng giải Ngài đến An-ne; vì người nầy là ông gia Cai-phe làm
thầy cả thượng phẩm đương niên.
14. Vả, Cai-phe là người đã bàn với dân Giu-đa rằng: Thà một người chết vì dân
thì ích hơn.
15. Si-môn Phi-e-rơ với một môn đồ khác theo sau Ðức Chúa Jêsus. Môn đồ đó có
quen với thầy cả thượng phẩm, nên vào với Ðức Chúa Jêsus trong sân thầy cả
thượng phẩm.
16. Song Phi-e-rơ đứng ngoài, gần bên cửa, Môn đồ kia, tức là người quen với
thầy cả thượng phẩm, đi ra nói cùng người đờn bà canh cửa, rồi đem Phi-e-rơ vào.
17. Bấy giờ, con đòi đó, tức là người canh cửa, nói cùng Phi-e-rơ rằng: Còn
ngươi, cũng là môn đồ của người đó, phải chăng? Người trả lời rằng: Ta chẳng
phải.
18. Các đầy tớ và kẻ sai vì trời lạnh nhúm một đống lửa, rồi đứng gần một bên mà
sưởi. Phi-e-rơ đứng với họ, và cũng sưởi.
19. Vậy, thầy cả thượng phẩm gạn hỏi Ðức Chúa Jêsus về môn đồ Ngài và đạo giáo
Ngài.
20. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta từng nói rõ ràng cùng thiên hạ; ta thường dạy dỗ
trong nhà hội và đền thờ, là nơi hết thảy dân Giu-đa nhóm lại, chớ ta chẳng từng
nói kín giấu điều gì.
21. Cớ sao ngươi gạn hỏi ta? Hãy hỏi những kẻ đã nghe ta nói điều chi với họ;
những kẻ đó biết điều ta đã nói.
22. Ngài đương phán như vậy, có một người trong những kẻ sai có mặt tại đó, cho
Ngài một vả, mà rằng: Ngươi dám đối đáp cùng thầy cả thượng phẩm dường ấy sao?
23. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ví thử ta nói quấy, hãy chỉ chỗ quấy cho ta xem;
nhược bằng ta nói phải, làm sao ngươi đánh ta?
24. An-ne bèn sai giải Ðức Chúa Jêsus vẫn bị trói đến Cai-phe là thầy cả thượng
phẩm.
25. Vả lại, Si-môn Phi-e-rơ đương đứng sưởi đằng kia, thì có kẻ hỏi người rằng:
Còn ngươi, ngươi cũng là môn đồ người phải không? Người chối đi mà trả lời rằng:
Ta không phải.
26. Một người đầy tớ của thầy cả thượng phẩm, bà con với người mà Phi-e-rơ chém
đứt tai, nói rằng: Ta há chẳng từng thấy người ở trong vườn với người sao?
27. Phi-e-rơ lại chối một lần nữa; tức thì gà gáy.
28. Kế đó, chúng điệu Ðức Chúa Jêsus từ nhà Cai-phe đến trường án; bấy giờ đương
sớm mai. Nhưng chính mình chúng không vào nơi trường án, cho khỏi bị ô uế, và
cho được ăn lễ Vượt Qua.
29. Vậy, Phi-lát bước ra, đi đến cùng chúng mà hỏi rằng: Các ngươi kiện người
nầy về khoản gì?
30. Thưa rằng: Ví chẳng phải là tay gian ác, chúng tôi không nộp cho quan.
31. Phi-lát bèn truyền cho chúng rằng: Các ngươi hãy tự bắt lấy người, và xử
theo luật mình. Người Giu-đa thưa rằng: Chúng tôi chẳng có phép giết ai cả.
32. Ấy là cho được ứng nghiệm lời Ðức Chúa Jêsus đã phán, để chỉ về mình phải
chết cách nào.
33. Phi-lát bèn vào trường án, truyền đem Ðức Chúa Jêsus đến, mà hỏi rằng: Chính
ngươi là Vua dân Giu-đa phải chăng?
34. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ngươi nói điều đó tự ý mình, hay là có người đã nói
điều đó với ngươi về ta?
35. Phi-lát trả lời rằng: Nào có phải ta là người Giu-đa đâu? Dân ngươi cùng mấy
thầy tế lễ cả đã nộp ngươi cho ta; vậy ngươi đã làm điều gì?
36. Ðức Chúa Jêsus đáp lại rằng: Nước của ta chẳng phải thuộc về thế gian nầy.
Ví bằng nước ta thuộc về thế gian nầy, thì tôi tớ của ta sẽ đánh trận, đặng ta
khỏi phải nộp cho dân Giu-đa; nhưng hiện nay nước ta chẳng thuộc về hạ giới.
37. Phi-lát bèn nói rằng: Thế thì ngươi là vua sao? Ðức Chúa Jêsus đáp rằng:
Thật như lời, ta là vua. Nầy, vì sao ta đã sanh và vì sao ta đã giáng thế: ấy là
để làm chứng cho lẽ thật. Hễ ai thuộc về lẽ thật thì nghe lấy tiếng ta.
38. Phi-lát hỏi rằng: Lẽ thật là cái gì? Khi người đã hỏi vậy rồi lại đi ra đến
cùng dân Giu-đa, mà rằng: Ta chẳng thấy người có tội lỗi gì cả.
39. Nhưng các ngươi có lệ thường, hễ đến ngày lễ Vượt Qua, thì ta tha cho các
ngươi một tên tù, vậy các ngươi có muốn ta tha Vua dân Giu-đa cho chăng?
40. Chúng bèn kêu lên nữa rằng: Ðừng tha nó, nhưng tha Ba-ra-ba! Vả, Ba-ra-ba là
một kẻ trộm cướp.
Giăng 19 chọn
đoạn khác
1. Bấy giờ, Phi-lát bắt Ðức Chúa Jêsus và sai đánh đòn Ngài.
2. Bọn lính đan một cái mão triều bằng gai, đội trên đầu Ngài, và mặc cho Ngài
một cái áo điều.
3. Ðoạn, họ đến gần, nói với Ngài rằng: Lạy Vua dân Giu-đa! Họ lại cho Ngài mấy
cái vả.
4. Phi-lát ra một lần nữa, mà nói với chúng rằng: Ðây nầy, ta dẫn người ra
ngoài, để các ngươi biết rằng ta không tìm thấy người có tội lỗi chi.
5. Vậy, Ðức Chúa Jêsus đi ra, đầu đội mão triều gai, mình mặc áo điều; và
Phi-lát nói cùng chúng rằng: Kìa, xem người nầy!
6. Nhưng khi các thầy tế lễ cả và các kẻ sai thấy Ngài, thì kêu lên rằng: Hãy
đóng đinh hắn trên cây thập tự, hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự! Phi-lát nói
cùng chúng rằng: Chính mình các ngươi hãy bắt mà đóng đinh người; bởi vì về phần
ta không thấy người có tội lỗi chi hết.
7. Dân Giu-đa lại nói rằng: Chúng tôi có luật, chiếu luật đó hắn phải chết; vì
hắn tự xưng là Con Ðức Chúa Trời.
8. Khi Phi-lát đã nghe lời đó, lại càng thêm sợ hãi.
9. Người lại trở vào nơi trường án mà nói với Ðức Chúa Jêsus rằng: Ngươi từ đâu?
Nhưng Ðức Chúa Jêsus không đáp gì hết.
10. Phi-lát hỏi Ngài rằng: Ngươi chẳng nói chi với ta hết sao? Ngươi há chẳng
biết rằng ta có quyền buông tha ngươi và quyền đóng đinh ngươi sao?
11. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu chẳng phải từ trên cao đã ban cho ngươi, thì
ngươi không có quyền gì trên ta; vậy nên, kẻ nộp ta cho ngươi là có tội trọng
hơn nữa.
12. Từ lúc đó, Phi-lát kiếm cách để tha Ngài; nhưng dân Giu-đa kêu lên rằng: Ví
bằng quan tha người nầy, thì quan không phải là trung thần của Sê-sa; vì hễ ai
tự xưng là vua, ấy là xướng lên nghịch cùng Sê-sa vậy!
13. Phi-lát nghe lời đó bèn dẫn Ðức Chúa Jêsus ra ngoài, rồi ngồi trên tòa án,
tại nơi gọi là Ba-vê, mà tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Ga-ba-tha.
14. Vả, bấy giờ là ngày sắm sửa về lễ Vượt Qua, độ chừng giờ thứ sáu. Phi-lát
nói cùng dân Giu-đa rằng: Vua các ngươi kia kìa!
15. Những người đó bèn kêu lên rằng: Hãy trừ hắn đi, trừ hắn đi! Ðóng đinh hắn
trên cây thập tự đi! Phi-lát nói với chúng rằng: Ta sẽ đóng đinh Vua các ngươi
lên thập tự giá hay sao? Các thầy tế lễ cả thưa rằng: Chúng tôi không có vua
khác chỉ Sê-sa mà thôi.
16. Người bèn giao Ngài cho chúng đặng đóng đinh trên thập tự giá. Vậy, chúng
bắt Ngài và dẫn đi.
17. Ðức Chúa Jêsus vác thập tự giá mình, đi đến ngoài thành, tại nơi gọi là cái
Sọ, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Gô-gô-tha.
18. Ấy đó là chỗ họ đóng đinh Ngài, lại có hai người khác với Ngài, mỗi bên một
người, còn Ðức Chúa Jêsus ở chính giữa.
19. Phi-lát cũng sai làm một tấm bảng, rồi treo lên trên thập tự giá. Trên bảng
đó có đề chữ rằng: JÊSUS NGƯỜI NA-XA-RÉT, LÀ VUA DÂN GIU-ÐA.
20. Vì nơi Ðức Chúa Jêsus bị đóng đinh ở gần thành, và chữ đề trên bảng đó viết
bằng chữ Hê-bơ-rơ, chữ La-tinh và chữ Gờ-réc, nên có nhiều người Giu-đa đọc đến.
21. Các thầy tế lễ cả của dân Giu-đa bèn nói với Phi-lát rằng: Xin đừng viết:
Vua dân Giu-đa; nhưng viết rằng, người nói: Ta là Vua dân Giu-đa.
22. Phi-lát trả lời rằng: Lời ta đã viết, thì ta đã viết rồi.
23. Quân lính đã đóng đinh Ðức Chúa Jêsus trên thập tự giá rồi, bèn lấy áo xống
của Ngài chia làm bốn phần, mỗi tên lính chiếm một phần. Họ cũng lấy áo dài của
Ngài, nhưng áo dài đó không có đường may, nguyên một tấm vải dệt ra, từ trên chí
dưới.
24. Vậy, họ nói với nhau rằng: Ðừng xé áo nầy ra, song chúng ta hãy bắt thăm, ai
trúng nấy được. Ấy để cho được ứng nghiệm lời Kinh Thánh nầy: Chúng đã chia nhau
áo xống của ta, Lại bắt thăm lấy áo dài ta. Ðó là việc quân lính làm.
25. Tại một bên thập tự giá của Ðức Chúa Jêsus, có mẹ Ngài đứng đó, với chị mẹ
Ngài là Ma-ri vợ Cơ-lê-ô-ba, và Ma-ri Ma-đơ-len nữa.
26. Ðức Chúa Jêsus thấy mẹ mình, và một môn đồ Ngài yêu đứng gần người, thì nói
cùng mẹ rằng: Hỡi đờn bà kia, đó là con của ngươi!
27. Ðoạn, Ngài lại phán cùng người môn đồ rằng: Ðó là mẹ ngươi! Bắt đầu từ bấy
giờ, môn đồ ấy rước người về nhà mình.
28. Sau đó, Ðức Chúa Jêsus biết mọi việc đã được trọn rồi, hầu cho lời Kinh
Thánh được ứng nghiệm, thì phán rằng: Ta khát.
29. Tại đó, có một cái bình đựng đầy giấm. Vậy, họ lấy một miếng bông đá thấm
đầy giấm, buộc vào cây ngưu tất đưa kề miệng Ngài.
30. Khi Ðức Chúa Jêsus chịu lấy giấm ấy rồi, bèn phán rằng: Mọi việc đã được
trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn.
31. Vì bấy giờ là ngày sắm sửa về ngày Sa-bát, mà Sa-bát nầy là rất trọng thể,
nên dân Giu-đa ngại rằng những thây còn treo lại trên thập tự giá trong ngày
Sa-bát chăng, bèn xin Phi-lát cho đánh gãy ống chơn những người đó và cất xuống.
32. Vậy, quân lính lại, đánh gãy ống chơn người thứ nhứt, rồi đến người kia, tức
là kẻ cùng bị đóng đinh với Ngài.
33. Khi quân lính đến nơi Ðức Chúa Jêsus, thấy Ngài đã chết rồi, thì không đánh
gãy ống chơn Ngài;
34. nhưng có một tên lính lấy giáo đâm ngang sườn Ngài, tức thì máu và nước chảy
ra.
35. Kẻ đã thấy thì làm chứng về việc đó, (lời chứng của người là thật, và người
vẫn biết mình nói thật vậy), hầu cho các ngươi cũng tin.
36. Vì điều đó xảy ra, cho được ứng nghiệm lời Kinh Thánh nầy: Chẳng một cái
xương nào của Ngài sẽ bị gãy.
37. Lại có lời Kinh Thánh nầy nữa: Chúng sẽ ngó thấy người mà mình đã đâm.
38. Sau đó, Giô-sép người A-ri-ma-thê, làm môn đồ Ðức Chúa Jêsus một cách kín
giấu, vì sợ dân Giu-đa, xin phép Phi-lát cho lấy xác Ðức Chúa Jêsus; thì Phi-lát
cho phép. Vậy, người đến và lấy xác Ngài.
39. Ni-cô-đem, là người khi trước đã tới cùng Ðức Chúa Jêsus trong ban đêm, bấy
giờ cũng đến, đem theo độ một trăm cân một dược hòa với lư hội.
40. Vậy, hai người lấy xác Ðức Chúa Jêsus, dùng vải gai và thuốc thơm gói lại,
theo như tục khâm liệm của dân Giu-đa.
41. Vả, tại nơi Ngài bị đóng đinh, có một cái vườn, trong vườn đó có một cái
huyệt mới, chưa chôn ai.
42. Ấy là nơi hai người chôn Ðức Chúa Jêsus, vì bấy giờ là ngày sắm sửa của dân
Giu-đa, và mộ ấy ở gần.
Giăng 20 chọn
đoạn khác
1. Ngày thứ nhứt trong tuần lễ, lúc rạng đông, trời còn mờ mờ, Ma-ri Ma-đơ-len
tới mộ, thấy hòn đá lấp cửa mộ đã dời đi.
2. Vậy, người chạy tìm Si-môn Phi-e-rơ và môn đồ khác, là người Ðức Chúa Jêsus
yêu, mà nói rằng: Người ta đã dời Chúa khỏi mộ, chẳng hay để Ngài ở tại đâu.
3. Phi-e-rơ với môn đồ khác bèn bước ra, đi đến mồ.
4. Cả hai đều chạy, nhưng môn đồ kia chạy mau hơn Phi-e-rơ, và đến mồ trước.
5. Người cúi xuống, thấy vải bỏ dưới đất; nhưng không vào.
6. Si-môn Phi-e-rơ theo đến, vào trong mộ, thấy vải bỏ dưới đất,
7. và cái khăn liệm trùm đầu Ðức Chúa Jêsus chẳng cùng một chỗ với vải, nhưng
cuốn lại để riêng ra một nơi khác.
8. Bấy giờ, môn đồ kia đã đến mộ trước, cũng bước vào, thì thấy và tin.
9. Vì chưng hai người chưa hiểu lời Kinh Thánh rằng Ðức Chúa Jêsus phải từ kẻ
chết sống lại.
10. Ðoạn, hai môn đồ trở về nhà mình.
11. Song Ma-ri đứng bên ngoài, gần mộ, mà khóc. Người vừa khóc, vừa cúi xuống
dòm trong mộ,
12. thấy hai vị thiên sứ mặc áo trắng, một vị ngồi đằng đầu, một vị ngồi đằng
chơn, chỗ xác Ðức Chúa Jêsus đã nằm.
13. Hai thiên sứ hỏi: Hỡi đờn bà kia, sao ngươi khóc? Người thưa rằng: Vì người
ta đã dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu.
14. Vừa nói xong người xây lại thấy Ðức Chúa Jêsus tại đó; nhưng chẳng biết ấy
là Ðức Chúa Jêsus.
15. Ðức Chúa Jêsus hỏi người rằng: Hỡi đờn bà kia, sao ngươi khóc? Ngươi tìm ai?
Người ngỡ rằng đó là kẻ làm vườn bèn nói rằng: Hỡi chúa, ví thật ngươi là kẻ đã
đem Ngài đi, xin nói cho ta biết ngươi để Ngài đâu, thì ta sẽ đến mà lấy.
16. Ðức Chúa Jesus phán rằng: Hỡi Ma-ri, Ma-ri bèn xây lại, lấy tiếng Hê-bơ-rơ
mà thưa rằng: Ra-bu-ni (nghĩa là thầy)!
17. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Chớ rờ đến ta; vì ta chưa lên cùng Cha! Nhưng hãy
đi đến cùng anh em ta, nói rằng ta lên cùng Cha ta và Cha các ngươi, cùng Ðức
Chúa Trời ta và Ðức Chúa Trời các ngươi.
18. Ma-ri Ma-đơ-len đi rao bảo cho môn đồ rằng mình đã thấy Chúa, và Ngài đã
phán cùng mình những điều đó.
19. Buổi chiều nội ngày đó, là ngày thứ nhứt trong tuần lễ, những cửa nơi các
môn đồ ở đều đương đóng lại, vì sợ dân Giu-đa, Ðức Chúa Jêsus đến đứng chính
giữa các môn đồ mà phán rằng: Bình an cho các ngươi!
20. Nói đoạn, Ngài giơ tay và sườn mình cho môn đồ xem. Các môn đồ vừa thấy Chúa
thì đầy sự mừng rỡ.
21. Ngài lại phán cùng môn đồ rằng: Bình an cho các ngươi! Cha đã sai ta thể
nào, ta cũng sai các ngươi thể ấy.
22. Khi Ngài phán điều đó rồi, thì hà hơi trên môn đồ mà rằng: Hãy nhận lãnh Ðức
Thánh Linh.
23. Kẻ nào mà các ngươi tha tội cho, thì tội sẽ được tha; còn kẻ nào các ngươi
cầm tội lại, thì sẽ bị cầm cho kẻ đó.
24. Vả, lúc Ðức Chúa Jêsus đến, thì Thô-ma, tức Ði-đim, là một người trong mười
hai sứ đồ, không có ở đó với các môn đồ.
25. Các môn đồ khác nói với người rằng: Chúng ta đã thấy Chúa. Nhưng người trả
lời rằng: Nếu ta không thấy dấu đinh trong bàn tay Ngài, nếu ta không đặt ngón
tay vào chỗ dấu đinh, và nếu ta không đặt bàn tay nơi sườn Ngài, thì ta không
tin.
26. Cách tám ngày, các môn đồ lại nhóm nhau trong nhà, có Thô-ma ở với. Khi cửa
đương đóng, Ðức Chúa Jêsus đến, đứng chính giữa môn đồ mà phán rằng: Bình an cho
các ngươi!
27. Ðoạn, Ngài phán cùng Thô-ma rằng: Hãy đặt ngón tay ngươi vào đây, và xem bàn
tay ta; cũng hãy giơ bàn tay ngươi ra và đặt vào sườn ta, chớ cứng lòng, song
hãy tin!
28. Thô-ma thưa rằng: Lạy Chúa tôi và Ðức Chúa Trời tôi!
29. Ðức Chúa Jêsus phán: Vì ngươi đã thấy ta, nên ngươi tin. Phước cho những kẻ
chẳng từng thấy mà đã tin vậy!
30. Ðức Chúa Jêsus đã làm trước mặt môn đồ Ngài nhiều phép lạ khác nữa, mà không
chép trong sách nầy.
31. Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Ðức Chúa Jêsus là Ðấng
Christ, tức là Con Ðức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà
được sự sống.
Giăng 21 chọn
đoạn khác
1. Rồi đó, Ðức Chúa Jêsus lại hiện ra cùng môn đồ nơi gần biển Ti-bê-ri-át. Việc
Ngài hiện ra như vầy:
2. Si-môn Phi-e-rơ, Thô-ma gọi là Ði-đim, Na-tha-na-ên nguyên ở thành Ca-na
trong xứ Ga-li-lê các con trai của Xê-bê-đê và hai người môn đồ khác nữa nhóm
lại cùng nhau.
3. Si-môn Phi-e-rơ nói rằng: Tôi đi đánh cá. Các người kia trả lời rằng: Chúng
tôi đi với anh. Các người ấy ra đi xuống thuyền, nhưng trong đêm đó, chẳng được
chi hết.
4. Ðến sáng, Ðức Chúa Jêsus đứng trên bờ, nhưng môn đồ không biết đó là Ðức Chúa
Jêsus.
5. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi các con, không có chi ăn hết sao? Thưa rằng:
Không
6. Ngài phán rằng: Hãy thả lưới bên hữu thuyền, thì các ngươi sẽ được. Vậy, các
người ấy thả lưới xuống, được nhiều cá đến nổi không thể kéo lên nữa.
7. Môn đồ mà Ðức Chúa Jêsus yêu bèn nói với Phi-e-rơ rằng: Ấy là Chúa! Khi
Si-môn Phi-e-rơ nghe rằng ấy là Chúa, bèn lấy áo dài quấn mình (vì đương ở trần)
và nhảy xuống nước.
8. Các môn đồ khác đem thuyền trở lại, kéo tay lưới đầy cá, vì cách bờ chỉ chừng
hai trăm cu-đê mà thôi.
9. Lúc môn đồ đã lên bờ, thấy tại đó có lửa than, ở trên để cá, và có bánh.
10. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đem cá các ngươi mới đánh được đó lại đây.
11. Si-môn Phi-e-rơ xuống thuyền, kéo tay lưới đầy một trăm năm mươi ba con cá
lớn lên bờ; và, dầu nhiều cá dường ấy, lưới vẫn không đứt.
12. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy lại mà ăn. Nhưng không một người môn đồ nào
dám hỏi rằng: Ngươi là ai? Vì biết quả rằng ấy là Chúa.
13. Ðức Chúa Jêsus lại gần, lấy bánh cho môn đồ, và cho luôn cá nữa.
14. Ấy là lần thứ ba mà Ðức Chúa Jêsus hiện ra cùng môn đồ Ngài, sau khi Ngài từ
kẻ chết sống lại.
15. Khi ăn rồi, Ðức Chúa Jêsus phán cùng Si-môn Phi-e-rơ rằng: Hỡi Si-môn, con
Giô-na, ngươi yêu ta hơn những kẻ nầy chăng? Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, phải,
Chúa biết rằng tôi yêu Chúa. Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy chăn những chiên con
ta.
16. Ngài lại phán lần thứ hai cùng người rằng: Hỡi Si-môn, con Giô-na, ngươi yêu
ta chăng? Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, phải, Chúa biết rằng tôi yêu Chúa. Ðức
Chúa Jêsus phán rằng: Hãy chăn chiên ta.
17. Ngài phán cùng người đến lần thứ ba rằng: Hỡi Si-môn, con Giô-na, ngươi yêu
ta chăng? Phi-e-rơ buồn rầu vì Ngài phán cùng mình đến ba lần: Ngươi yêu ta
chăng: Người bèn thưa rằng: Lạy Chúa, Chúa biết hết mọi việc; Chúa biết rằng tôi
yêu Chúa! Ðức Chúa Jesus phán rằng: Hãy chăn chiên ta.
18. Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, khi ngươi còn trẻ, ngươi tự mình thắt
lưng lấy, muốn đi đâu thì đi; nhưng khi ngươi già, sẽ giơ bàn tay ra, người khác
thắt lưng cho và dẫn ngươi đi đến nơi mình không muốn.
19. Ngài nói điều đó để chỉ về Phi-e-rơ sẽ chết cách nào đặng sáng danh Ðức Chúa
Jêsus. Và sau khi đã phán như vậy, Ngài lại rằng: Hãy theo ta.
20. Phi-e-rơ xây lại, thấy môn đồ mà Ðức Chúa Jêsus yêu đến sau mình, tức là
người đương bữa ăn tối, nghiêng mình trên ngực Ðức Chúa Jêsus mà hỏi rằng: Lạy
Chúa, ai là kẻ phản Chúa?
21. Khi thấy người đó, Phi-e-rơ hỏi Ðức Chúa Jêsus rằng: Lạy Chúa, còn người
nầy, về sau sẽ ra thế nào?
22. Ðức Chúa Jesus đáp rằng: nếu ta muốn người cứ ở cho tới khi ta đến, thì can
hệ gì với ngươi? Còn ngươi, hãy theo ta.
23. Vậy, có tiếng đồn ra trong vòng các anh em rằng người môn đồ đó sẽ không
chết. Nhưng Ðức Chúa Jêsus vốn chẳng phải nói rằng: Người đó sẽ không chết; song
nói rằng: Nếu ta muốn người cứ ở cho tới khi ta đến, thì can hệ gì với ngươi? đó
thôi.
24. Ấy chính là môn đồ đó làm chứng về những việc nầy và đã chép lấy; chúng ta
biết lời chứng của người là thật.
25. Lại còn nhiều việc nữa mà Ðức Chúa Jêsus đã làm; ví bằng người ta cứ từng
việc mà chép hết, thì ta tưởng rằng cả thế gian không thể chứa hết các sách
người ta chép vậy.